~ 1 ~
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TÊN ĐỀ TÀI:
MẠI DÂM VỚI CÁI NHÌN CỦA SINH VIÊN
~ 2 ~
MỤC LỤC
Trang bìa……………………………………………………………… 1
Mục lục……………………………………………………………………………………… 2
Danh mục các chữ viết tắt :………………………………………………………………….2
I. Lí do chọn đề tài……………………………………………………………… 3
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………4
III. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên
cứu………………………………… 6
IV. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực
tiễn……………………………………………………………………………… 7
V. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………………………………
8
VI. Tổng quan nghiên cứu………………………………………………………… 8
Danh mục viết tắt:
Bộ LĐ – TB&XH : Bộ lao động thương binh và xã hội.
ĐHKHXH&NV : Đại học khoa học xã hội và nhân văn.
ĐHQGHN : Đại học quốc gia Hà Nội.
HIV/AIDS : HIV (Human Insuffisance Virus) là virus gây hội chứng suy giảm miễn
dịch ở người. AIDS được coi là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. AIDS (Hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, viết tắt từ Acquired Immunodeficiency
Syndrome hay từ Acquired Immune Deficiency Syndrome của tiếng Anh; còn gọi là
SIDA theo cách viết tắt từ Syndrome d'ImmunoDéficience Acquise của tiếng
Pháp) .
SAVY : là tên viết tắt tiếng Anh của Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh
niên Việt Nam (Survey Assessment of Vietnamese Youth).
GDP: là tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội (viết tắt của Gross
Domestic Product).
UINCEF: Quỹ Khẩn cấp Nhi đồng Quốc tế Liên Hiệp Quốc (tiếng Anh:United
Nations International Children's Emergency Fund)
THCS : Trung học cơ sở.
THPT : Trung học phổ thông.
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mại dâm là điểm nóng không chỉ hiện nay mà còn từ xưa đến nay, vì sao mà
trong một thời gian dài từ lúc mại dâm xuất hiên cho đến nay mại dâm
không hề thuyên giảm, mà còn có chiều hướng gia tăng thêm, với hình thức
ngày càng đa dạng và phức tạp, mặc dù đã có rất nhiều sự phê bình, chi rõ
điểm xâu,mặttrái với chuẩn mực xã hôi của nó. Cũng theo đó, cùng với sự gia
tăng mại dâm, là phát triển của những nhận định, nghiên cứu, điều tra càng
nhiều… chỉ rõ mại dâm có tác hại đến con người thế nào, ảnh hưởng đến xã
hội ra sao. Cùng hàng loạt các luật cấm hoạt động mại dâm, được ban hành
và thực hiên… Nhưng tất cả đó cũng không làm cho tình trạng mại dâm
giảm mà ngày càng tăng lên.Việt Nam là một điển hình cho sự việc này,
trong thực tế, khi pháp luật ngăn cản, tình trạng mại dâm vẫn ngày càng
tăng nhanh và khó kiểm soát. Ngày 2/8/2012, tại trụ sở Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, Cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội đã tổ chức buổi gặp
mặt báo chí về công tác phòng chống tệ nạn mại dâm và cai nghiện phục hồi.
Được biết, trong 6 tháng đầu năm 2012, lực lượng công an các cấp đã đấu
tranh, triệt phá được 528 vụ hoạt động mại dâm, bắt giữ 1.897 đối
tượng, cao hơn 49 vụ so với cùng kỳ năm ngoái. Tòa án nhân dân các cấp đã
xét xử 416 vụ , tăng 7% so với cùng kỳ năm 2011 về số vụ đưa ra xét xử (Bộ
LĐ – TB&XH). Và gần đây nhất có hang loạt vụ ca sĩ, người mẫu, diễn viên,
hoa hâu, người nổi tiếng tham gia bán dâm, tổ chức các hoạt động mại
dâm… Càng làm cho dư luận xưa nay đã không chút thiện cảm với mại dâm
nay lại càng căm phẩn trước những hành động đó. Điều này thật đúng khi
chuyên gia đầu ngành về nghiên cưu mại dâm ở nước ta, Phó giao sư, tiến sĩ:
Lê Thị Quý, khoa xã hội học, Giám đốc trung tâm nghiên cứu Giới và Phát
triển, trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN, trong một lần trao đổi ngắn với phóng
viên báo điện tử Giáo dục Việt Nam, sau vụ việc hoa hậu Nam Mê Kong Võ
Thị Mỹ Xuân bán và mô giới mại dâm bị phát hiên ngày 25/5/2012, bà đã
khẳng định rằng: “Mại dâm một cách đúng nghĩa là dịch vụ dành cho một
nhóm đối tượng khuyết tật về cơ thể, sự tự ty lớn về mặt thể chất, nhằm giúp
họ thỏa mãn và giải quyết nhu cầu sinh lý.” . Theo bà thì những người tham
gia hoạt động mại dâm là những ” đối tượng khuyết tật về cơ thể, sự tự ty
lớn về mặt thể chất”. Điều này càng chứng tỏ rằng con người chẳng có chút
cảm tình với mại dâm mà con kì thi mại dâm. Sự kì thị đó có từ xưa đến nay,
ngay cả lãnh tụ của xã hội chủ nghĩa,( chủ nghĩa xã hội là xã hội công bằng,
bình đẳng, bình quyền, mọi người đều có quyền tự do…) là Lê Nin cũng đã ví
von mại dâm là hành động chẳng khác gì “uống nước cống”… Sự kì thị, suy
nghĩ, nhìn nhận xấu về mại dâm có ở tất cả các đất nước, mà càng đặc biêt
hơn ở các nước Phương Đông. Ở các nước này mại dâm là hành vi không thể
chấp nhận được, mại dâm là một hành động phạm pháp, trái thuần phong
mỹ tục… Bất chấp tất cả sự khinh miệt, cho là trái pháp luật, trái thuần
phong mỹ tục, văn hóa dân tộc, làm suy đồi con người, nguyên nhân chính
của lây truyền nhiều căn bệnh, mà đặc biệt là căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS…
Một số nước kể trên vẫn cho phép hoạt động mại dâm diễn ra, và không
những thế mà mại dâm còn là một ngành nghề đem lại lợi nhuân cao cho các
quốc gia đó, (mại dâm còn được xem là “ngành công nghiệp siêu lợi
nhuận” ). Không những các nước phương Tây như Đức, Hà Lan… Mà còn có
sự tham gia của rất nhiều quốc gia phương Đông trong việc hợp pháp hóa
mại dâm như Thái Lan, Bangladesh,… Không chỉ gần đây mới hợp pháp hóa
mại dâm mà việc hợp pháp hóa mại dâm bắt đầu tử năm 1990, đến bây giờ
đã trải qua gần 22 năm tồn tại Vậy tại sao mại dâm là một công viêc không
hè tốt, có nhiều hệ quả, hậu qua hệ lụy mà mại dâm kéo theo, có nhiều nhìn
nhận không tốt về mại dâm, đại đa số mọi người nghĩ mại dâm là một hành
vi sai phạm trái với luân thườn đạo lý, trái pháp luật, thuần phong mỹ tục…
nó vẫn được một số nước công nhân, hợp pháp hóa và một số quốc gia khác
đang chuẩn bị xem xét tiến đến hợp pháp hóa mại dâm? Điều này đối với
những người có cái nhìn chỉ thấy những mặt đen tối của mại dâm là hoàn
toàn vô lý. Vây đối Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn là một trong
số ít những trường đào tạo chuyên nghiệp về nhiều ngành thuộc lĩnh vực
khoa học xã hội. Trong một môi trường như vậy, sinh viên được đào tạo
nghiêm túc và chuyên sâu về các môn học xã hội, chắc chắn, sẽ có một cái
nhìn đa chiều và cũng như sâu sắc hơn về vấn đề mang tính xã hội và cấp
thiết như vấn đề mại dâm này. Với đề tài nghiên cứu khoa học này, sẽ tìm
hiểu những suy nghĩ của sinh viên trường ĐHKHXH&NV - những người sẽ
làm trong lĩnh vực xã hội sau này, nghĩ gì về vấn đề mại dâm, có điểm nào
khác biệt, điểm nào mới mẻ, khác với những cách nhìn nhận, đánh giá từ
trước đến nay không?
CÁI MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
Cái mới trong đề tài nghiên cứu "Mại dâm và cái nhìn của sinh viên Nhân văn",
trong đề tài này chúng tôi không chỉ cho mọi người thấy mại dâm là một vấn đề đáng
suy nghĩ trong xã hội hiện nay. Mỗi người có một cách nhìn, cách nhận định khác
nhau về vấn đề mại dâm. Đề tài của chúng tôi không lặp lại những quan điểm trước
đây, mà đi sâu vào nghiên cứu về khía cạnh khác của mại dâm đó là có nên hay không
nên hợp thức hoá mại dâm ở Việt Nam. Đồng thời, thể hiện thái độ của sinh viên
Nhân văn đối với vấn đề này. Chúng tôi cũng đưa ra những số liệu thực tế chứng minh
khía cạnh nghiên cứu của chúng tôi không hoàn toàn vô căn cứ vì thực tế thì vẫn có
một số sinh viên đồng tình với ý kiến của chúng tôi và việc hợp pháp hoá mại dâm ở
Việt Nam là hoàn toàn có thể.
Đề tài cung cấp cho chúng ta thấy thêm những quan niệm, những ý kiến khác
nhau về vấn đề mại dâm theo cách nhìn của sinh viên. Nhưng đề tài không chỉ dừng ở
những điểm như vậy. Đề tài còn mở rộng ra hơn đó là việc chấp nhận hay không chấp
nhận vấn đề mại dâm ở Việt Nam hay không. Những nguyên nhân để chấp nhận hay
không chấp nhận về mại dâm ở một nước phương Đông như Việt Nam. Một cách nhìn
thoáng hơn so với những đề tài cùng chung chủ đề về "mại dâm".
