Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Phạm trù giá trị hàng hóa với việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.61 KB, 25 trang )

phạm trù giá trị hàng hóa với nâng cao hiệu quả kinh tế
trong sản xuất của các doanh nghiệp ở nớc ta hiện nay
----------------------------
Mở đầu
Phạm trù giá trị hàng hoá đã đợc rất nhiều các nhà kinh tế chính trị
học tiến hành nghiên cứu và cho đến khi Các Mác tiến hành nghiên cứu
phạm trù này thì ông đã tìm ra đợc bản chất thực sự của giá trị hàng hoá .
Hiểu đợc phạm trù này ta có thể áp dụng để nâng cao hiệu quả kinh tế trong
sản xuất của các doanh nghiệp . Đất nớc ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội và cũng đang ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trờng
chính vì vậy còn gặp nhiều khó khăn , thiếu thốn . Yêu cầu đặt ra đối với
chúng ta hiện nay là phải phát triển kinh tế để đạt đợc mục tiêu mà chúng ta
đề ra , nhng nh ta đã biết , các doanh nghiệp nớc ta hiện nay cha đạt đợc hiệu
quả kinh tế cao trong sản xuất . Muốn vậy , các doanh nghiệp nớc ta cần
phải tìm cách nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất trên cơ sở những yếu
tố ban đầu còn nghèo nàn , lạc hậu . Chính vì vậy , ta cần tìm hiểu , phân tích
phạm trù giá trị hàng hoá để thấy đợc mối liên hệ chặt chẽ của nó với việc
nâng cao hiệu quả kinh tế , qua đó đa ra đợc các biện pháp cần phải tiến hành
để nâng cao hiệu quả kinh tế .

Nội dung
1 . Lý luận Mác - Lênin và phạm trù giá trị hàng hoá .
1.1 . Quan điểm một số trờng phái về phạm trù giá trị hàng hoá
Trong lịch sử các học thuyết kinh tế ta có thể phân chia ra thành hai
quan điểm về phạm trù giá trị hàng hoá .
Trờng phái thứ nhất đã gắn liền giá trị hàng hoá với giá trị sử dụng .
Gía trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn một nhu cầu
nào đó của con ngời . Quan niệm đó không hoàn toàn đúng vì không phải
bất cứ sản phẩm nào có giá trị sử dụng cũng là hàng hoá . Chẳng hạn hàng
ngày chúng ta hít thở không khí để duy trì sự sống , nh vậy không khí có
giá trị sử dụng nhng không thể coi không khí là hàng hoá vì ta không mua


bán không khí để thở , vì không khí có sẵn trong tự nhiên , ta không phải
hao phí lao động để có đợc không khí . Nh vậy không khí không phải là
sản phẩm của lao động . Qua ví dụ trên ta có thể thấy đợc thiếu sót trong
quan niệm về giá trị hàng hoá của trờng phái thứ nhất .
Trờng phái thứ hai quan niêm : giá trị là lao động xã hội kết tinh
trong hàng hoá . ở đây cho rằng hàng hoá có hai thuộc tính đó là giá trị sử
dụng và giá trị trao đổi . ở đây xuất hiện thêm khái niệm giá trị trao đổi . Giá
trị trao đổi trớc hết là tỷ lệ về lợng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị
sử dụng kia .Theo quan niệm này , hàng hoá đợc thể hiện nh là sự thống nhất
chặt chẽ nhng lại mâu thuẫn . Qua đây đa ra đợc kết luận đúng đắn nhất về
giá trị hàng hoá .
1.2 , Lý luận giá trị lao động của Các Mác :
1.2.1, Chất giá trị :
* Hàng hoá và 2 thuộc tính của hàng hoá :
Trớc hết C.Mác định nghĩa : hàng hoá là sản phẩm của lao động mà ,
một là , nó có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con ngời ; hai là , nó đợc sản
xuất ra không phải để ngời sản xuất ra nó tiêu dùng , mà để bán .
Hàng hoá có hai thuộc tính : giá trị sử dụng và giá trị .
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn một nhu cầu
nào đó của con ngời .
Ví dụ : cơm để ăn , áo để mặc , máy móc , thiết bị , nguyên nhiên vật liệu
để sản xuất ...
Công dụng của sản phẩm do thuộc tính tự nhiên sản phẩm quyết định .
Theo đà phát triển của khoa học - kỹ thuật , con ngời càng phát hiện ra thêm
những thuộc tính mới của sản phẩm và phơng pháp lợi dụng những thuộc
tính đó .
Gía trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hàng tiêu dùng . Nó là nội
dung của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó nh thế nào . Với
ý nghĩa nh vậy , giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn .
Một sản phẩm đã là hàng hoá thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng .

