Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đề cương ôn thi môn triết học mác lê nin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.13 KB, 25 trang )

Câu 4: Trong “Bút ký triết học”, V. I. Lênin viết: “Phát triển là một
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Đồng chí hãy giải thích luận điểm
trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này trong quá trình hội nhập quốc tế đối với
nước ta hiện nay ?
Trả lời: Lịch sử phát triển của triết triết học là lịch sử phát
triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư
duy: Biện chứng và siêu hình. Quan điểm siêu hình coi sự phát triển đơn giản là
biểu hiện bên ngoài bản thân sự vật, họ quy mọi nguồn gốc của sự phát triển của
sự vật là do tác động bên ngoài, do sự vật khác gây ra. Đối lập với quan điểm
siêu hình, quan điểm duy vật biệt chứng khẳng định: sự vận động và phát triển
là quá trình tự thân vận động của sự vật, nó có nguồn gốc, nguyên nhân ở bên
trong mỗi sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập. Đây là quân điểm đúng đắn, khoa học cho phép hiểu nguyên nhân, nguồn
gốc thực sự của sự phát triển chống lại quan điểm siêu hình duy tâm. Theo Lê
nin: “phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập” (Bút ký triết học). Điều
này có nghĩa là vận động, phát triển là phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy,
nguyên nhân nguồn gốc của sự vận động, phát triển là do sự đấu tranh của các
mặt đối lập tồn tại trong chính bản thân của mối sự vật, hiện tượng. Đó chính là
điều mà Lê nin muốn khẳng định về nguyên nhân của sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
V. I. Lênin coi quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay
còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là “hạt nhân của phép biện chứng”, bởi vì quy
luật này chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển của
sự vật; là “chìa khóa” giúp chúng ta nắm vững thực chất của các quy luật cơ bản
và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, là một khái niệm
để chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Các mặt đối lập là
những bộ phận, những nhân tố có thuộc tính hoặc có khuynh hướng vận động
trái ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật, tác động qua lại với nhau tạo nên
sự vận động và biến đổi của sự vật đó. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan
và là phổ biến trong tất cả các sự vật. Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới


đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử có điện tử và hạt
nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh tế thị trường có cung và
cầu, v.v
1
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và
phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là
phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến, nên mâu thuẫn có tính đa
dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau
cũng khác nhau. Trong mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một mâu thuẫn,
mà có nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc
điểm, có vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa
đấu tranh với nhau. Mâu thuẫn là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự thống
nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các
mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia để làm tiền đề.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn nhau
của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ và phủ định lẫn
nhau của các mặt đối lập. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn
luôn “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại
theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối
lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại
giữa các mặt đối lập và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. Phát triển là
một sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu
thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu
tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự vận động và phát triển.

Điều đó có nghĩa là: “Sự thống nhất ( ) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm
thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là
tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Quá trình hình thành và phát triển của một mâu thuẫn là: Lúc đầu mới
xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt; sau đó phát triển lên thành hai mặt
đối lập; khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và có điều
kiện thì giữa chúng có sự chuyển hóa - mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn
cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và lại một quá trình mới làm cho sự
2
vật không ngừng vận động và phát triển. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay
thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Chẳng
hạn, bất kỳ một sinh vật nào cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi có sự
tác động qua lại giữa đồng hóa và dị hóa. Sự tiến hóa của các giống loài không
thể có được, nếu không có sự tác động qua lại giữa di truyền và biến dị. Tư
tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển, nếu không có sự cọ sát
thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai
Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có
đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể
tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ
cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do
đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển
hóa), thì không có sự phát triển. Chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết
quả của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới, nên các
hình thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn
nhau và cũng có thể chuyển hóa lên hình thức cao hơn
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đấu tranh của hai mặt đối
lập, trong đó: thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối; còn đấu

tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt
đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là sự tự thân và diễn ra liên
tục. Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất
phân hóa thành các bộ phận, các sự vật đa dạng, phức tạp, gián đoạn. Tuy nhiên,
trên thực tế có sự đồng nhất một cách sai lầm đấu tranh với va chạm, đụng độ,
rối loạn, mất ổn định, bè phái mất đoàn kết, nên người ta ác cảm, không có cảm
tình với đấu tranh. V. I. Lênin khẳng định: “Không thể đồng nhất sự đấu tranh
với các hiện tượng bè phái mất đoàn kết, vì các hiện tượng này không tạo ra sự
phát triển”.
Tóm lại, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể
thống nhất của các mặt đối lập, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự
chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
3
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mâu
thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên muốn nhận
thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt
động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn
phát hiện ra mâu thuẫn và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau
giữa các mặt đối lập đó.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của
từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu
thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập,
mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa
chúng. Đồng thời, cũng phải xem xét các mâu thuẫn cụ thể với vai trò, vị trí và
mối quan hệ của nó. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật,
hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một
cách cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các

