Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Lv ths triết học vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.91 KB, 104 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY
VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM..............................8
1.1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.........................................8
1.2. Sự cần thiết phải vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam........................................................20
Chương 2. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP..........................................41
2.1. Thực trạng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay...............................................................41
2.2. Một số giải pháp nhằm vận dụng hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn vào đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.............................73
KẾT LUẬN....................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................96


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa



CNH

: Công nghiệp hóa

HĐH

: Hiện đại hóa


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản nhất, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết
học, C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó
với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý
luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và
cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn ln ln vận
động, biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống
nhất biện chứng giữa chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể và
những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn
đạt được trong hơn 20 năm đổi mới. Có được những kết quả đó một phần lớn
là do Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận của mình. Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn vận dụng nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
suốt quá trình lãnh đạo giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc cũng như
trong công cuộc xây dựng đất nước. Đặc biệt, nguyên lý này đã được vận dụng

hết sức sáng tạo và linh hoạt trong đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Thời
kỳ đổi mới đặt ra những yêu cầu phải thay đổi một cách cơ bản cả về lý luận và
thực tiễn trong đường lối lãnh đạo của Đảng cũng như trong sự phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của tồn Đảng, tồn qn, tồn
dân ta địi hỏi phải có sự thống nhất cao giữa lý luận và thực tiễn. Yêu cầu đặt
ra là cần phải vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong đổi mới kinh tế không chỉ để lý luận phản ánh chân thực,


2

đúng đắn thực tiễn mà còn phát huy được vai trị tích cực tác động tới thực tiễn,
định hướng cho thực tiễn vận động theo đúng đường lối lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Giải quyết vấn đề này mang ý nghĩa hết sức
cấp thiết và quan trọng, bởi vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn ln là một q trình lâu dài, đòi hỏi sự sáng tạo linh hoạt và cần
ln được điều chỉnh để duy trì được sự thống nhất biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn.
Tôi chọn nghiên cứu đề tài “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay”
nhằm làm sáng rõ hơn những định hướng về kinh tế của Đảng và Nhà nước
thời kì đổi mới cũng như thực trạng nền kinh tế nước ta, từ đó giúp chỉ ra một
số điểm còn bất cập cần được tiếp tục sửa đổi, củng cố để quá trình đổi mới
kinh tế thực sự đi đúng định hướng của Đảng và mang lại hiệu quả cao.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do mối quan hệ biện chứng lý luận - thực tiễn là một vấn đề cơ bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin, việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong kinh tế thời kỳ đổi mới chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng,
góp phần quyết định thành cơng của cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam. Vì vậy, nó

đã được nhiều tác giả nghiên cứu như:
- Về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là một trong
những nguyên tắc cơ bản nhất của triết học Macxit nên đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Trước hết, nó là một phần quan trọng trong các giáo trình
triết học Mác – Lênin. Đồng thời, cũng có nhiều nhà nghiên cứu đã vận dụng
nguyên tắc này trong các lĩnh vực khác nhau như:
+ Dương Văn Thịnh (chủ biên), Một số chuyên đề triết học Mác –
Lênin: Dùng cho sinh viên chuyên ngành triết học, Nxb. Đại học quốc gia Hà
Nội, năm1997.


3

+ Trần Văn Thụy , Triết học – lý luận và vận dụng, Học viện Chính trị
quốc gia, Hà Nội.   Giới thiệu về triết học và vai trò của triết học trong đời
sống xã hội. Trình bày khái lược lịch sử triết học trước Mác và triết học Mác Lênin. Tìm hiểu về chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn của triết học Mác - Lênin. Lý luận hình thái kinh tế - xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Trần Viết Quang, Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong giảng dạy triết học, Trường Đại học Vinh,
- Về vấn đề đổi mới ở Việt Nam: vấn đề này đã được nhiều người quan
tâm, nghiên cứu như:
+ Các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước có nhiều tác phẩm và bài viết
về công cuộc đổi mới như tác phẩm “Đổi mới để tiến lên” của đồng chí
Nguyễn Văn Linh gồm 2 tập do nhà xuất bản sự thật xuất bản năm 1988 và
1989. Tác phẩm đã khẳng định đổi mới là tất yếu nhằm thúc đẩy cách mạng
XHCN không ngừng phát triển. Tác phẩm “Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì
CNXH” của đồng chí Đỗ Mười, gồm 5 tập do nhà xuất bản Sự thật xuất bản
năm 1992 và 1993 đã nêu lên đường lối, quan điểm, biện pháp tiến hành công
cuộc đổi mới trong tất cả các lĩnh vực.