Nhng không phải bất cứ sản phẩm gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hoá .
Không khí rất cần thiết cho cuộc sống con ngời , nhng không phải là hàng
hoá ; quả dại , hoa dại cũng có giá trị sử dụng nhng không phải là hàng
hoá .Trong kinh tế hàng hoá , giá trị sử dụng là cái mang lại giá trị trao
đổi .Giá trị trao đổi trớc hết là tỷ lệ về lợng mà giá trị sử dụng này trao đổi
với giá trị sử dụng khác .
Ví dụ : một mét vải trao đổi lấy năm kilôgam thóc . Tại sao vải và
thóc là hai giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi đợc với nhau ? Tại sao
lại trao đổi theo tỷ lệ một mét vải bằng năm kilôgam thóc ?
Hai giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau đợc khi giữa
chúng có một cơ sở chung . Cơ sở chung này không phải là thuộc tính tự
nhiên của vải , cũng không phải là thuộc tính tự nhiên của thóc . Song cái
chung đó phải nằm ở cả vải và thóc . Nếu không kể đến thuộc tính tự nhiên
của sản phẩm , thì vải và thóc đều là sản phẩm của lao động . Để sản xuất ra
cả vải và thóc , ngời thợ thủ công và ngời nông dân đều phải hao phí lao động
. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải và thóc , để trao đổi giữa
chúng với nhau .
Sở dĩ phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định , 1mét vải đổi lấy năm
kilôgam thóc , vì ngời ta cho rằng lao động hao phí sản suất ra một mét vải
bằng lao động hao phí để sản xuất ra năm kilôgam thóc . Khi chủ vải và chủ
thóc đồng ý trao đổi với nhau thì họ cho rằng lao động của họ để sản xuất ra
môtj mét vải bằng giá trị của năm kilôgam thóc .
Từ sự phân tích trên chúng ta rút ra kết luận quan trọng : giá trị là lao
động xã hội của ngời sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá . Sản phẩm
nàm mà không chứa đựng lao động của con ngời thì không có giá trị . Không
khí chẳng hạn , mặc dù rất cần thiết , nhng không có lao động con ngời kết
tinh trong đó , nên không có giá trị . Vàng , kim cơng có giá trị cao vì phải
tốn nhiều lao động mới sản xuất đợc chúng . Nhiều hàng hoá lúc đầu đắt nh-
ng sau nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật làm giảm số lợng lao động hao phí để
sản xuất ra chúng thì lại trở nên rẻ hơn . Việc hàng hoá trở nên rẻ hơn phản