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
• Mục đích nghiên cứu :
Đề tài này hướng đến một vấn đề nhạy cảm của xã hội hiên nay, có nhiều vấn
đề nhức nhối của cả trong nước lẫn nước ngoài, là buôn bán phụ nữ trẻ em
là nguyên nhân đẩy những người đó thành nạn nhân chính của hiện tượng
mại dâm, hay là những vụ mua bán dâm tổ chức thành đường dây mại dâm
mới được phát hiên gần đây trong giới văn nghệ sỹ, hoa hậu diễn viên ở Việt
Nam Hai hình thức đối lập giữa một bên là bị ép đến con đường mại dâm
và một bên vì ham lợi, muốn kiếm tiền nhanh chóng đi đến con đường bán
dâm và tổ chức bán dâm. Hay là sự đối lập giữa các nước, có nước hợp pháp
hóa mại dâm, có nước lại không Và có những cái nhìn khác nhau, đối lập
trái chiều về hiện tượng trên. Mà đề tài này được lập ra với các mục đích
dưới đây :
o Mục đích thứ nhất : Biết được sinh viên trường ĐHKHXH&NV nhận
định thế nào về hiện tượng mại dâm. Xem thử cái nhìn của sinh viên
của một trường đào tạo chuyên sâu các lĩnh vực về con người và xã
hội, xem mại dâm có khác gì những quan điểm, đánh giá nhìn nhận
khác. Và có gì mới mẻ về vấn đề mại dâm, khác với những quan điểm
từ trước đến nay mà mọi người vẫn nghĩ về mại dâm. Nào là một tệ
nạn xã hội, làm biến chất, suy thoái con người, đi trái cới các chuẩn
mực xã hội, là nguyên nhân lây truyền các bệnh tật nguy hiểm, đặc
biệt là HIV/AIDS, những suy nghĩ không tôt về những con người bán
dâm. Xét xem sinh viên trường ĐHKHXH&NV có cái nhìn toàn diện
hơn hay không, hay vẫn chỉ ở mức độ góc nhìn hẹp mà mọi người vẫn
nhìn thấy, vẫn nghĩ từ trước đến nay.
o Mục đích thứ hai : Phần nào thay đôi nhận thức, cách nhìn đơn chiều
về mại dâm là một hiện tượng xấu tuyệt đối không có chút gi tốt đẹp…
cái nhìn thiếu khách quan, thiếu tích cực, hay là cái nhìn đơn lẻ cá
nhân để áp dụng cho toàn bộ… của một số sinh viên của trường
ĐHKHXH&NV có cách nhìn nhận, thái độ thiếu thiện cảm của những
con người tham gia hoạt động mại dâm, như là người bán dâm,
người mua dâm, người chứa dâm… Đồng thời phản ánh suy nghĩ của
một phần giới trẻ hiện nay về mại dâm.
• Nhiệm vụ nghiên cứu :
Với những mục tiêu đã đặt ra như thế, đề tài này có các nhiệm vụ phải thực
hiện sau :
o Nhiệm vụ thứ nhất : Thực hiên điều tra sinh viên trường khoa học
xã hội và nhân văn nhìn nhận vấn đề mại dâm như thế nào, bằng các
lập bảng hỏi với nhũng nội dung thích hợp, để tham do tình hình, suy
nghĩ của sinh viên, kết hợp với phỏng vấn tìm hiểu xem sinh viên có
thái độ nào đối với nhũng đối tượng tham gia hoạt động mai dâm,
cũng như sinh viên đánh giá thế nào về các nước ngoại mà ở đó chính
phủ xem mại dâm là một ngành nghề cũng như những ngành nghề
khác, hơn nưa đây còn là một ngành nghề được ví von là « ngành
công nghiệp siêu lợi nhuận »… Đồng thời kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu đẻ tổng hợp lại đưa ra cái nhìn, thái độ của sinh viên
trường ĐHKHXH&NV về mại dâm, từ đó rút ra điểm chung, điểm
riêng , cái điểm cũ cũng như mới của những cách nghĩ, cách nhìn sinh
viên trường ĐHKHXH&NVso với những quan điểm ,cách nhìn của từ
trước đến nay của mọi người về mại dâm.
o Nhiệm vụ thứ hai : Đưa ra những cách tiếp cận mại dâm dưới cách
đa chiều, cách tiếp cận mới và tích cực hơn về mại dâm. Xác định mại
dâm là một hiện tượng xấu, nhưng không phải mọi thứ thực mại dâm
là xấu, mọi người tham gia hoạt động mại dâm là xấu. Mọi hoạt đọng
đều thoa mãn những mục đích nào đó. Và mại dâm cũng thế, mại dâm
thõa mãn nhu cầu sinh lí của con người, xét trên bình diên sinh lí bản
năng thì mại dâm là một hoạt động bình thường của con người,
nhưng khi đưa nó vào chuẩn mực xã hội thì nó lại lệch đị so với chuẩn
mực cho phép, thì nó lại là xấu. Nhưng nếu chuẩn mực xã hội thay đổi
thì ko chắc rằng hoạt động mại dâm là xấu, vi như hoạt động mại dâm
dược cấp phép ở một số nước, đó trở thành một ngành nghề thu lại
lợi nhuận cao, Hay là một số người tham gia hoạt động mại dâm
biến nó thành xấu, lây truyền các căn bệnh, biến mại dâm thành một
thứ tiêu khiên mua vui, các hoạt đông buôn bán người, các ổ mại dâm
hành hạ con người thì đó là những con người xấu Còn nhưng con
người bị ép tham gia mại dâm, muốn thoát ra khỏi nhà chứa, thi
không phải họ hoàn toàn điều xấu…
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Vơi mục đích và nhiệm vụ trên đề tìa nghiên cứu tập trung vào đối tượng và
phạm vi sau :
• Đối tượng nghiên cứu :
o Trong phạm vi của bài nghiên cứu khoa học, đối tượng nghiên cứu mà
bài nghiên cứu này tập trung, đề cập đến là thái độ , cách nhìn nhận,
đánh giá của sinh viên trường ĐHKHXH&NV về vấn đề mại dâm có
giống với mọi người vẫn nghĩ, vấn nhìn nhận đánh giá hay là có điểm
gì khác, điểm gì mới. Đồng thời nghiên cứu sẽ chỉ ra những cái nhìn
khách quan, toàn diên hơn về mại dâm và người tham gia hoat động
mại dâm.
o Khái quát tình hình của vấn đề mại dâm trong nước và trên thế giới
và sẽ tập trung tìm hiểu những xu hướng xung quanh vấn đề này, việc
một số nước đã và đang hợp pháp hóa và dự thảo về việc hợp pháp
hóa nó ở Việt Nam, xem xét xem điều đó có khả thi trong tình hình ở
nước ta hay không. Từ những lý luận đó, chúng tôi sẽ nghiên cứu một
cách khách quan hơn qua cái nhìn của sinh viên ĐHKHXH&NV.
• Phạm vi nghiên cứu :
o Khách thể nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu sinh viên trường
ĐHKHXH&NV, xem họ nghĩ , đánh giá thế nào về mại dâm. Phạm vi
không gian nghiên cứu đề tài này là trường ĐHKHXH&NV.
o Đối tượng tham gia trực tiếp bằng điều tra bảng hỏi là 100 sinh viên
được lựa chọn ngẫu nhiên, thuộc các khoa bộ môn thuộc
ĐHKHXH&NV.
IV. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
Với vấn đề nghiên cứu là mại dâm với cách nhìn nhận của sinh viên trường
khoa học xã hội và nhân văn, thì đề tài cũng có các ý nghĩ khoa học và thực
tiễn nhất định :
• Ý nghĩa khoa học :
Nêu lên những cái nhìn, những đánh giá đa chiều, cách tiếp cận vấn đề mại
dâm trên quan điểm toàn diện cả những tốt lẫn mặt xấu, những mặt tiêu cực
cũng như tích cực của hoạt động mại dâm, những con người tham gia vào
hoạt động mại dâm…
• Ý nghĩa thực tiễn :
o Giúp nhóm nghiên cứu có điều kiện vận dụng các học thuyết đã học
vào thực hành nâng cao nhận thức, qua đó nắm vững kiến thức để áp
dụng vào thực tế cuộc sống.
o Tìm ra đâu là đánh giá đúng về hoạt động mại dâm, đâu là cách nhìn
nhận của sinh viên những người tiếp xúc khá nhiều đến vấn đề mại
dâm ( trong một cuôc nghiên cứu có đến 40% sinh viên và doanh nhân
tiếp xúc với mại dâm còn lại là 60% các thành phần khác trong tổng
số người nghiên cứu). Đặc biệt là tìm ra nhận định của sinh viên
trường ĐHKHXH&NV ngôi trường đào tại sinh viên về con người và
xã hội có điểm chung và riêng gì với những nhận định đánh giá trước
đây.
o Nghiên cứu còn chỉ rõ cho các sinh viên có cái nhìn thiểu cận về mại
dâm và những người tham gia hoạt động mại dâm, là không phải đều
là xấu, không phải ai cũng muốn tham gia hoạt động mại dâm,…
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
• Câu hỏi nghiên cứu :
o Sinh viên nhân văn đánh giá mại dâm thế nào, có khác so với mọi
người đánh giá từ trước đến nay không?Liệu rằng dưới cái nhìn của
sinh viên nhân văn mại dâm không hoàn toàn là xấu?