+ Một loạt đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ do các nhà khoa
học đầu ngành chỉ đạo tập trung nghiên cứu về thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam như đề tài “Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam kinh nghiệm và
lý luận” do PGS,TS Nguyễn Ngọc Long (Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh) làm chủ nhiệm, đề tài cấp bộ, thực hiện năm 1991, đã nghiệm
thu tháng 5/1992. Đề tài đã đề cập đến mơ hình, con đường đi lên CNXH ở
nước ta. Đề tài “Đặc điểm của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam từ
năm 1976 đến nay” do PGS,TS Nguyễn Trọng Phúc (Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh) làm chủ nhiệm, đề tài khoa học cấp Bộ, thực hiện


4

năm 1994, đã nghiệm thu 5/1995. Đề tài đã đề cập đến mọi khía cạnh của
cơng cuộc đổi mới.
+ Tác phẩm “Có một Việt Nam như thế” của nhiều tác giả do GS Trần
Nhâm chủ biên, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995 đã nêu
khái quát quá trình đổi mới và đánh giá thành tựu của cơng cuộc đổi mới.
+ Tác phẩm “Vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới đất nước” của PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 1998 đã đề cập đến quá trình hình thành, thực hiện
đường lối đổi mới và vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Tác phẩm “Quá trình hình thành và phát triển quan điểm lý luận của
Đảng ta về con đường đi lên CNXH”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997 do TS Trần Hậu chủ biên, PGS,TS Trịnh Nhu cộng tác đã đề cập đến q
trình tìm tịi và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta.
+ Bài viết “Kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, một thành
cơng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong q trình lãnh đạo công cuộc đổi
mới” của PGS, TS Trịnh Nhu, Tạp chí Lịch sử Đảng số 6 - 199, bài viết đã nêu
lên kinh nghiệm thành công của đổi mới kinh tế kết hợp với chính trị.

+ Tác phẩm “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986
đến nay” của nhiều tác giả đồng chủ biên: PGS, TS Tơ Huy Rứa, GS,
TS.Hồng Chí Bảo, PGS, TS. Trần Khắc Việt, PGS, TS Lê Ngọc Tòng, nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2009 đã trình bày một cách hệ thống
quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ Đại hội VI đến nay.
+ Tác phẩm “Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ chức
của Đảng trong thời kỳ đổi mới” của PGS, TS. Tô Huy Rứa, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2012 đã trình bày nhiều vấn đề về công tác lý
luận của Đảng trong thời kỳ đổi mới đất nước.
+ Vũ Tuấn Anh (chủ biên), Đổi mới kinh tế và phát triển, Nxb. Khoa
học xã hội, năm 1994.


5

+ Lê Đăng Doanh, Cơ sở khoa học và thực tiễn của công cuộc đổi mới
kinh tế ở Việt Nam, LATSKH kinh tế, Hà Nội, năm 1996
+ Phạm Tiến Đạt (biên soạn), Những vấn đề cơ bản về đổi mới kinh tế
ở Việt Nam và những nét cơ bản của kinh tế vĩ mơ trong cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, Nxb. Giao thông vận tải, năm 1995.
+ Trương Ngọc Nam, Khâu trung gian trong sự phát triển xã hội và ý
nghĩa phương pháp luận của nó đối với q trình đổi mới kinh tế Việt Nam
hiện nay, Luận án TS triết học, Hà Nội, năm 2000.
+ Nguyễn Khải (chủ biên), Việt Nam 10 năm đổi mới kinh tế, Nxb. Hà
Nội, năm 1998.
+ Phạm Xuân Nam, Đổi mới kinh tế Việt Nam – thành tựu, vấn đề và
giải pháp, Nxb. Khoa học xã hội, năm 1991.
+ Dương Xuân Ngọc (chủ biên), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2012.
+ Đặng Đức Phạm, Đổi mới kinh tế - thực trạng và triển vọng, Nxb.