ánh sự giảm giá trị hàng hoá , giảm bớt số lợng lao động xã hội hao phí để
sản xuất hàng hoá . Nh vậy cũng có nghĩa là khi giá trị thay đổi giá trị trao
đổi cũng thay đổi . Gía trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị .
Phần trên đã nói khi những ngời sản xuất đồng ý trao đổi hàng hoá với nhau
thì điều đó có nghĩa là họ cho rằnglao động hao phí để sản xuất hàng hoá của
ngời này bằng ngời kia . Thực chất của hoạt động trao đổi là so sánh lao động
giữa những ngời sản xuất với nhau . Vì vậy giá trị biểu hiện quan hệ sản xuất
giữa những ngời sản xuất hàng hoá . Quan hệ giữa ngời với ngời không còn
là quan hệ thuần tuý mà nó đã đợc thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật .
Gía trị là một phạm trù lịch sử , nó gắn liền với nền kinh tế hàng hoá .
Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì còn tồn tại phạm trù giá trị .
Nội dung khái niệm giá trị hàng hoá nh trên khác với khái niệm giá trị
mà chúng ta thờng gặp trong đời sống . Hàng ngày , chúng ta có thể nói :
quyển sách rất có giá trị , tức là quyển sách hay ; không khí rất có giá trị , tức
là không khí rất cần thiết cho cuộc sống hay là có giá trị sử dụng . Còn trong
kinh tế chính trị học , giá trị là lao động của ngời sản xuất hàng hoá kết tinh
trong hàng hoá , là quan hệ sản xuất giữa những ngời sản xuất hàng hoá .
Gía trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính của hàng hoá . Hàng hoá đợc
thể hiện nh là sự thống nhất chặt chẽ nhng lại mâu thuẫn giữa hai thuộc tính
này .
*Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá :
Thoạt tiên chúng ta thấy hàng hoá biểu hiện ra nh một cái gì đó có hai
mặt : giá trị sử dụng và giá trị trao đổi .Sau đó , chúng ta thấy rằng tất cả
những đặc trng phân biệt lao động sản xuất ra những giá trị sử dụng , đều
biến đi hết , khi lao động đợc biểu hiện trong giá trị , theo nghĩa thờng dùng
của chữ ấy . Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính nh trên vì lao động sản xuất
hàng hoá có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tợng .
Các Mác là ngời đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt này của lao động .
Ông khẳng định : Tôi là ngời đầu tiên đã nêu rõ tính chất hai mặt của lao
động biểu hiện trong hàng hoá . Vì khoa kinh tế chính trị xoay quanh điểm

này nên ở đây chúng ta phải bàn thật chi tiết hơn .
Lao động cụ thể là lao động hao phí dới một hình thức cụ thể của một
nghề nghiệp chuyên môn nhất định , có mục đích riêng , đối tợng riêng , thao
tác riêng , phơng tiện riêng và kết quả riêng .
Ví dụ lao động cụ thể của ngời trồng lúa và ngời thợ dệt vải là khác
nhau . Ngời thứ nhất có mục đích là lúa , ngời thứ hai có mục đích là vải .
Đối tợng của ngời thứ nhất là cây trồng , đối tợng của ngời thứ hai là sợi .
Thao tác của ngời nông dân là cày cấy , vun trồng ; còn thao tác của ngời thợ
dệt vải là dệt . Một ngời sử dụng cái cày , con trâu , còn ngời kia sử dụng
khung cửi , máy dệt . Cuối cùng ngời nông dân thu đợc lúa , ngời thợ thu đợc
vải .
Lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng cũng càng nhiều
loại . Tất cả lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động trong xã
hội ngày càng chi tiết . Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá .
Bất cứ giá trị sử dụng nào , nếu không phải do thiên nhiên trực tiếp ban cho ,
thì đều do một lao động cụ thể nào đó tạo ra . Lao động cụ thể là một phạm
trù vĩnh viễn , là một phạm trù không thể thiếu trong mọi chế độ xã hội .
Đó là mặt thứ nhất của lao động . Vậy còn thế nào là lao động trừu t-
ợng , mặt thứ hai của lao động ? Ta hãy quay trở lại ví dụ một mét vải đổi lấy
năm kilôgam thóc . Một mét vải đổi lấy năm kilôgam thóc có nghĩa là lao
động làm ra một mét vải bằng lao động sản xuất ra năm kilôgam thóc . Về
mặt lao động cụ thể thì lao động làm ra vải hoàn toàn khác với lao động sản
xuất ra thóc . Nhng chúng lại có thể so sánh đợc với nhau , vì đằng sau các
lao động cụ thể có ẩn giấu một cái gì chung mà mọi lao động đều có .Vậy cái
chung đó là gì ? Lao động của ngời thợ dệt vải cũng nh lao động của ngời
trồng lúa , tuy về cụ thể thì khác nhau , nhng đều là sự hao phí sức óc , sức
thần kinh và sức bắp thịt của con ngời . Trên phơng diện đó mà xét thì mọi
lao động đều là lao động đồng nhất của con ngời .
Vậy , lao động của ngời sản xuất hàng hoá nếu coi là sự hao phí sức
lực của con ngời nói chung , không kể hình thức cụ thể của nó nh thế nào ,