mặt đối lập và với những điều kiện chín muồi.
Để thúc đẩy sự phát triển, phải tìm hiểu mọi cách để giải quyết mâu
thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Hoạt động thực tiễn nhằm
biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó. Muốn vậy, phải xác
định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết
chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Cho nên, chúng ta không được
giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; cũng như
không thể giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải có khả năng giải
quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
Mẫu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới hình thức cụ
thể rất khác nhau). Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác
nhau. Điều đó tùy thuộc vào bản chức của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ
thể. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn. Phải tìm ra các
hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại
mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
4
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế của
nước ta hiện nay.
Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ
trương hội nhập quốc tế với sự khẳng định Chủ trương “chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế”. Theo đó, Đảng ta xác định, quá trình hội nhập quốc tế là quá
trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít
thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai
mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Cần
kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc
phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước. Quá trình hội nhập quốc tế
trước hết là đáp ứng lợi ích phát triển của đất nước; mặt khác thông qua đó phát

huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới,
đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập quốc tế một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc
cơ bản và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN,
bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta nêu rõ 4
nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc
đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Về tư tưởng chỉ đạo hội nhập quốc tế, xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của
hội nhập quốc tế, Đảng ta đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại nói chung và hội
nhập quốc tế nói riêng. Theo đó, trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên
tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội (CNXH), đồng thời phải rất sáng
tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với
từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo nêu trên, Việt Nam chú trọng mở
rộng quan hệ quốc tế cả song phương và đa phương nhưng có nguyên tắc, mà
nguyên tắc cao nhất, đồng thời cũng là lợi ích dân tộc cao nhất, đó là độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước và phát triển theo định hướng XHCN.
5
Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên
tắc cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này,
một mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt
khác phải chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức
độ đóng góp của các bên tham hợp tác. Trong hợp tác liên kết và hội nhập quốc
tế cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm
dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của đất nước; đồng thời

phải luôn cảnh giác, không mơ hồ trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng
hợp tác quốc tế để can thiệp, áp đặt về chính trị.
Đảng ta cũng xác định rằng, yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng đòi hỏi nhất thiết phải giải quyết thành công một loạt mối quan hệ: giữa mở
rộng quan hệ đối ngoại với giữ vững ổn định và phát triển đất nước; giữa hội
nhập quốc tế với giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ gìn và phát
triển bản sắc văn hoá dân tộc; giữa mở rộng quan hệ đối ngoại với xây dựng lực
lượng, tạo lập thế trận quốc phòng - an ninh dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức
quản lý của Nhà nước, hiểm hoạ bên ngoài và nguy cơ bên trong luôn tương tác
với nhau và trong nhiều trường hợp chuyển hoá lẫn nhau một cách rất phức tạp,
nhạy cảm. Nền tảng của độc lập dân tộc bị thách thức gay gắt trên cả hai phương
diện: quyền tối cao trong việc tự định đoạt các vấn đề trong nước và quyền được
bình đẳng trong quan hệ quốc tế, cũng như quyền tự quyết định các vấn đề đối
ngoại của quốc gia dân tộc. Bởi vậy, để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, giữ
vững định hướng XHCN cần phải có cách tiếp cận linh hoạt, đúng đắn, tìm ra hệ
các giải pháp khả thi, vừa mang tính tổng thể, toàn diện vừa mang tính cụ thể
nhằm tăng cường “sức đề kháng quốc gia”, hoá giải thành công các nguy cơ trong
tiến trình hội nhập quốc tế./.
6
Câu 5: Trong bài diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường
Nguyễn Ái Quốc ngày 7/9/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng,
lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Đồng chí hãy giải
thích luận điểm trên và nói rõ ý nghĩa của vấn đề này trong đấu tranh, khắc
phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều ở cán bộ hiện nay?
Trả lời:
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại nhiều di sản lý luận quý báu, có ý nghĩa to lớn trong giáo dục, rèn luyện
cán bộ, đảng viên cũng như công tác xây dựng Đảng đồng thời góp phần bổ