Tài chính, Hà Nội, năm 1997.
+ Phan Thanh Phổ, Kinh tế và đổi mới kinh tế: sách bồi dưỡng thường
xuyên chu kỳ 1999-2000 cho giáo viên THPT, Nxb. Giáo dục, năm 2000.
+ Vũ Văn Phúc, Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta, Nxb Lý luận chính trị, 2005.
+ Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
+ Phạm Huy Vinh, Một số vấn đề về quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam
(từ năm 1986 đến nay) – thực trạng, triển vọng và giải pháp, LAPTSKH kinh tế.
- Về vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
đổi mới kinh tế ở Việt Nam:


6

Các tác phẩm, bài viết trên đã đề cập đến nhiều góc độ, khía cạnh khác
nhau về thời kỳ q độ lên CNXH và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, về mặt lý
luận, thực tiễn của công cuộc đổi mới, nhưng chưa có cuốn sách nào nghiên
cứu riêng về vấn đề về vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu này mong muốn thông qua việc khái quát lại nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và bước đầu nêu lên những vấn đề cơ
bản của việc đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay, có thể phần nào góp thêm
tiếng nói và những kiến giải nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của q trình
đổi mới kinh tế dưới góc nhìn của triết học Mác- Lênin.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, đề tài đề ra một số giải
pháp nhằm vận dụng có hiệu quả ngun tắc này vào q trình đổi mới kinh tế

ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ nội dung và sự cần thiết phải vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
- Phân tích cả những thành tựu và những hạn chế của việc vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đề ra đường lối
đổi mới kinh tế và quá trình vận dụng ở Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: vấn đề vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.


7

- Phạm vi nghiên cứu: từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận mác-xít.
Trong q trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, người thực hiện quán
triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phương pháp nghiên cứu
chủ yếu của đề tài là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Các phương
pháp khác như tiếp cận hệ thống, phân tích, tổng hợp,.... được sử dụng như là
những phương pháp bổ trợ cần thiết cho hai phương pháp chủ yếu nêu trên.
6. Đóng góp mới của luận văn
Thơng qua việc phân tích đường lối đổi mới kinh tế trong các văn kiện
Đảng qua các kỳ đại hội và thực trạng nền kinh tế Việt Nam đề tài đề xuất
những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn nguyên tắc này vào quá trình đổi mới
kinh tế ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
2 chương, 4 tiết.


8

Chương 1
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY VÀO
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
1.1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn chính
là mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch
sử” [45, tr.497].
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy thuộc vào phạm vi phản ánh
và vai trò của nó, có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận
triết học. Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và
phát triển của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương
pháp luận hoạt động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ
thuật… Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế
giới và con người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt
động của con người.
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực
khách quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các
quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của quá

trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức. Lý luận


9

là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức
khái quát tri thức kinh nghiệm.
Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không
phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập
tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn
không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác với kinh
nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu
biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách
quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề
ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng
trong lý luận nhận thức bằng cách đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận
nhận thức. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải
là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” [31, tr.167].
Một trong những khuyết điểm chủ yếu của lý luận nhận thức duy vật
trước Mác là chưa thấy hết vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Một số nhà
triết học như Ph. Bêcơn, Đ. Điđơrơ.… đề cao vai trị của thực nghiệm khoa
học, chưa đề cập đến vai trò của các hình thức khác của thực tiễn đối với nhận
thức. G.Hêghen tuy có đề cập đến thực tiễn, nhưng ơng khơng coi thực tiễn là
hoạt động vật chất mà là hoạt động tinh thần. L.Phoiơbăc chỉ coi lý luận mới
là hoạt động đích thực, cịn thực tiễn chỉ được ơng xem xét ở khía cạnh biểu
hiện bẩn thỉu mà thơi.
Thực tiễn là tồn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và bản

thân con người.
Khác với hoạt động tinh thần, hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà
con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật


10

chất nhất định, làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là những hoạt
động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất
yếu khách quan và không ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch
sử. Chính vì vậy, hoạt động thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang
tính chất sáng tạo và có tính mục đích, tính lịch sử - xã hội.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong
phú, song có 3 hình thức cơ bản là: Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức
hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con
người sử dụng những cơng cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra
của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình: Hoạt động chính trị - xã hội là hình thức hoạt động thực tiễn cao
nhất, là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã
hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát
triển, hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi
cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản
chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Thực
nghiệm khoa học là một hình thức thực tiễn đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra,
gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng
hoạt động này có vai trị quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là
trong thời kỳ cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, nhằm mục đích
phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan
trọng khác nhau, khơng thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ
chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất
vật chất vẫn là loại hoạt động có vai trị quan trọng nhất, đóng vai trò quyết