• Phương pháp nghiên cứu :
o Nghiên cứu lý thuyết :
Trong bài nghiên cứu này, phương pháp được sử dụng chủ yếu là tìm
kiếm thông tin qua các tài liệu được lưu trữ trong thư viện trường
ĐHKHXH&NV và thư viện trung tâm đại học quốc gia cộng với các tài
liệu có sẵn trên mạng internet và các phương tiện thông tin đại
chúng.
o Nghiên cứu thực nghiệm :
Trong quá trình nghiên cứu, sẽ thực hiện một cuộc khảo sát trong
khuôn viên trường để tìm hiểu ý kiến của các sinh viên bằng cách sử
dụng phương pháp thống kê khoa học xã hội. Chúng tôi sử dụng
những kiến thức từ môn thống kê xã hội để thực hiện hoạt động này,
trong đó chúng tôi sử dụng những câu hỏi mang tính chất định tính là
chủ yếu, có cả những câu hỏi đóng và mở để có thể tìm hiểu một cách
khách quan.
VI. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Đề tại mại dâm là một đề tài nghiên cứu mà không ít những nhà nghiên cứu
đã làm, có rất nhiều các bài báo chuyên đề, những bài báo cáo về tinh trạng
mại dâm, cũng như nhũng cuỗn sách của nhiều tác giả trong ngoài nước đề
cập đến vấn đề này. Có một số cuốn sách và đề tài báo cáo chuyên đề về mại
dâm như :
I. Giã từ ma túy - mại dâm, biên soạn: Viết Thực, nhà xuất bản Lao Động
2002.
Trong quyển sách này, tác giả đề cập đến hai vấn đề là ma túy và mại dâm,
hai vấn đề bị coi là tệ nạn nghiêm trọng ở Việt Nam và cũng có liên hệ mật
thiết với nhau. Trong phần mại dâm, người biên soạn đã tổng hợp tình hình
mại dâm qua báo chí trong vòng một năm (2000-2001), trong đó có thống kê
số lượng người hành nghề, độ tuổi. Người viết còn đưa ra những số liệu cho
thấy rằng hiện tượng mại dâm không phải là cá biệt ở sinh viên đại học. Đối
tượng mua dâm chủ yếu là cán bộ nhà nước và nguồn tiền sử dụng chủ yếu
là tiền công quỹ và thu nhập bất chính cho thấy bộ máy nhà nước ta lúc này
còn khá lỏng lẻo. Trong này, tác giả còn đưa ra những nguyên nhân đưa các
đối tượng đến với con đường mại dâm đó là tình hình buôn bán phụ nữ,
những kẽ hở trong hệ thống pháp luật ở nước ta, tỉ lệ li hôn ảnh hưởng đến
tâm lí của trẻ em. Tác giả còn nói đến tính phức tạp vì hiểu ứng bóng bay của
tệ nạn này qua các mục : chống bắt quả tang ảnh hưởng đế chu mại dâm di
tản, gái mại dâm đuổi theo để tiếp thị, mại dâm làm cho nhà nông quên đồng
áng, mại dâm núp bóng các dịch vụ văn hóa và sinh hoạt ẩm thực, mại dâm
nam có nguy cơ phát triển, hậu quả của mại dâm lên kinh tế, chính trị xã hội.
Thêm vào đó, tác giả còn đưa ra những giả pháp nhằm ngăn chặn mại dâm
trong đó pháp luật là yếu tố quan trọng. Cuối cùng, tác giả đưa ra những vụ
án liên quan đến việc mua bán dâm ở Việt Nam và những kế hoạch, chương
trình hành động chống mại dâm ở nước ta trong thời gian đó. Bài viết này
viết khá đầy đủ về tình hình mại dâm ở nước ta, tuy nhiên, bài viết được viết
cách đây mười năm, so với bây giờ thì xã hội đã có nhiều sự thay đổi, có
nhiều điều trong bài viết không còn phù hợp với tình hình hiện nay, cộng với
việc những điều được viết trong này chủ yếu là những nhận xét chủ quan
của tác giả thông qua việc tổng hợp trên báo chí nên vẫn chưa thực sự
khách quan…
II. Báo cáo chuyên đề: dậy thì - sức khỏe sinh sản - sức khỏe tình dục của
thanh thiếu niên việt nam, điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh
thiều niên VN ( SAVY ) lần thứ 2 năm 2010.
Trong bài báo cáo này đề cập rất rộng đến vấn đề sức khỏe sinh sản và tình
dục của thanh thiếu niên hiện nay, một phần trong đó là những suy nghĩ của
giới trẻ về vấn đề mại dâm. Báo cáo đã có những sự sự so sánh, cụ thể như:
trong số những người có quan hệ tình dục với gái mại dâm thì tỉ lệ sống ở đô
thị cao hơn nông thôn là 6% so với 3%, tỉ lệ có trình độ đại học và cao học là
8.5% cao hơn các nhóm học vấn khác như THPT và THCS, tiểu học tương
ứng là 4.5%, 2.1% và 1.7%. Cũng đã có sự so sánh giữa những số liệu của bài
báo cáo lần này và lần thứ nhất, đó là tỉ lệ những người đã có quan hệ tình
dục với gái bám dâm giữa bài báo cáo này và trước tương ứng là 3.7% và
5.3%. Ngoài ra còn báo cáo còn thống kê về thái độ chấp nhận với hành vi
bán dâm ở giới trẻ, có khoảng 1/3 tin rằng có những hoàn cảnh mà việc bán
dâm có thể chấp nhân được, và sự nhìn nhận này có sự khác biệt không lớn
lắm giữa thành thị và nông thôn, giữa học sinh trung học và đại học…
III. Nô lệ tình dục và buôn bán phụ nữ ở châu Á, biên soạn: Louis Brown
nhà xuất bản Công An Nhân Dân, năm 2005.
Cuốn sách là sụ nhìn nhận, nghiên cứu của một người phương Tây về mại
dâm và buôn bán người của các nước Á Đông như Thái Lan, Nepal, Ân Độ,
Nhật Bản … cuốn sách được chia làm 9 chương viết về 9 mảng của đề mại
dâm và buông bán phụ nữ ở châu Ấ.
Chương 1 : Thị trường. Ở chương này tác giả nhấn mạnh mại dâm không chỉ
là tệ nạn của chỉ những nước phương Tây mà mại dâm còn tồn tại ở các
nước phương Đông, là các nước xưa nay nổi tiếng là sống trong gia giáo lễ
độ, xem mại dâm như một hành động vô sĩ không thể chấp nhận được. Ở các
nước phương Tây có hình thức kinh doanh mại dâm một kiểu khác so với
phương Đông, cũng chính vì chỉ những người đàn ông phương Đông mới
biêt mua dâm ở đâu vì vậy mà chúng ta ít có thể biết là phụ nữ phương Đông
bán dâm chủ yếu cho đàn ông phương Đông. Và tác giả còn chỉ cho chúng ta
biết hình thức tồn tại của các nhà chứa điển hình ở phương Đông, cũng vì
phương Đông ngăn cấm mại dâm nên nhà chứa cả phương Đông phải ngụy
trang dưới nhiều hình thức khác nhau, làm chúng ta có thể nhầm tưởng
không phải đó là ổ mại dâm. Qua đó tác giả cũng cho chúng ta biết điều kiện
sống của những cô gái hành nghề mại dâm ở các đất nước này, tùy theo mức
độ giàu nghèo của quốc gia nơi họ làm việc mà nhà chứa có thể là một nơi
lộng lẫy xa hoa hay là một địa ngục không lối thoát. Những người bị bán vào
những nhà chứa được ví như địa ngục chủ yếu đến từ các nước nghèo bán
sang các nước giàu…và cũng có dòng gái mại dâm di chuyển sang các nước
giàu để hành nghề. Gọi hiện tượng này đối với các nước nghèo la xuất khẩu
mại dâm, còn các nước giàu là nhập khẩu, ở Nhật Bản có đến 100 nghìn
người Thái Lan và Mianma hành nghề mại dâm, Philippin cũng tham gia vào
đại hội mại dâm khi đưa những phụ nữ sang Nhật.
Chương 2 : Hàng hóa. Mại dâm là một nghề sinh lời. Nó mang lại lợi ích cho
nhiều người, nhưng không nhất thiêt là những cô gái bán mình. Giữa mại
dâm, buôn bán phụ nữ với nghèo đói có mối liên hệ rất phức tạp nhưng mại
dâm không phải là sản phẩm của nghèo đói. Ở một số cùng nông thôn châu Á
việc nuôi dạy con cái cho mại dâm là một ngành công nghiệp nhỏ đầy lợi
nhuân. Ở châu Á phụ nữ không có giá trị, họ sẵn sàng hy sinh phụ nữ để có
người đàn ông,… Nên việc một gia đình có quá nhiều con gái cũng là một
gánh nặng, vì gia đình phải chuẩn bị nhiều lễ hồi môn cho con gái. Ngoài vẽ
đẹp và sự trinh bạch thì phụ nữ ở các nước châu Á không còn giá trị nào
khác, cũng vì thế mà trinh bạch là thứ quý giá nhất của một phụ nữ, nếu như
một phụ nữ mất đi sự trinh tiết thì chẳng ai thèm lấy cô ta vì cho là cô ta đã
bị ô uế. Ở châu Á người ta chỉ trọng con trai chứ không trọng con gái cũng
do nhiều lí do khác nhau. Chính sự lạc hậu mang đên điều này , hay cũng
chính các tông giáo mang lại sư kì thị phân biệt giới tính ở châu Á. Điều này
cũng đẩy những người con gái mất sự trinh tiết, những cô gái không có điều
kiện láy chồng,… đi đến với mại dâm. Biến sắc đẹp của mình thành một món
hàng đem ra trao đổi.