sung, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Một trong những luận điểm
quan trọng của Bác, có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với cán bộ đảng viên của
Đảng đó là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Luận điểm trên của Bác trước hết khẳng định quan điểm của chủ ngĩa Mác
về thực tiễn và vai trò của nó đối với hoạt động nhận thức.
Mác là người đầu tiên nêu rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận
thức. Đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức là một bước chuyển biến
cách mạng trong lý luận về nhận thức nói riêng và trong triết học nói chung.
Đồng thời khắc phục sự hạn chế của các trào lưu triết học trước đây, kể cả triết
học của Phoiơbắc, xem xét nhận thức tách rời hoạt động thực tiễn của con
người. Khuyết điểm chủ yếu của chủ nghĩa duy vật trước Mác là thiếu quan
điểm thực tiễn, vì thế nó mang tính chất trực quan. Chủ nghĩa duy tâm đã đề cập
đến vai trò tích cực sáng tạo của con người, nhưng lại chỉ giới hạn tính tích cực
sáng tạo đó trong lĩnh vực tinh thần. Chủ nghĩa duy tâm đã tuyệt đối hóa yếu tố
tinh thần, chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần, và như vậy, thực chất là
đã gạt bỏ vai trò của thực tiễn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn là những hoạt động
vật chất cảm tính có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm
cải tạo tự nhiên và xã hội. Thực tiễn biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức
đầu tiên của hoạt động thực tiễn, cơ sở của hoạt động sống của con người là hoạt
7
động sản xuất vật chất. Hoạt động cải tạo xã hội bao gồm những hoạt động của
con người trong các lĩnh vực chính trị - xã hội cũng là một dạng cơ bản của hoạt
động thực tiễn. Những hoạt động thực nghiệm khoa học cũng là một dạng đặc
biệt của thực tiễn. Trong những hình thức đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt
động cơ bản nhất, vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người
trong mọi thời kỳ lịch sử. Hơn nữa, các hình thức hoạt động khác suy cho cùng
là từ hoạt động đó mà ra và nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động đó. Nói đến

phạm trù thực tiễn, cần lưu ý đến hai đặc trưng:
Thứ nhất, hoạt động thực tiễn là những hoạt động vật chất của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nói đến hoạt động thực tiễn là hoạt động vật
chất, điều đó có nghĩa là, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những
đối tượng vật chất, những phương tiện vật chất … để tác động, trực tiếp làm
thay đổi bản thân sự vật, trực tiếp cải tạo thế giới trong hiện thực. Nói đến hoạt
động vật chất, tức là nói đến sức mạnh vật chất, sức mạnh trực tiếp cải tạo thế
giới của con người. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra một
hiện thực mới, một “thiên nhiên thứ hai”, thế giới của văn hóa tinh thần và vật
chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn có tính lịch sử xã hội. Tính xã hội của hoạt
động thực tiễn có nghĩa là thực tiễn không chỉ là những hoạt động của từng con
người riêng lẻ, mà là dạng hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Xét từ nội
dung cũng như từ phương thức thực hiện, hoạt động thực tiễn mang tính xã hội.
Hoạt động thực tiễn là một quá trình lịch sử, trải qua quá trình vận động và phát
triển và các giai đoạn lịch sử của nó. Có thể nói, thực tiễn là sản phẩm lịch sử,
những mối quan hệ muôn vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con
người với con người.
Thực tiễn là cơ sở và động lực chủ yếu của nhận thức. Bằng hoạt động thực
tiễn, con người trực tiếp tác động vào sự vật, bắt các sự vật hiện tượng của thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính và tính quy luật của chúng. Điều đó có nghĩa
là thực tiễn đã cung cấp những tài liệu làm cơ sở cho nhận thức. Tri thức của
con người có thể thu nhận được dưới dạng trực tiếp từ thực tiễn hoặc dưới dạng
gián tiếp. Nhưng xét đến cùng thì mọi tri thức của con người đều nảy sinh từ
hoạt động thực tiễn. Không có thực tiễn thì con người sẽ không có nhận thức,
không có hiểu biết. Không có những kinh nghiệm thực tiễn thì không có tri thức
lý luận. Hơn nữa, chính trong quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở phát huy
8
tính tích cực sáng tạo của con người, là cơ sở của sự phát triển trí tuệ con người.
Thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển, luôn đặt ra những vấn đề mới đòi