11

định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi vì, nó là hoạt động ngun
thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống
của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính
quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Khơng có hoạt
động sản xuất vật chất thì khơng thể có các hình thức thực tiễn khác. Các hình
thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất
và nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất.
Chính từ trong q trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức của con người được hình thành, phát triển. Thơng qua hoạt động thực
tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộc lộ ra những thuộc
tính, những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn,
nhận thức đã thốt ly khỏi mảnh đất hiện thực ni dưỡng nó phát triển vì thế
khơng thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ
khơng có khoa học, khơng có lý luận.
Thực tiễn cịn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới,
hỗ trợ con người trong q trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới.
Ph.Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc
đẩy nhận thức khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học. Vai
trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn không phải
là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn

mà con người phải chứng minh chân lý” [41, tr. 9-10]. Tất nhiên, nhận thức xã
hội cịn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lô gic nhưng tiêu chuẩn lô gic
không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi
đưa phạm trù thực tiễn vào nội dung của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã


12

được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương
thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và Người kết luận “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” [31,
tr.167]. Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ khơng thể có lý
luận, khơng thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học nào
với đúng nghĩa của nó.
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
với nhau.
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận,
lý luận hình thành, phát triển xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn. Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp những tri thức
được khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thông qua kết quả của hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng
như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của
các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận.
Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh các lý luận đã
được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh
những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết.
Thông qua đó, lý luận được bổ sung mở rộng. Chính vì vậy, V.I.Lênin
nói: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó,

trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của
nó tự nó và vì nó” [32, tr.227] .
Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ
là nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối
quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng vào
thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích cho con người bám


13

sát thực tiễn, khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn
tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc
hơn. Nhờ vậy hoạt động của con người không bị hạn chế trong không gian và
thời gian.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri
thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của con
người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao những hoạt động của
con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn
nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo
nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được
thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên
và xã hội theo mục đích của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận.
Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận
chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực tiễn của
con người. Do đó mọi lý luận phải thơng qua thực tiễn để kiểm nghiệm.
Chính vì thế mà C. Mác nói : “vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đạt đến chân lý của khách quan khơng, hồn tồn khơng phải vấn đề lý
luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng

minh chân lý” ” [41, tr.9-10]. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân
lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, những kết luận chưa phù
hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động
thực tiễn. Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải
mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chấn lý
của lý luận khi thực tiễn đạt đến mức tồn vẹn của nó. Tính tồn vẹn của thực


14

tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, hoạt động, phát triển và chuyển
hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái qt một giai đoạn nào đó của thực tiễn
thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó chỉ những lý luận nào phản ánh được
tính tồn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà V.I.Lênin
cho rằng :“Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in
vào ý thức của con người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng
này có tính vững chắc của một thiên khiến, có một tính chất cơng lý, chính vì
sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy” [ 32, tr.234].
Như vậy, thực tiễn có vai trị quan trọng quyết định đối với nhận thức
nói chung và lý luận nói riêng. Song lý luận cũng có vai trị quan trọng tác
động trở lại thực tiễn. Lý luận đóng vai trị soi đường cho thực tiễn vì lý luận
có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện
pháp thực hiện trong thực tiễn. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển
cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những rủi ro xảy ra,
những hạn chế những thất bại có thể có trong q trình hoạt động thực tiễn.
Như vậy lý luận khơng chỉ giúp con người hoạt động hiệu quả mà còn là cơ
sở để khắc phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động thực tiễn
của con người.

Mặt khác, lý luận cịn có vai trị giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên kết
các cá nhân thành cộng đồng tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần
chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C. Mác đã cho
rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán
của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất;
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng” [41, tr.580]. Mặc dù lý luận mang tính khái qt cao, song nó
cịn mang tính lịch sử, cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta còn phân


15

tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Nếu vân dụng lý luận máy móc, giáo điều,
kinh viện thì chẳng những hiều sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại
đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn. Lý
luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của
con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn tuy phong phú, đa dạng nhưng khơng phải khơng
có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái quát dưới hình thức lý
luận. Mục đích của lý luận khơng chỉ là phương pháp mà còn định hướng cho
hoạt động thực tiễn, định hướng mơ hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng
lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết từ lý luận để xây dựng mơ hình thực
tiễn theo những mục đích khác nhau của q trình hoạt động, dự báo các diễn
biến các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong
q trình phát triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố
tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu với thực
tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến
của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận,
hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận

vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả có thể khơng, hoặc kết quả chưa
rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực tiễn quy định.
Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn lý luận, vì nó có ưu điểm khơng
những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [ 32, tr.230].
Nói tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự
thống nhất biện chứng. Chỉ có trong sự thống nhất với thực tiễn, lý luận mới
góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển. Ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và
thực tiễn, tự thân lý luận khơng thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác,