Chương 3 : Các tác nhân. Nạn buôn bán phụ nữ để cung cấp cho mại dâm là
một nghề mở rộng điều hành bởi một mạng lưới lỏng lẻo nhưng rất lớn.Nạn
buôn phụ nữ tồn tạ và phát triển là do có nhu cầu về tình dục giá rẻ có
nhiều nguyên nhân phụ nữ đến các nhà chưa, có thể là bị bắt cốc vào các nhà
chứa, hay bị bán vào nhà chứa bởi bạn thân, gia đình, hay là hôn nhân gia
tạo, lợi dụng hôn nhân để biến phụ nữ thành gái mại dâm, cũng có nguyên
nhân di kiếm tiền cuộc sống mới ở các đô thị… Đa phần các cô gái bị lừa bán
vào các nhà chứa là những cô gái thơ dại, từ nông thôn lên thành phố, bị dụ
dỗ, dẫn dắt vào nhà chứa,
Chương 4 : Đào tạo vào nghề. Trên thế giới không có gì khửng khiếp hơn là
việc trở thành gái mại dâm trong các nhà thổ rẻ tiền ở châu Á. Hẳng ngày có
hàng ngàn cô gái bị đẩy vào nghề bị áp bức về mặt tinh thần và thể xác. Và
người đàn ông sẵn sàng chi tiên để dẫm đạp lên những cô gái mới chập
chửng vào nghề. Trong các ngành nghề thì kinh nghiệm là một thế mạnh, tuy
vậy đó không đúng hoàn toàn với mại dâm. Ở châu Âu và châu Á có sự đối
lập khác nhau. Châu Âu gái mại dâm phải trẻ và có kỹ thuật thành thục như
yêu cầu của khách hàng. Còn ở châu Á, khách hàng thấy sợ khi đối mặt với
những cô gái quá hiểu biết về tình dục. Đàn ông châu Á không mua kinh
nghiệm tình dục mà họ mua những cô gái trinh trắng, thường ngây ngô và
sợ hãi và đảm bảo không nhiễm HIV/AIDS thường thì giá của những cô gái
này rất cao.
Chương 5 : Khách hàng . Để hiểu rõ về mại dâm, nô lệ tình dục và nạn nhân
buôn bán phụ nữ… Phải xem xét các câu hơi thường bị loại ra khỏi những
cuộc khảo sát cần đả động đến và tìm ra câu trả lời những câu trả lời thích
đáng cho chúng. Khách hàng là ai ? Ai đã bỏ tiền mua những cô gái bị chôn
chân làm nô lệ tình dục ? Chúng ta biết khá nhiều về gái mại dâm nhưng
chúng ta biết rất ít về các khách hàng mua dâm. Người ta thấy việc trả lời
những câu hỏi đó rất khó khăn, vì không có đủ thông tin cần thiết của các
khách hàng thương mại tình dục. Thông tin mại dâm chỉ tập trung về nạn
nhân của mại dâm và buôn bán người là phụ nữ và trẻ em. Ở châu Á, người
ta vẫn thường ngại ngùng khi băt tay vào nghiên cứu hay trao đổi về vấn đề
tình dục…
Chương 6 : Quản lý. Mại dâm không phải là một lĩnh vực thứ yếu của xã hội.
Nó không chỉ đơn giản là một gốc tối đồi bại mà ở đó thói xấu của xã hội,
sinh lý và tâm sinh lý được phơi bày và chẳng bị ai chú ý đến. Mại dâm là
một bộ phận của cấu trúc xã hội của mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gi
châu Á. Nó là một phần của những nét trang trí, là bộ phận hữu cở của các
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Trực tiếp hay gián tiếp thì mại dâm cũng ảnh
hưởng, tác đông đến mọi người. Mại dâm là một ngành kinh doanh siêu lợi
nhuận, một ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ bằng việc cung cấp các
cô gái trẻ đẹp. Quy mô của mại dâm tình dục trong khu vực châu Á rất cao.
Người ta ước tính lợi nhuận hằng năm của Nhật Bản giữa nhưng năm 90
thế kỉ trước là 4,2 tỷ yên, công nghiệp tình dục ở Indonesia chiếm từ 0.8% -
2.4% GDP trong cùng thời gian, Thái Lan từ 1993 – 1995 lợi nhuận từ mại
dâm gấp 3 lần lợi nhuận từ buôn bán ma túy Các mạng lưới tội phạm có tổ
chức quản lý khu vực lớn của công nghiệp tình dục châu Á. Thông thường thì
các tổ chức tội phạm không điều hành các công việc hằng ngày của hoạt
động kinh doanh, nhưng mà đứng ra bảo vệ và thu lợi nhuận…
Chương 7 : Luật pháp. Thứ luật pháp duy nhất đáng kể trong các ổ chứa mại
dâm là loại luật do đàn ông quyền được mua tình dục. Các bản tuyên ngôn
quốc tế và hiến pháp quốc gia nhằm hạn chế và cấm nạn mại dâm rất hợp lý
về mặt hình thức, nhưng lại không được thực thi. Trong thực tế pháp luật
chỉ biểu thị thực hiện ở một mặt của mại dâm. Thực tế luật pháp thực thi thì
chúng cũng giải thích theo kiểu phụ nữ là kẻ phạm tội.Luật pháp thường bị
lờ đi hoặc bị biến đổi đi bởi những khách hàng mua dâm, các tay chủ chứa
và những người có nhiệm vụ áp dụng pháp luật. Tất cả những người tham
gia vào hoạt động mại dâm tin kính một quyền lực cao hơn pháp luật là luật
của nam giới…
Chương 8 : Sự sống và cái chết. Sự thành công trong mại dâm hiếm khi kéo
dài. Thật không may điều đó đúng với nhiều phụ nữ trẻ phục vụ trong dịch
vụ này. HIV/AIDS đã tấn công một con số kinh khủng gái mại dâm trong khu
vực như Bắc Thái Lan, Campuchia, và các vùng ở Ấn Độ. Ở đây, phần lớn thế
hệ gái mại dâm đã bị bệnh tật quét sạch. Thậm chí những phụ nữ bán dâm
không thể tưởng tượng rằng quyết định đi vào con đường này cũng ngang
như một án tử hình.Điều đáng nói là những cô gái bị cám dỗ và bị buộc phải
làm nghề này lại có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất. Nhiều nạn nhân của tình dục và
kinh doan tình dục được lựa chọn khi còn ở tuổi thiếu niên. Họ sẽ bị khách
hàng và chử chứa loại bở khi bắt đầu tuổi 20 và chết trước khi tuổi 30. Theo
một cuộc mẫu của dự án ASHA ở Kamatipura, ước tính khoảng 60% gái mại
dâm trong khu vực bị HIV dương tính, 40% nam giơi trong vùng cũng dương
tính vơi HIV họ là những người mua dâm hoặc là chồng của các cô gái bán
dâm. Năm 1997 bộ y tế Campuchia về chương trình phòng chống HIV quốc
gia ước tính ở Phnompenh là 42%, Batambang là 58%, Sihanoukville là 52%
nhiễm HIV. Vì vậy trong bảng đánh giá toàn diện của UNICEF, 1996 nói « Nếu
không có sự thay đổi đáng kể và cách đối phó, khó mà lường trước được cái
giá mà HIV/AIDS gây ra đối với con người, kinh tế - xã hội Campuchia trong
thế kỉ tới « .
Chương 9 : Sự tủi nhục. Để trở thành gái mại dâm đã là một chuyện không
đơn giản nhưng để từ bỏ nó là cả một vấn đề, đặc biệt điều này thể hiện rõ
ràng ở các nước châu Á. Đó là bởi vì đa phần các phụ nữ trong khu vực này
còn bị đánh giá qua quan hệ với đàn ông. Dù là tự nguyện hay bị ép buột khi
tham gia mại dâm họ sẽ mang vết nhơ đến hết quãng đời còn lại. Thân xác
họ có thể thoát ra khỏi nhà chứa nhưng họ mãi mãi là gái điếm. Họ sẽ mãi
mãi phải hổ thện về việc làm của mình mà không thể chia sẽ nổi lòng cho ai,
du người đó sẵn lòng thông cảm và lắng nghe họ, Chính vấn đề tình dục đã
khiến họ phải im lặng trong sự hổ then vì dư luận cho rằng gái điếm là một
tội phạm thoái hóa biến chất chứ không phải là một nạn nhân của xã hội bất
công hay là những định luật tai ác về tình dục…
Nhận xét chung : Những tài liệu nghiên cưu, báo cáo chuyên đề trên có cả
trong và người nước, các nghiên cứu cho thấy mại dâm là một hoạt động
xấu, là hoạt động gây ra nhiều vấn đề cho toàn xã hội, như nguyên nhân lây
truyền căn bệnh HIV/AIDS, mất thuần phong mỹ tục, văn hóa dân tộc. Đáng
quan ngại hơn là hiện tượng mại dâm ngày càng phát triển, không những
chỉ những vùng đói nghèo, trình độ thấp, lạc hậu trước đây… Mà mại dâm
ngày nay còn xuất hiện và phát triển mạnh ở cả những nơi hiện đại, con
người trinh độ cao, những con người nổi tiếng. Trước đây vì nghèo khổ buột
một bộ phận người bán dâm từ nông thôn tìm ra đô thị sinh sống, rồi đi vào
con đường mại dâm, còn ngày nay con người ở trình độ cao, không thiếu
thôn về vật chất tinh thần lại là những người tham gia hoạt động mại dâm.