thì gọi là lao động trừu tợng .
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức óc , sc thần kinh và sức bắp
thịt của con ngời . Nhng bản thân sự hao phí sức lao động về mặt sinh lý đó
cha phải là lao động trừu tợng . Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hoá mới có
sự cần thiết khách quan phải quy các loại lao động cụ thể khác nhau vốn
không thể so sánh với nhau đợc thành một thứ lao động đồng nhất , có thể so
sánh với nhau đợc , tức là phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu tợng .
Vì vậy lao động trừu tợng là một phạm trù lịch sử riêng có của nền sản xuất
hàng hoá .
Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn phải
quy lao động cụ thể thành lao động trừu tợng . Chúng ta hãy xem xét lại ví dụ
vải và thóc . Nếu gạt bỏ sự khác nhau về giá trị sử dụng , thì vải và thóc chỉ
còn lại là sự kết tinh của một lao động đồng nhất của con ngời . Làm ra vải
và thóc là hai lao động cụ thể khác nhau . Nhng nếu xét về mặt tạo ra giá trị ,
thì hai lao động này lại giống nhau về chất : đó đều là sự hao phí sức lao
động nói chung của con ngời .
Nh vậy , xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành nh thế nào ,
sản xuất ra cái gì ? còn xét lao động trừu tợng là xem lao động đó tốn bao
nhiêu sức lực , hao phí bao nhiêu thời gian lao động .
Là lao động cụ thể , thì lao động tạo ra giá trị sử dụng của các hàng
hoá . Là lao động trừu tợng , thì lao động tạo ra giá trị của hàng hoá . Chất
của giá trị hàng hoá là lao động trừu tợng : M .
Cần thấy rằng không phải có hai thứ lao động đợc kết tinh trong một
hàng hoá , mà chỉ có lao động của một ngời sản xuất , nhng lao động đó có
hai mặt : một mặt là lao động cụ thể , và mặt khác là lao động trừu tợng .
Hàng hoá phải có ích mới có thể có giá trị , cũng nh lao động phải có ích mới
đợc công nhận là lao động của con ngời , mới đợc coi là lao động trừu tợng
của con ngời .
Đến đây chúng ta tiếp tục phân tích mâu thuẫn cơ bản của sản xuất
hàng hoá . Nh trên đã nói , mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá là mâu

thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất t nhân , cá biệt của lao động sản xuất
hàng hoá . Mâu thuẫn đó đợc biểu hiện thành mâu thuẫn giữa lao động trừu t-
ợng và lao động cụ thể , giữa giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá .
Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tợng biểu hiện ở chỗ
lao động của ngời sản xuất hàng hoá , nếu xét về mặt hao phí sức lực nói
chung , thì luôn luôn là một bộ phận của lao động xã hội . Nhng cũng lao
động đó , nếu xét về sự hao phí sức lao động dới một hình thức cụ thể nhất
định thì ngời sản xuất lại không thể biết trớc xã hội cần hình thức lao động cụ
thể nào , với số lợng bao nhiêu ? Do vậy , có hiện tợng là một bộ phận lao
động xã hội có thể bị sử dụng vào những việc không cần thiết của xã hội ,
không đợc xã hội thừa nhận . Chỉ có thông qua thị trờng mới biết đợc những
lao động cụ thể nào đợc xã hội thừa nhận hay không .
Mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng thể hiện ở chỗ : hàng hoá là
giá trị đối với những ngời sản xuất ra nó và là giá trị sử dụng đối với những
ngời không sản xuất ra nó , nhng lại cần nó . Muốn thực hiện giá trị của hàng
hoá , ngời chủ của nó phải mất quyền sở hữu về giá trị sử dụng ,nhờng nó cho
ngời khác sử dụng . Ngợc lại , ngời khác muốn có quyền sỏ hữu về nó thì
phải trả giá trị của nó cho ngời đang sở hữu nó . Hàng hoá bán đợc , có nghĩa
là giá trị sử dụng biến thành gia trị , mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng
đợc giải quyết và ngợc lại . Mâu thuẫn này thể hiện rõ trong thời kỳ khủng
hoảng sản xuất thừa , lúc đó hàng hoá bị ứ đọng , sản xuất ra không tiêu thụ
đợc , giá trị hàng hoá không đợc thực hiện .
1.2.2 , Lợng giá trị hàng hoá :
*Thời gian lao động xã hội cần thiết :
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu giá trị về mặt chất . Bây giờ chúng ta
nghiên cứu giá trị về mặt lợng .
Hàng hoá do lao động sản xuất ra . Chất của giá trị hay thực thể của
giá trị nh đã nói là lao động . Do vậy lợng giá trị hàng hoá do thời gian lao
động quyết định .
Gía trị đợc đo lờng nh thế nào ? Đo bằng thời gian lao động , và thời

gian lao động đợc chia thành từng khoảng nh giờ , ngày tuần tháng ...
Nhng nh thế phải chăng một ngời lời biếng , vụng về , sản xuất một
hàng hoá mất nhiều thời gian , thì hàng hoá của anh ta sẽ có giá trị lớn hơn
là hàng hoá do một ngời thợ giỏi và chăm làm , tốn ít thời gian hơn hay sao ?
Tất nhiên là không phải nh thế . Thời gian lao động tạo ra giá trị không phải
là thời gian cá biệt của từng ngời sản xuất , mà là thời gian lao động xã hội
cần thiết .
Thế nào là thời gian lao động xã hội cần thiết ? Đó là thời gian cần để
sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thờng của xã hội , tức
là với trình độ kỹ thuật trung bình , trình độ khéo léo trung bình và cờng độ
lao động trung bình . Thông thờng đó là thời gian lao động của những ngời
sản xuất và cung cấp tuyệt đại bộ phận một loại hàng hoá nào đó trên thị tr-
ờng . Hai loại hàng hoá khác nhau mà thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất ra chúng ngang nhau , thì có giá trị ngang nhau .
Thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi theo sự thay đổi của năng
suất lao động xã hội . Năng suất lao động đợc đo bằng số lợng sản phẩm tạo
ra trong một đơn vị thời gian hay đo bằng số thời gian lao động để sản xuất
một đơn vị sản phẩm . Năng suất lao động càng cao , thời gian cần thiết để
sản xuất hàng hoá càng ít , khối lợng lao động kết tinh trong một đơn vị sản
phẩm càng nhỏ thì giá trị của sản phẩm càng bé . Và ngợc lại , năng suất lao
động càng thấp , thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng lớn thì lao
động hao phí càng nhiều và giá trị hàng hoá càng lớn . Nh vậy , lợng giá trị
của một hàng hoá tỷ lệ thuận với số lợng lao động và tỷ lệ nghịch với năng
suất lao động .
Năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều nhân tố , nh trình độ khéo léo
của ngời lao động , sự phát triển của khoa học và kỹ thuật , sự kết hợp xã hội
trong sản xuất , hiệu quả của công cụ sản xuất , điều kiện tự nhiên ... Phát
triển các nhân tố này có nghĩa là tăng năng suất lao động và làm cho giá trị
của từng đơn vị hàng hoá giảm xuống .
Cần phân biệt tăng năng suất lao động với tăng cờng độ lao động . C-