16

hoạt động lý luận khơng có mục đích tự thân mà vì phục vụ thực tiễn, để cải
tạo thực tiễn. Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải
quán triệt được thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận
thức, là tiêu chuẩn của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực
bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy
định lý luận thể hiện ở nhu cầu, nội dung, phương hướng phát triển của nhận
thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng biến đổi theo, nhưng lý luận
cũng tác động trở lại thực tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
1.1.2. Yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau.
Vì vậy, để đảm bảo được nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ta
cần phải thực hiện tốt những yêu cầu như sau:
Trước hết, lý luận phải xuất phát từ thực tiễn. Trong triết học MácLênin, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một thuộc tính vốn
có, một địi hỏi nội tại. Ngun tắc này có ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức
khoa học và hoạt động thực tiễn. Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn
thống nhất với nhau dưới nhiều hình thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý
luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống

sinh động. Nhưng thước đo tính phù hợp của lý luận với thực tiễn biểu hiện
trước hết ở chỗ lý luận đó phải hướng hẳn về đời sống hiện thực, để giải quyết
những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra, và như vậy, lý luận
góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý
luận và thực tiễn, tự thân lý luận không thể biến đổi được hiện thực, nói cách
khác, hoạt động lý luận khơng có mục đích tự thân mà vì phục vụ thực tiễn,
để cải tạo thực tiễn.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao
trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở


17

thành ảo tưởng. Vì thế, khơng được cường điệu vai trị của lý luận, mặt khác
khơng được xem nhẹ thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng
có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng. Nếu không bám sát thực
tiễn cuộc sống chúng ta sẽ khơng thể có lý luận, khơng thể có khoa học,
khơng xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học nào với đúng nghĩa của nó. Và lý
luận trở thành lý luận sng.
Thứ hai, phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra tính chân lý của
lý luận. Chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống
nhất biện chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh
thần, nên thực tiễn đóng vai trị quyết định trong quan hệ đối với lý luận.
Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm khơng
những của tính phổ biến mà của tính hiện thực trực tiếp” [ 32, tr.230]. Tính
phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực tiễn là
khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng trong
thời gian càng dài, khơng gian càng rộng thì hiệu quả đạt được càng cao, càng
khẳng định tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học muốn

trở thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác nhận.
Như vậy, chỉ có qua hoạt động thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia
vào quá trình biến đổi hiện thực.
Thứ ba, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận. Lý
luận là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp
được những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải không ngừng liên hệ bằng
những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý
luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức
đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan.
Vì vậy, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận cho phù
hợp với từng bước đi của thực tiễn.


18

Thứ tư, phải dựa vào lý luận khoa học để chỉ đạo, định hướng thực
tiễn. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ
ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học
làm cho con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mị mẫm”,
tự phát. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã nói lý luận có vai trị hết sức to lớn đối với
thực tiễn, lý luận “như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta
trong công việc thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”
[43, tr. 234-235]. Vì những lẽ đó mà q trình hoạch định đường lối của đảng
ta phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học.
Thứ năm, phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc vai trò của lý luận và việc
học tập lý luận, phải không ngừng rèn luyện và nâng cao trình độ tư duy lý
luận. Khơng có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào
kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hóa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố
quyết định thành cơng trong hoạt động thực tiễn. Nếu khơng có lý luận hay
trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm kéo

dài. Lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. “Làm mà khơng có lý
luận thì khơng khác gì đi mị trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”
[44,tr. 47]. Kém lý luận, khinh lý luận thì khơng hiểu được thực chất lý luận, chỉ
thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng khơng thể hiểu được bản chất những vấn đề
thực tiễn mới nảy sinh. Do đó, khơng vận dụng được lý luận vào giải quyết
những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực
tế, không phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt
chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh
lý luận suông, tức bệnh giáo điều. 
Nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận để đủ sức giành thắng lợi
trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận là vấn đề đặt ra rất cấp



×