Dường như đã thành một trào lưu người nổi tiếng người trình độ cao tham
gia mại dâm. Vậy qua nghiên cứu này, tìm ra đâu là nhận định, ý kiến quan
điểm của sinh viên trường ĐHKHXH&NV ( là những con người trình độ cao,
đại diên cho lớp trẻ, … lại được đào tạo chuyên sâu về con người và xã hội )
như thế nào?
PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH
I. MẠI DÂM VÀ TÌNH HÌNH MẠI DÂM.
Chương 1: Các khái niệm:
Mại dâm một hiện tượng tồn tại trong xã hội đã từ rất lâu rồi, mại dâm ngày
càng đa dạng hình thức, phong phú các thành phần tham gia hoạt động mại
dâm. Ngày càng có nhiều khái niệm mới về mại dâm ra đời.
• Theo cách hiểu thông thường thì mại dâm, hay bán dâm, là hoạt động
dùng các dịch vụ tình dục ngoài hôn nhân giữa người mua
dâm và người bán dâm để trao đổi với tiền bạc, vật chất hay quyền
lợi. Đây là một hoạt động bất hợp pháp ở phần lớn các quốc gia trên
thế giới. Mại dâm tiếng Latinh là prostituere có nghĩa là “bày ra để
bán”, chỉ việc bán thân một cách tùy tiện, không thích thú. Trong Xã
hội học và Tội phạm học, theo nghĩa rộng, mại dâm có thể được định
nghĩa như việc trao đổi sự thỏa mãn tình dục lấy tiền hoặc bất cứ một
giá trị vật chất nào.[1]
• Mại dâm là sự cung cấp hành vi tình dục ngoài phạm vi vợ chồng.
Theo nhà xã hội học Pháp nổi tiếng Émile Durkheim thì tệ nạn mại
dâm cũng giống như nạn tự sát, là dấu hiệu của một xã hội rối loạn kỷ
cương và suy đồi về đạo đức. Karl Marx và Lenin, cha đẻ và lãnh tụ
của chủ nghĩa xã hội, xem mại dâm là sự buôn bán xác thịt con người,
phản ánh sự tha hóa đạo đức và áp bức bóc lột xuyên suốt lịch sử
từ chế độ nô lệ, phong kiến cho tới chủ nghĩa tư bản, là điều cần phải
xóa bỏ trong xã hội Xã hội chủ nghĩa vốn chú trọng đạo đức và công
bằng.[2]
• Quan điểm của một số nhà tâm lý học cho rằng: “mại dâm là hành vi
nhằm thực hiện các dịch vụ quan hệ tình dục có tính chất mua bán
trên cơ sở một giá trị vật chất nhất định ngoài phạm vi hôn nhân”.[3]
• Các nhà xã hội học khi nghiên cứu về mại dâm cho rằng: “mại dâm là
một dịch vụ kinh doanh nhằm cung cấp sự thỏa mãn tình dục cho cá
nhân trong những trường hợp nhất định, nó cung cấp tình dục mang
tính cách đồi trụy và tạo ra không khí vô đạo đức đáng ngờ và nguy
hiểm, tác dụng như thuốc kích thích đối với một số người nhất định,
nó cung cấp và đáp ứng như cầu tình dục cho những người không cần
sự gắn bó về tình cảm”.Vì vậy, một hành vi được coi là mại dâm khi có
các dấu hiệu đặc trưng cơ bản là có sự quan hệ trao đổi tình dục
ngoài hôn nhân và quan hệ đó có bên mua và bên bán. Mua dâm và
bán dâm là những hành vi được thực hiện ít nhất cũng là từ khi con
người biết đến lịch sử của mình và ở một chừng mực nào đó. Mua
dâm là dùng vật chất để đổi lấy sự thỏa mãn tình dục cho bản thân
mình.[4]
• Tương tự chúng ta cũng có những khái niệm liên quan: gái mại
dâm, cave, gái đĩ, gái điếm hay gái đứng đường là những phụ nữ phục
vụ đàn ông thỏa mãn hành vi tình dục ngoài hôn nhân để được trả
tiền hoặc được hưởng các lợi ích vật chất khác.
• Các từ lóng: Tương tự chúng ta cũng có những khái niệm liên quan:
gái mại dâm, cave, gái đĩ, gái điếm hay gái đứng đường là những phụ
nữ phục vụ đàn ông thỏa mãn hành vi tình dục ngoài hôn nhân để
được trảtiền hoặc được hưởng các lợi ích vật chất khác.Do sự đa
dạng về hình thức hoạt động, nên đã xuất hiện những tên gọi khác
nhau để chỉ đến gái mại dâm. Trong tiếng Việt có nhiều tên gọi khác
nhau để nói về đối tượng này như: gái làng chơi, gái bán hoa, đĩ, gái
bán dâm, gái lầu xanh, gái điếm, gái giang hồ, gái bao, gái gọi, kỹ
nữ, cave (từ tiếng Pháp cavalière, nghĩa là "bạn nhảy nữ" hay "gái
nhảy"), gái làm tiền,"hàng", phò, phạch, bớp Một số từ điển dùng cụm
từ gái mãi dâm thay cho gái mại dâm, tuy nhiên nếu cho rằng cụm từ
mãi, mại có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc thì mãi là mua, mại là bán
(thương mại là buôn bán chẳng hạn) thì dùng cụm gái mại dâm chính
xác hơn.[5]
• Theo điều 3 pháp lệnh phòng chống mại dâm năm 2003 của ủy ban
thường vụ quốc hội số 10/2003/PL-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm
2003.
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được
trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác
trả cho người bán dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.
4. Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho
mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
5. Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện
việc mua dâm, bán dâm.
6. Cưỡng bức bán dâm là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực
hoặc dùng thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm.
7. Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm
trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
8. Bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc
dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm.
( [1],[2],[3],[4],[5] Nguồn : . Và )
Chương 2: Lịch sử và nguồn gốc của mại dâm.
Mại dâm là một hoạt có cách đây từ rất lâu rồi và vẫn tồn tại và phát triển
cho đến ngày nay. Trãi qua bao nhiêu giai đoạn với nhiều hình thức mại dâm
vẫn là hoạt động không thể không có ở xã hội loài người bởi vì nó gắn liền
với nhu cầu, với bản năng của con người. Mại dâm với nguồn gốc hình thành
và lịch sử phát triển gần như đi cùng với sự phát triển xã hội loài người.
Chia là nhiều giai đoạn gồm:
• Thời cổ đại
+ Từ thời thượng cổ trước đây hơn 4.000 năm, ví dụ như tại Babylon, đã tồn
tại cái gọi là mại dâm tôn giáo. Đổi lại quà tặng, những người phụ nữ ở đó
thực hiện những hành động tình dục. Nhưng điều này có liên quan đến việc
thờ cúng thần thánh (một dạng của hiến tế) nên bản chất của nó không
giống như mại dâm ngày nay. Nó được xem là một hành động tế lễ, hiến lễ
chứ không phải là hành động tình dục vì mục đích vật chất, mà ngày nay mai
dâm mang nghĩa. Ở nhiều đền thờ nhiều thiếu nữ thực hiện hành vi tình dục
ngay trong đền thờ, nhưng hành đồng đó được xem là hành động dân hiến,
hành động thần thánh. Mại dâm lúc này mang nghĩa là một hành vi tốt đẹp
của những con người tốt lành.
+ Phải tới thời Thượng cổ Hy Lạp (2.700 năm trước), phụ nữ mại dâm
(hetaera) dưới khái niệm ngày nay mới ra đời, tức là vì vật chất chứ không
phải tế lễ. Các cuộc hành quân của Alexander Đại Đế cũng đã được tháp tùng
bởi nhiều gái mại dâm. Trong Hy Lạp cổ đã phân biệt rõ những gái mại dâm
bình thường (porna) và phụ nữ mua vui hạng sang (hetaera):Ngược với gái
mại dâm thông thường, phụ nữ mua vui hạng sang có học thức, được đào
tạo về âm nhạc và khiêu vũ và được phép (ngược với người vợ) có mặt trong
lúc đàn ông họp mặt và cùng nói chuyện về chính trị. Người phụ nữ này có
địa vị rất cao trong xã hội, đến thăm viếng họ không có nghĩa là ngoại tình,
và họ mua vui cho đàn ông bằng nghệ thuật, thi ca chứ không bán dâm (xem
Geisha).Gái mại dâm bình thường (porna) phần nhiều là nữ nô lệ được trả
tự do phải lang thang kiếm sống trên đường phố.
+ Trong Đế chế La Mã làm việc này phần lớn là những nô lệ nam và nữ. Mại
dâm ở Roma thời Cổ đại đã có những chuyên môn hóa giống như ngày nay:
có những người bán dâm sử dụng nghĩa địa như là nơi làm việc. Tiền trả
phụ thuộc nhiều vào vị trí và tầng lớp xã hội, các người mại dâm rẻ tiền nhất
(phần lớn là người nô lệ được phóng thích và con của người nô lệ) chỉ có thể
đòi hỏi giá trị không hơn một cái bánh mì là bao. Từ thời này mại dâm đã
được định giá rõ rang như một loại hành hóa dung để trao đổi. Con người
bán dâm được định giá dựa trên xuất than, địa vị,… có thể xem người bán
dâm là một món hàng ai cũng có thể mua bán. Mại dâm thời này cũng đã
phân ra thành mại dâm cao cấp, và mại dâm phổ thông, Mại dâm cấp cao là
những người có địa vị tôn quý, quý tộc chẳng hạn, và mại dâm cấp thấp hay
phổ thông là nô lệ (một món hang thực sự). Với các mức giá với các cấp khác
nhau, thì có thể thõa mãn nhu cầu của đại đa số người dân, tùy theo mức độ
kinh tế của họ.