hỏi nhận thức phải trả lời, đặt ra những nhiệm vụ và phương hướng phát triển
cho nhận thức, đòi hỏi những tri thức mới, những khái quát mới để lý giải những
vấn đề nảy sinh … Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Trong
lịch sử, các môn khoa học nối tiếp nhau ra đời và phát triển trên cơ sở quá trình
hoạt động thực tiễn của loài người, nhằm đáp ứng những nhu cầu do sự phát
triển của thực tiễn đề ra.
Thực tiến có vai trò to lớn đối với hoạt động nhận thức của con người, là cơ
sở, động lực của nhận thức.
Hoạt động thực tiễn của con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi những
nhu cầu thực tiễn. Muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản xuất, cải tạo tự
nhiên và xã hội. Chính nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo xã hội buộc con người
phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh. Bằng hoạt động thực
tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan
phải bộc lộ những thuộc tính, những tính chất, những quy luật để con người
nhận thức. Chính thực tiễn đã cung cấp cho nhận thức của con người những hiểu
biết về thế giới. Như vậy, mọi tri thức của con người, xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn.
Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của
nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học mới. Thực
tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho chúng phát
triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn. Trên cơ sở đó giúp nhận thức của con người
đạt hiệu quả hơn. Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo ra các công cụ,
phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức. Chính
nhu cầu chế tạo và cải tiến công cụ sản xuất cũng như công cụ, máy móc hỗ trợ
con người nhận thức đã thúc đẩy nhận thức, tư duy phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức của con người là nhằm
phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhận thức mà không
nhằm mục đích phục vụ thực tiễn thì sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức
khoa học, mọi lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng được áp dụng vào thực
tiễn, nghĩa là được vận dụng vào sản xuất vật chất, vào cải tạo xã hội và vào

thực nghiệm khoa học nhằm phục vụ con người.
9
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Tri thức của con người là kết quả của
quá trình nhận thức. Tri thức ấy có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện
thực khách quan. Triết học Mác - Lênin cho rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để kiểm tra chân lý. “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người
có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn”
1
. “Con người chứng minh bằng thực tiễn của
mình sự đúng đắn khách quan của những ý niệm, khái niệm, tri thức của mình,
của khoa học mình”
2
. Dựa vào thực tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm
nghiệm chân lý. Chỉ có thực tiễn mới có thể “vật chất hóa” được tri thức, hiện
thực hóa được tư tưởng, qua đó mới có thể khẳng định hay phủ định một giả
thiết khoa học nào đó. Có nhiều hình thức hoạt động thực tiễn khác nhau, do vậy
cũng có nhiều hình thức kiểm tra chân lý khác nhau, như bằng thực nghiệm
khoa học, bằng việc áp dụng lý luận xã hội vào cải biến xã hội v.v Thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt
đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở
chỗ, thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, do đó “không bao giờ có thể
xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người,
dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa”
3
. Vì vậy, xem xét thực tiễn trong không
gian càng rộng, trong thời gian càng dài, trong chỉnh thể thì càng rõ, đâu là chân
lý, đâu là sai lầm. Cũng vì vậy, những tri thức đã đạt được trước kia và đã được
thực tiễn kiểm nghiệm vẫn phải thường xuyên được kiểm tra bởi thực tiễn mới

để được bổ sung, hoàn thiện hơn. Cho nên, chủ nghĩa Mác - Lênin yêu cầu:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản cảu
lý luận về nhận thức”
4
.
Thực tiễn có vai trò to lớn, song không vì thế mà xem nhẹ vai trò của lý
luận khoa học.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tính quy luật của các sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan.
1
2
3
4
10
Kinh nghiệm và lý luận đều là những tri thức, những hiểu biết của con
người về sự vật, hiện tượng nhưng ở những trình độ khác nhau. Kinh nghiệm
được nảy sinh trực tiếp từ cuộc sống và thực tiễn. Nó không chỉ là kết quả của
hoạt động trực quan cảm tính, mà còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Kinh
nghiệm do đó đã mang tính trừu tượng và khái quát, song mới là bước đầu và
còn hạn chế. Nó chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên
hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Còn lý luận là những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực
tiễn, “là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người” (Hồ Chí Minh) thông qua sự
trừu tượng hóa và khái quát hóa của tư duy. Bằng sức mạnh của sự trừu tượng
hóa và khái quát hóa, lý luận đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất
nhiên, tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Kinh nghiệm và lý luận đều có vai trò to lớn đối với thực tiễn. Kinh nghiệm
do sự hạn chế của nó nên phạm vi vận dụng (cả thời gian, cả không gian) hẹp
hơn, đồng thời hiệu quả thường không cao. Còn lý luận thể hiện tính chân lý sâu

sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn, do
đó phạm vi vận dụng rộng hơn và có hiệu quả cao hơn.
Nhờ có ưu điểm trên đây, lý luận có vai trò rất to lớn đối với thực tiễn. Cụ
thể:
Một là: lý luận hướng dẫn, soi đường, dẫn dắt chỉ đạo thực tiễn, giúp cho
thực tiễn hoạt động đúng hướng, có hiệu quả, tránh mò mẫm, tự phát.
Hai là: lý luận góp phần giáo dục, động viên cổ vũ, tổ chức quần chúng,
biến thành niềm tin và phong trào quần chúng cải tạo hiện thực: “lý luận mỗi khi
thâm nhập vào quần chúng sẽ biến thành một sức mạnh vật chất vô cùng to lớn”.
Ba là: lý luận, do sức mạnh trừu tượng hóa, nó có khả năng dự kiến được
sự vận động và phát triển cuả sự vật trong tương lai, từ đó chỉ ra những phương
hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, của mỗi quốc gia, dân
tộc. Trong thời đại văn minh trí tuệ ngày nay, lý luận có vai trò cực kỳ to lớn.
Trên một ý nghĩa nào đó nó quyết định sự thành bại của một chủ thể, của một
quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, nước ta hiện nay đang định hướng đi lên chủ nghĩa
11
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự nghiệp đó sẽ không thành công nếu
thiếu lý luận khoa học soi đường.
Trong khi đó, thứ nhất, lý luận của chúng ta còn bất cập so với yêu cầu của
thực tiễn. Mặc dù lý luận ở nước ta đã có những bước phát triển quan trọng,
nhận thức về con đường và mô hình chủ nghĩa xã hội càng ngày càng rõ ràng và
đầy đủ hơn, nhưng nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn đổi mới, lý
luận chưa lý giải được, hoặc chưa lý giải được một cách thuyết phục. Một số vấn
đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ, nên chưa đạt được sự
thống nhất cao về nhận thức và do đó thiếu dứt khoát trong hoạch định chính
sách, chỉ đạo điều hành.
Thứ hai, trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu
so với thực tiễn. Điều đó biểu hiện trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn vẫn

thường rơi vào bệnh kinh nghiệm (tuyệt đối hóa kinh nghiệm, chỉ đạo thực tiễn
bằng kinh nghiệm) và bệnh giáo điều (vận dụng lý luận như những công thức
cứng nhắc, nhận thức lý luận chỉ dừng lại ở câu chữ, lý luận suông).
Do đó, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của đất nước phải đẩy mạnh công tác
nghiên cứu lý luận, đồng thời phải tăng cường công tác giáo dục lý luận trên cơ
sở đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và
học tập lý luận.
Vấn đề nghiên cứu này còn có ý nghĩa to lớn trong đấu tranh, khắc phục
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
Tri thức kinh nghiệm là những tri thức được chủ thể thu nhận trực tiếp
trong quá trình hoạt động thực tiễn. Tri thức kinh nghiệm hết sức quan trọng
trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Nó giúp cho con người kịp thời
điều chỉnh hoạt động của mình, giúp cho con người có được những quyết định
nhanh chóng và đáng tin cậy trong một phạm vi nhất định, trong một hoàn cảnh
cụ thể nhất định.
Tuy nhiên, nhìn chung những tri thức kinh nghiệm thường chỉ mới là sự
khái quát ban đầu và trong một phạm vi hẹp, thường chỉ mới là sự phản ánh sự
vật trong những hoàn cảnh cụ thể, cục bộ riêng biệt, và trong nhiều trường hợp,
tri thức kinh nghiệm chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên. Chính
vì vậy, tri thức kinh nghiệm chưa đi sâu vào bản chất và quy luật của sự vật,
chưa tạo thành một hệ thống tri thức chặt chẽ. Và cũng vì vậy, phạm vi áp dụng
12
cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức kinh nghiệm thường bị hạn chế
trong một phạm vi hẹp.
Ở trình độ tri thức lý luận, tư duy đã vượt ra ngoài giới hạn của những tri
thức kinh nghiệm. Lý luận là sự tổng kết, là sự khái quát những kinh nghiệm
thực tiễn bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù, những nguyên lý và quy
luật phản ánh sự vận động và phát triển cuiar sự vật mà ta nghiên cứu.
Tri thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát cao; nó đem lại sự hiểu biết
sâu sắc về bản chất và quy luật của sự vật; nó có tính hệ thống chặt chẽ. Chính