ờng độ lao động chỉ mật độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian , nói
lên mức độ khẩn trơng , căng thẳng của lao động . Cờng độ lao động tăng lên
tức là hao phí lao động trong khoảng thời gian đó tăng lên , do đó trong một
đơn vị thời gian , số lợng sản phẩm đợc tạo ra nhiều hơn , nhng giá trị của
một đơn vị hàng hoá không thay đổi . Tăng cờng độ lao động cũng giống nh
kéo dài thời gian lao động .
*Lao động giản đơn và lao động phức tạp :
Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách thông thờng mà
bất kỳ một ngời lao động bình thơng nào không cần phải đào tạo cũng có thể
thực hiện đợc . Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải đợc đào tạo , huấn
luyện thành lao động lành nghề .
Trong một đơn vị thời gian , lao động phức tạp tạo ra đợc nhiều giá trị
hơn lao động giản đơn . Lao động phức tạp có nghĩa là lao động giản đơn
nhân bội lên .
ở trên chúng ta đã nói lợng giá trị của hàng hoá là do thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định . Nhng cần hiểu
rằng , lao động xã hội ở đây là lao động giản đơn trung bình xã hội cần thiết .
Vậy lợng giá trị hàng hoá đợc đo bằng thời gian lao động giản đơn trung bình
xã hội cần thiết . Quá trình trao đổi hàng hoá là quá trình quy mọi lao động
phức tạp và giản đơn thành lao động giản đơn trung bình xã hội cần thiết .
*Cấu thành l ợng giá trị hàng hoá :
Để sản xuất hàng hoá không những chỉ cần lao động sống ( lao động
hiện đại ) , mà còn cần cả các yếu tố sản xuất khác nh công cụ , nguyên
nhiên vật liệu ( lao động vật hoá ) . Do đó , lợng giá trị hàng hoá bao gồm cả
giá trị cũ , tức là giá trị những t liêu sản xuất đợc dùng để sản xuất hàng
hoá , và giá trị mới , tức là hao phí lao động sống của ngời sản xuất hàng hoá
trong quá trình tạo ra sản phẩm . Nếu ký hiệu giá trị cũ là c , giá trị mới là
( v + m ) thì giá trị hàng hoá = giá trị cũ + giá trị mới ; hay giá trị hàng hoá =
c + ( v + m ) .
*Gía cả :

Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị . Gía cả phụ thuộc vào giá
trị vì giá trị là cơ sở của giá cả . Hàng hoá nào mà hoa phí lao động để sản
xuất ra nó nhiều thì giá trị của nó lớn , và do vậy giá cả thị trờng sẽ cao , và
ngợc lại . Ngoài ra , giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác nh quan hệ
cung cầu , tình trạng độc quyền trên thị trờng . Tác độ của các nhân tố trên
làm cho giá cả hàng hoá trên thị trờng lên xuống xoay quanh giá trị của nó .
CáC Mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị . Trong vẻ đẹp này , giá trị
hàng hoá là trục , giá cả hàng hoá trên thị trờng lên xuống xoay quanh trục
đó . Đối với mỗi hàng hoá riêng biệt , giá cả của nó có thể cao hơn , thấp hơn
hoặc phù hợp với giá trị của nó . Nhng cuối cùng , tổng giá cả phù hợp với
tổng giá trị của chúng .
* Quy luật giá trị :
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi
hàng hoá . Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn
quy luật giá trị .
Yêu cầu của quy luật giá trị :

×