+ Giờ đây, không chỉ có phụ nữ bình thường bán dâm, ngay cả giới hiệp sĩ và
cả giới nghị sĩ cũng có người mại dâm, vợ của hoàng đế La Mã Claudius là
Messalina cũng bị đồn đại là đã từng bán dâm. Giới mại dâm phân chia
thành nhiều tầng lớp với nhiều địa vị khác nhau, cao cũng có và thấp cũng
có. Việc này trong đầu Thời kỳ Hoàng đế Roma có quy mô đến mức hoàng đế
Augustus đã ban hành luật cấm việc mại dâm của phụ nữ có địa vị cao. Luật
lệ bất lợi cho người bán dâm ở chỗ là chỉ được phép kết hôn với những
người có địa vị dưới họ. Kết hôn phần nhiều là con đường duy nhất thoát
khỏi mại dâm, nhưng họ lại đứng phía dưới đáy xã hội nên sự lựa chọn rất là
ít. Đẩy không ít người chịu cảnh bán dâm suôt tuổi thanh xuân mà không
còn con đường nào khác để lựa chọn…
• Trung cổ
+ Trong thế kỷ 12 các nhà chứa tại châu Âu thời Trung cổ được nhắc đến
trong nhiều văn kiện cổ. Đến đây thì hoạt động mại dâm được tổ chức thành
một đểm là nhà chứa, khác với thời kì trước là mại dâm tự phát và ai muốn
bán, muốn trao đổi thì trao đôi, mang tính cá nhân nhiều hơn thời kì này.
Một trong những nhà chứa lâu đời nhất của Đức (vẫn còn hoạt động) ở tại
Minden. Một điều mỉa mai là dù giáo lý Thiên Chúa giáo lên án nghiêm khắc
mại dâm, dòng tu hay nhà thờ nhiều lúc lại là người điều hành các nhà chứa
này. Ngoài ra còn có người mại dâm đi khắp nước để kiếm tiền trong các
chợ phiên và dịp lễ nhà thờ. Hoạt động mại dâm ngày càng mở rộng phạm vi
cũng như số lượng người tham gia vào hoạt động này.
+ Việc tìm đến tình yêu có thể mua bán này được coi như là một điều xấu
miễn cưỡng nhưng cần thiết để thỏa mãn những đội lính đánh thuê mà các
lãnh chúa châu Âu phong kiến tuyển mộ. Đội lính đánh thuê thực sự là một
nguyên nhân để các lãnh chúa mở cho riêng lãnh địa của mình những nhà
chứa, thõa mãn những nhu cầu cơ bản của đọi lính đánh thuê vốn thiếu thốn
và rất cần tình dục, mại dâm đã đem lại điều đó. Mại dâm thời kì này các
lãnh chúa xây dựng các nhà chứa không chỉ phục vụ cho riêng binh sĩ mà là
phục vụ đại chúng. Trong thành phố thời Trung cổ các nhà chứa thường
được đặt trước hay ngay sau thành lũy để người qua đường đi qua đó trước
khi vào thành phố.Tuy nhiên mại dâm thời kì này chưa thực sự phổ biến.
• Thời bắt đầu công nghiệp hóa
+ Tại châu Âu con số người bán dâm tăng nhanh đặc biệt là trong thế kỷ 19.
Việc di dân vào thành phố ngày càng tăng dẫn đến một phần ngày càng
đông của dân cư thành phố không có thu nhập đủ cho cuộc sống, đặc biệt là
phụ nữ, là những người thông thường chỉ có trình độ thấp và chỉ nhận được
những nghề mà tiền lương thấp. Điều này khiến cho lượng phụ nữ mới di
dân vào này tiếp cận đến một nghề mang lại lợi nhuận cao, và dễ dàng là
mại dâm. Con đường đến với mại dâm có thể khác nhau về hình thức giữa
các phụ nữ này, nhưng chung quy cũng là vấn đề tiền bạc. Việc bán dâm phụ
vụ nhu cầu của các đấng mày râu đã mang lại cho những người phụ nữ này
những nguồn thu nhập cao hơn rất nhiều so với làm cật lực với những công
viêc khác. Điều này dẫn đến việc mại dâm ngày càng phát triển…Việc này
dẫn đến việc có những quốc gia chuyển sang quy định pháp luật cho việc mại
dâm. Các quy định như thế, được biện hộ là việc kiểm soát về xã hội, chính
sách sức khỏe hay đạo đức, nhưng thực tế lại làm cho người bán dâm không
thể thoát ra khỏi con đường đen tối đó. Quy định cũng "đổ bê tông" cho "tiêu
chuẩn kép" về tình dục: người bán dâm bị xã hội khinh rẻ, nhưng pháp luật
lại nhìn mại dâm như một sự miễn cưỡng cần thiết cho phái nam thỏa mãn
dục vọng. Vì việc này mà các tổ chức nữ quyền luôn tẩy chay các ý đồ muốn
hợp pháp hóa mại dâm, xem đó là sự lạm dụng pháp luật để sỉ nhục nhân
phẩm người phụ nữ.
+ Nhiều phụ nữ giới trung lưu chống lại việc này. Josephine Butler là một
người phụ nữ đấu tranh kiên quyết từ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc
Ireland, dẫn đầu cuộc đấu tranh của Ladies' National Organisation chống lại
Contagious Diseases Acts (Luật về các bệnh lây). Cuộc vận động này nhìn
người bán dâm không phải là "kẻ có tội" mà là nạn nhân của dục vọng của
đàn ông. Cuộc vận động này đã cấp tiến hoá nhiều phụ nữ, làm cho họ trở
nên cứng rắn hơn đối với những cuộc tấn công và lăng nhục từ công chúng
và tạo nên một cơ sở cho việc chống đối về chính trị" (Philipps, trang 86).Mại
dâm trong thời kì này mới thực sự phát triển, với nhiều hình thức khác
nhau, đến nghệ thuật thế kỷ 19 cũng có thể thấy một biến đổi trong việc mô
tả người bán dâm: Đại diện của trường phái tự nhiên như Richard Dehmel,
Max Dauthendey, Otto Erich Hartleben, Otto Julius Bierbaum và Karl
Bleibtreu đã nâng người bán dâm lên thành 'venus vulgivaga' theo một ý
nghĩa ham muốn bản năng hơn là chính trị." (Gordon A. Craig).
• Thế kỷ 20 cho đến nay
+ Đến Thế chiến thứ hai, hàng trăm nhà chứa dành cho quân nhân đã được
Đức Quốc xã (tiếng Đức: Wehrmacht) và lực lượng SS thành lập, nhằm phục
vụ binh lính.Hàng ngàn phụ nữ được đưa đến các nhà chứa này với cung
viec chủ yếu là thõa mãn nhu câu của đám quân lính. Những người phụ nữ
nào nhiễm bệnh hoa liễu trong hình thức lao động cưỡng bức này thường
chết trong trại thủ tiêu hay bị giết chết. Một ví dụ khác: Nhật Bản, trong thế
chiến cũng đưa đến trại lính hang loạt những người phụ nữ, để thõa mãn
thú tính của họ. Những người được gọi trại đi là "đàn bà an ủi", phần nhiều
là phụ nữ Trung Quốc hay Triều Tiên, cũng bị đe dọa tương tự. Chính phủ
Trung Quốc và Triều Tiên luôn coi đây là nỗi nhục to lớn với dân tộc mình, và
luôn yêu cầu Nhật Bản phải chính thức xin lỗi và bồi thường cho những nạn
nhân này.
+ Ngoài hai loại lính nhà nghè mại dâm trên là Đức quốc xã và lính Nhât, thì
lính Mỹ là loại lính đi đâu, đánh đâu cũng gắn với mại dâm. Trong suốt cuộc
chiến Việt Nam, Mỹ đã ký một hiệp định với Thái Lan năm 1967 để cung cấp
mại dâm cho binh sĩ. Hiệp định này mở cửa cho luồng đôla đổ vào nền kinh
tế Thái, đổi lại là thân xác phụ nữ Thái Lan trở thành "món đồ chơi" trong
tay lính Mỹ. Liên tục từ năm 1962 tới 1976, gần 700.000 lính Mỹ được đưa
tới các nhà thổ ở Thái Lan mỗi năm. Tệ nạn mại dâm bắt đầu lan tràn tại
Thái Lan từ thời kỳ này.Nhà thổ phục vụ lính Mỹ cũng đóng một vai trò quan
trọng trong việc Mỹ chiếm đóng Philippines. Căn cứ hải quân Olongapo gần
Manila, có vấn đề lớn với nạn mãi dâm tới mức Chính phủ Mỹ đã tài trợ xây
dựng các bệnh viện cho các gái điếm quân đội để kiểm tra, phát hiện bệnh
hoa liễu. Tuy nhiên, chỉ có các gái điếm được cấp phép phục vụ lính Mỹ
(khoảng 6.000) mới được tới khám ở những bệnh viện đó. Còn số còn lại là
gái mại dâm hoàn toàn không được chế độ khám, chữa bệnh… Gần đây nhất
là trong chiến tranh vùng Vịnh ở Iraq. Ngay sau cuộc chiến này, quân đội Mỹ
đã được đưa tới Thái Lan để vui chơi tại các tụ điểm mại dâm. Một số
chuyên gia nói rằng ở đâu có lính Mỹ, ở đó sẽ có các nhà thổ do Chính phủ
Mỹ tài trợ và ủng hộ.
( Nguồn tham khảo: )
Chương 3: Tình hình mại dâm trên thế giới và các nước chấp nhận mại dâm.
• Tình hình mại dâm
Tại đa số các nước, mại dâm bị nghiêm cấm, đặc biệt ở một số nước theo Hồi
giáo, mãi dâm hay mại dâm có thể là tội tử hình. Tại một vài nước khác như
Hà Lan, Đức, New Zealand và một số bang phía đông của Úc, hoạt động này
là hợp pháp, nhưng với những điều kiện để giới hạn hoạt động. Trong tổng
số 221 quốc gia và vùng lãnh thổ, có 20 nước xem mại dâm là hợp pháp. 41
nước không hoặc chưa có bộ luật chính thức cấm mại dâm nhưng có các văn
bản luật khác để cấm các hoạt động có liên quan như nhà chứa, môi giới,
quảng cáo, gái đứng đường (tức là vẫn triệt tiêu điều kiện hoạt động, nên
mua bán dâm về cơ bản vẫn là bất hợp pháp). Khoảng 160 quốc gia còn lại
đã ra những văn bản luật chính thức cấm các hình thức mại dâm. Điểm lại
tình hình và diễn biến tệ nạn mại dâm ở một số quốc gia trên thế giới.
+ Đức - Hiện có khoảng 400.000 người hành nghề mại dâm. Trong đó ước
tính có 95% là phụ nữ và 5% nam giới. Theo thống kê của Hội Hydra, một tổ
chức đại diện cho những người hành nghề mại dâm tại Đức, quốc gia này có
khoảng 200.000 phụ nữ hành nghề mại dâm là người ngoại quốc. Phần lớn
số này đến từ các nước Đông Âu, Columbia, Thái Lan và châu Phi. Những
phụ nữ này bị các băng đảng tội phạm đưa vào Đức và bị ép buộc hành nghề
mại dâm. Với Luật điều chỉnh quan hệ pháp luật của mại dâm, ngày
20/12/2001, việc mại dâm tại Đức được phép hoạt động theo quy định của
pháp luật. Theo đó, “những thỏa thuận về tình dục nhằm đổi lấy tiền” được
pháp luật bảo vệ.
+ Mỹ - Mại dâm cũng như việc sử dụng các dịch vụ tình dục đều là hành vi
phạm tội tại hầu hết các tiểu bang (ngoại trừ vài nơi của tiểu bang Nevada).
+ Ở Na Uy- mại dâm là nghề bất hợp pháp, tuy nhiên trong các trường hợp
mà nhà chức trách các nước này xử lý chỉ có đối tượng trả tiền mua dâm
mới bị phát luật xử lý còn người bán dâm không bị xử phạt gì.
Những công dân Na Uy bị bắt gặp mua dâm tại nhà hay ở nước ngoài đều
phải đối mặt với một khoản tiền phạt lớn hoặc ngồi tù 6 tháng. Nếu mua
dâm trẻ em sẽ có thể phải ngồi tù đến 3 năm.Các nhà chức trách ở Na Uy cho
biết họ muốn dẹp bỏ tình trạng du lịch mua dâm và bán dâm trên đường phố
bằng việc nhắm đến những "khách hàng", tức những người mua dâm, hơn là
những người bán dâm.Cảnh sát ở Na Uy thậm chí được sử dụng các thiết bị
nghe trộm để thu thập bằng chứng cho các hành vi mua bán dâm.Những đối
tượng được liệt vào danh sách thường xuyên hành nghề mại dâm ở Na Uy sẽ
được tiếp cận giáo dục và điều trị y tế miễn phí, đặc biệt là những người có
vấn đề với rượu hoặc thuốc phiện.Việc tổ chức các ổ chứa mại dâm hay chăn
dắt mại dâm đều bất hợp pháp. Điều luật cấm hành vi mua dâm chính thức
có hiệu lực ở Na Uy từ ngày 1 tháng 1 năm 2009.
+ Thụy Điển là nước đứng hàng đầu thế giới về kinh tế, chỉ số phát triển
con người và bình đẳng xã hội. Đảng Dân chủ xã hội cầm quyền từ năm 1920
đã thành lập một hệ thống pháp chế chính trị và xã hội tiến bộ và góp phần
làm rõ nét “mô hình xã hội chủ nghĩa theo kiểu Thụy Điển”, luôn chú trọng
thực hiện an sinh xã hội, phát triển văn hóa và bài trừ các loại tệ nạn xã hội,
trong đó có mại dâm.
Ngày 1-1-1999, Thụy Điển trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới chống
mại dâm theo một phương cách mới. Thay vì phạt người bán dâm, chính phủ
Thụy Điển sẽ trừng phạt những người mua dâm với mức hình phạt nặng.
Ngày bộ luật được thông qua, một nghị sĩ phát biểu: “Tôi tin rằng trong 20
năm nữa, quyết định ngày hôm nay sẽ được mô tả như là bước nhảy vọt lớn
trong công cuộc chống lại bạo lực đối với phụ nữ”.
Mại dâm gây ra tác hại nghiêm trọng cho mỗi cá nhân cũng như toàn thể xã
hội. Tội phạm có tổ chức, bao gồm cả buôn người cho mục đích tình dục,
buôn bán ma túy, cũng thường liên quan đến mại dâm. Chính phủ Thụy Điển
tin rằng mại dâm là một hình thức bạo lực chống lại phụ nữ, cần phải được
loại bỏ bằng cách giảm "cầu", tức phải phạt nặng "khách hàng" - người mua
dâm. Công dân Thụy Điển bị bắt gặp mua dâm tại nhà hay ở nước ngoài đều
bị phạt 5000 USD hoặc ngồi tù 6 tháng, nếu tái phạm có thể bị tù 4 năm.
Chính phủ còn thiết lập cả hệ thống camera giám sát tại các “điểm nóng”.
Cảnh sát cũng công khai danh tính kẻ mua dâm nơi công cộng để họ phải
cảm thấy hổ thẹn. Chính phủ Thụy Điển tuyên bố “không có nhu cầu của đàn
ông và việc sử dụng phụ nữ và trẻ em gái cho việc khai thác tình dục thì mại
dâm toàn cầu không thể phát triển và mở rộng”.
Ngoài ra chính phủ sẽ cung cấp những khoản phúc lợi xã hội để gái bán dâm
có thể thoát khỏi con đường này, cũng như tuyên truyền vận động để người
dân hiểu rõ tác hại và tẩy chay mại dâm. Tất cả các trường trung học đều
triển khai các biện pháp tuyên truyền để giáo dục học sinh về vấn đề mại
dâm, rằng mua dâm là hành vi bất hợp pháp và trái đạo đức.
Cách tiếp cận pháp lý này đã trở thành thứ được gọi là "Mô hình Thụy Điển"
hay gần đây là "Mô hình Bắc Âu", là một phần trong chủ nghĩa nữ quyền cấp
tiến, rất nổi bật ở Thụy Điển. Mô hình này nhận được sự ủng hộ lớn từ các tổ
chức chống buôn người, và các đại diện ở cấp độ cao hơn như Liên minh
châu Âu và Liên Hợp Quốc .
Sau 10 năm tiến hành, mô hình thu được kết quả ấn tượng. Sợ bị pháp luật
trừng phạt cũng như nhận thức về tác hại của mại dâm được nâng cao, nhu
cầu mua dâm của nam giới Thụy Điển giảm hẳn, số gái bán dâm do đó cũng
giảm theo. Năm 1995, chính phủ Thụy Điển đã ước tính rằng có 2.500-3.000
gái mại dâm tại Thụy Điển (SOU 1995:15), trong đó có 650 là gái đứng
đường. Năm 2008, báo cáo của Viện Giới Tính Bắc Âu (NIKK) cho thấy chỉ
còn khoảng 300 gái mại dâm đường phố, và 300 phụ nữ và 50 nam giới bán
dâm tại nhà. Hơn nữa, báo cáo cho thấy số nam giới từng tham gia mua
dâm Thụy Điển đã giảm từ 12,7% năm 1996 xuống còn 7,6% vào năm 2008.
Nạn buôn người cũng gần như không có cơ hội tồn tại ở Thụy Điển. Năm
2007, theo cảnh sát Thụy Điển, chỉ có từ 400 đến 600 phụ nữ nước ngoài
được đưa đến Thụy Điển mỗi năm làm gái mại dâm, trong khi Phần Lan, dân
số chỉ bằng một nửa Thụy Điển, con số đó lên tới 10.000-15.000 phụ nữ, hoặc
ở Đức con số này là 40.000.
Cuộc thăm dò dư luận đã cho thấy sự ủng hộ của công chúng: các cuộc thăm
dò thực hiện bởi viện nghiên cứu xã hội, SIFO, cho thấy 81% người dân ủng
hộ luật này, chỉ 14% là không ủng hộ. Trong khảo sát năm 2008 được thực
hiện bởi NIKK, 71% người Thụy Điển cho biết họ ủng hộ lệnh cấm quan hệ
tình dục vì tiền. Năm 2005, khảo sát tiến hành trực tuyến của Durex đã chỉ ra
rằng trong số 34 quốc gia được khảo sát, Thụy Điển có tỷ lệ người tham gia
mua dâm thấp nhất (3% những người trả lời câu hỏi gồm cả nam giới và
phụ nữ).
+ Tại Nga, mại dâm là bất hợp pháp. Cũng như Thụy Điển, hướng ngăn
chặn quan trọng là phạt nặng người mua dâm gần đây đã được thực hiện.
Năm 2012, Duma Quốc gia Nga thông qua điều luật xử phạt 5.000 rúp với
người mua dâm. Bên cạnh đó, giấy báo sẽ được gửi tới tận nơi làm việc của
người mua dâm. Chính phủ Nga tin rằng, những biện pháp cứng rắn sẽ khiến
mại dâm tại nước này giảm đáng kể. Chính quyền Moldova cũng đang xem
xét một dự luật về xử phạt người mua dâm. Dự luật đề ra mức phạt là 500
đôla Mỹ và/hoặc 60 giờ lao động công ích đối với người mua dâm.
+ Hàn Quốc - Mại dâm là một nghề bất hợp pháp. Tuy nhiên, theo Bộ Giới
tính và Công bằng Gia đình nước này ước tính, hàng năm mại dâm đóng góp
khoảng 4% vào GDP.Các tổ chức công dân Hàn Quốc khẳng định, quốc gia
này hiện có khoảng 1,2 triệu phụ nữ hành nghề mại dâm (20% trong độ tuổi
từ 18 đến 29). Tuy nhiên, Chính phủ lại cho rằng con số này chỉ vào khoảng
900.000 người.
+ Nhật Bản - Chính phủ Nhật Bản vẫn coi việc mại dâm là bất hợp pháp.
Tuy nhiên, mại dâm lại tương đối phổ biến trong xã hội. Nhiều hình thức mại
dâm trá hình như gái bao, gái nhảy… xuất hiện, cùng sự biến tướng của mại
dâm sang loại hình “gần giống mối quan hệ tự nguyện không phải trả tiền”
khiến pháp luật không thể xử lý. Trong lịch sử, các geisha truyền thống của
Nhật cũng là một hình thức những người giúp tiêu khiển mà trong đó có thể
có hành động liên quan đến mại dâm.
+ Tại các nước theo đạo Hồi – Tại các quốc gia này, hoạt động mại dâm
hoàn toàn bị cấm, nhưng có những cách gọi đặc biệt khác tránh việc cấm
mại dâm: "Hôn nhân tưởng thức" (chỉ có người theo đạo Hồi Shia). Theo đó,
một người đàn ông theo đạo Hồi Shia được phép "cưới" một phụ nữ trong
thời gian từ 1 tiếng đồng hồ đến nhiều năm và sau đó phải trả cho người
phụ nữ này một phần đã được định từ trước. Ở người theo đạo Hồi Sunni,
hình thức hôn nhân này bị cấm bởi nhà tiên tri Muhammad và được xem là
mại dâm.
• Các nước cho phép mại dâm
Mại dâm ở các nước Phương Tây
Khác với khu vực các nước phương Đông, tại các nước phương Tây, một số
quốc gia đã chính thức thừa nhận mại dâm là một nghề hợp pháp. Trong 27
thành viên khối Liên minh châu Âu EU thì có tới hơn 10 nước công nhận mại
dâm là một nghề và các nhà chức trách tại những quốc gia có những biện pháp
trực tiếp.Danh sách các quốc gia ở châu Âu thừa nhận mại dâm là nghề hợp
pháp là Hà Lan, Đức, Áo, Switzerland, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, Ý, Phần
Lan, Cộng hòa Ireland, Tây Ban Nha, Vương Quốc Anh và Latvia.Điều đáng
chú ý là tại những quốc gia này, mặc dù cho phép dịch vụ mại dâm hoạt động
nhưng tất cả các cơ sở mại dâm đều được các cơ quan nhà nước tổ chức, quản
lý. Mọi hoạt động ma cô, chăn dắt khách đều bị coi là bất hợp pháp và luật sở
tại có các chế tài xử lý ở các mức độ khác nhau.Ngoài ra, những đối tượng hoạt
động mại dâm ở 8 quốc gia châu Âu kể trên đều phải chấp hành lịch khám
bệnh, xét nghiệm định kỳ để đảm bảo an toàn về sức khỏe cho chính đối tượng
mua và bán dâm. Không chỉ có vậy, tại mỗi nước đều có các quy định khá cụ
thể, chi tiết đối hoạt động đặc biệt này.
+ Ở Đức mại dâm được hợp pháp hoá năm 2001, chính phủ tin rằng như vậy
sẽ giúp quản lý mại dâm tốt hơn, chống bệnh hoa liễu và thu được thuế. Nhưng
giờ đây, nhiều người Đức cho rằng chính quyền đã không đạt được mục tiêu đó
mà chỉ làm vấn đề tồi tệ hơn. Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng: "Việc
hợp pháp hoá mại dâm đã thất bại". Những quy định về giấy phép hành nghề,
khám sức khỏe thực tế là vô tác dụng, vì các nhóm tội phạm có thể dễ dàng làm
giả giấy tờ và đe dọa những người nào định tố cáo.
Chính sách hợp pháp hóa đã thất bại trên tất cả các mặt. Nô lệ tình dục ở Đức
đã lan tràn kể từ khi mại dâm và các nhà thổ được hợp pháp hóa. Trong thực tế,
những quy định quản lý của pháp luật hầu như không có tác dụng. Trên toàn
nước Đức, số hợp đồng bảo hiểm mại dâm được ký không quá chục bản. Trong
số hơn 400.000 gái mại dâm ở Đức, chỉ có 100 người đăng ký hành nghề với
chính phủ (tỷ lệ 0,025%), số còn lại vẫn hoạt động lén lút như trước hoặc dùng
giấy tờ giả, vì chẳng gái mại dâm nào muốn tự tiết lộ danh tính của mình để rồi
chuốc lấy sự hổ thẹn. Quy định về giấy phép hành nghề do vậy đã "thất bại từ
trong trứng"
Để đáp ứng nhu cầu mua dâm tăng mạnh (vì đàn ông còn sợ bị pháp luật trừng
phạt), số gái mại dâm tăng vọt từ 100 ngàn (năm 2002) lên tới 400 ngàn (năm
2009). Để tăng "nguồn cung", phụ nữ Đông Âu ngày đêm bị bọn buôn người
săn lùng và đưa vượt biên vào Đức. Công bố năm 2010 cho thấy nạn buôn
người đã tăng 70% sau 5 năm mại dâm được hợp pháp hóa. Phần lớn sự gia
tăng này là phụ nữ và trẻ em gái bị buôn bán vào nhà thổ, với ít nhất 20% nạn
nhân là vị thành niên. 75% gái mại dâm ở Đức là phụ nữ Đông Âu, phần nhiều
là nạn nhân của bọn buôn người. Đối với phụ nữ Đức, đã có những trường hợp
bị cơ quan bảo trợ xã hội gợi ý phải đi bán dâm, nếu từ chối sẽ bị cắt trợ cấp
thất nghiệp.
Kỳ vọng về việc thu lợi cho ngân sách từ mại dâm cũng phá sản. Ban đầu Đức
kì vọng sẽ thu hàng chục triệu USD thuế từ mại dâm, nhưng rốt cục trên 99%
là trốn thuế, bởi lẽ đơn giản: "Tội phạm không bao giờ muốn đóng thuế". Năm
2011, Đức chỉ thu được 326.000 USD (thế đã là "thành công" so với các năm
trước), quá ít ỏi so với hàng triệu USD phải bỏ ra để quản lý mại dâm mỗi năm.
Ví dụ tại Bonn, năm 2011 thành phố thu được 18.200 USD thuế từ mại dâm,
nhưng đã phải chi tới 116.000 USD để đảm bảo an ninh cho các khu đèn đỏ,
chưa kể chi phí quản lý giấy tờ, khám chữa bệnh và chống các dạng tội phạm
khác phát sinh từ mại dâm. Ví dụ, nếu cho tất cả gái mại dâm ở Đức đi xét
nghiệm mỗi tháng 1 lần như quy định (gói Level 2 tốn khoảng 400 USD/lần),
chính phủ Đức sẽ phải chi gần 2 tỷ USD mỗi năm, gấp 6000 lần số thuế thu
được và còn lớn hơn ngân sách hàng năm cho nhiều lĩnh vực khác. Hệ thống y
tế cũng sẽ quá tải với gần 5 triệu lượt xét nghiệm tăng thêm mỗi năm.
Hiện nay, dư luận ở Đức, đặc biệt là giới cảnh sát và chính khách, đã liên tục
lên tiếng đòi bãi bỏ đạo luật hợp pháp hoá mại dâm. Sau 10 năm đạo luật này
được thông qua, họ đi đến một kết luận đáng buồn: "Nạn mại dâm ở Đức
không những không giảm mà ngày càng tăng". Stephan Mayer, chuyên gia
hàng đầu về các vấn đề pháp luật khẳng định, đạo luật này là một sai lầm và chỉ
làm tăng thêm tình trạng tội phạm tại các khu đèn đỏ. Thư ký nghiệp đoàn cảnh
sát Bernhard Witthaut cũng khẳng định, hợp pháp hoá mại dâm ở Đức đã thất
bại và đề nghị xem xét lại đạo luật này. Ông nhấn mạnh, kể từ khi đạo luật
được thông qua, giới ma cô đã nhiều hơn trước và chúng ngày càng tỏ ra táo
tợn hơn trong việc ép buộc phụ nữ phải bán dâm. Hợp pháp hóa mại dâm thực
tế chỉ tạo thêm vỏ bọc "hợp pháp" giúp bọn tội phạm bành trướng hoạt động.
+ Thổ Nhĩ Kỳ mại dâm là hợp pháp nhưng được quy định và kiểm soát
nghiêm ngặt bởi pháp luật. Những người hành nghề mại dâm phải tiến hành
đăng ký hành nghề và thường xuyên đi khám sức khỏe ở các bệnh viện.
Những đối tượng hành nghề mại dâm ở Thổ Nhĩ Kỳ luôn phải mang theo một
thẻ chứng minh ghi rõ ngày kiểm tra sức khỏe. Việc kiểm tra sức khỏe có thể
diễn ra hai lần một tuần.Đặc biệt, những người hành nghề mại dâm không được
phép kết hôn và con cái họ sẽ không được phép giữ những chức vụ cao trong
quân đội hay cảnh sát, và không được kết hôn với những người giữ chức vụ cao