vì vậy, phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức lý luận có
một phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều so với tri thức kinh nghiệm. Chỉ có những
tri thức lý luận mới làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tránh
được tình trạng mò mẫm, tự phát.
Tuy tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có một số đặc điểm khác nhau,
nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ. Nói đến mối quan hệ giữa trình
độ kinh nghiệm và trình độ lý luận, về thực chất cũng chính là quan hệ biện
chứng giữa thực tiễn và lý luận, nói đến sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận.
Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận. Kinh
nghiệm là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm là căn cứ để
chúng ta không ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa đổi, phát triển lý luận. Tri thức
lý luận hinh thành từ sự tổng kết, khái quát kinh nghiệm, nhưng lại phải thông
qua tư duy trừu tượng của cá nhân nhà lý luận, cho nên nó cũng chứa đựng khả
năng không chính xác, xa rời thực tiễn. Vì vậy, tri thức lý luận phải được thể
nghiệm trong thực tiễn để khẳng định, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện. Mặt khác, lý
luận một khi đã được hình thành thì nó không phải thụ động mà có vai trò độc
lập tương đối của nó. Lý luận tác động trở lại đối với thực tiễn, hướng dẫn, chỉ
đạo hoạt động thực tiễn, dự báo, dự đoán tình hình và phương hướng hoạt động
thực tiễn trong tương lai …
Chúng ta coi trọng những kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy
vốn kinh nghiệm quý báu đó. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm,
chỉ dựa vào những hiểu biết ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn liếng của
bản thân, coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm, đồng thời coi nhẹ
lý luận, không chịu học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không chịu
13
vươn lên để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý
luận, v.v thì dễ mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi ngăn ngừa chủ nghĩa
giáo điều. Nếu tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý
luận bất di, bất dịch, nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu

tượng, không chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của sự vận dụng lý
luận v.v thì sẽ mắc bệnh giáo điều. Thực chất những sai lầm của bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều là vi phạm sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận.
Quán triệt sâu sắc vấn đề này, thiết nghĩ mỗi cán bộ đảng viên cần phải
nghiên cứu, nắm vững lý luận đồng thời vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực
tiễn công tác của mình cho phù hợp. Thực hiện nói phải đi đôi với làm. Chống
dập khuôn, máy móc sẽ rơi vào giáo điều, kinh viện hoặc nói nhiều, làm ít, nói
hay, làm dở. Mặt khác cũng cần phải biết tổng kết, rút kinh nghiệm, bổ sung
phát triển lý luận. Khăc phục bệnh coi khinh lý luận, xem thường lý luận, tuyệt
đối hóa kinh nghiệm đều dẫn đến sai lầm, không đem lại hiệu quả trong hoạt
động thực tiễn ở đơn vị.
14
Câu 6: Trong tác phẩm: "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán", V.I.Lênin viết: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức". Đồng chí hãy giải
thích luận điểm trên và nói ý nghĩa của vấn đề này trong việc khắc phục
bệnh giáo điều ở nước ta hiện nay ?
Trả lời:
Quan điểm trên của Lê nin xuất phát từ vai trò của thực tiễn đối với hoạt
động nhận thức của con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
thực tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính có tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Như vậy, thực tiễn không phải là toàn bộ
hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất cảm tính nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội không phải là hoạt động tinh thần.
Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể (tức là con người)
và khách thể (tức là giới tự nhiên), là dạng hoạt động vật chất trong đó chủ thể
làm biến đổi khách thể. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các
phương tiện, công cụ vật chất cũng như sức mạnh vật chất của mình để tác động
vào tự nhiên, XH nhằm cải tạo, làm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử
dụng của mình. Vì vậy có thể nói thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản nhất

của con người và XH, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa
con người và thế giới.
Hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội vì nội dung, phương pháp,
phương tiện cũng như phạm vi ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào những điều kiện
lịch sử nhất định. Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay
đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của XH, nhưng htực tiễn luôn luôn là
dạng hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của xã
hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của XH
loài người. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ
phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm
chủ XH của con người.
Là những hoạt động có mục đích cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ cho
con người, nó thể hiện tính tự giác cao, khác với hoạt động bản năng của con vật
15
(hoạt động của động vật là hoạt động thích nghi). Hoạt động thực tiễn được thể
hiện qua ba hình thức cơ bản sau đây:
Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây
là hình thức nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát
triển của XH loài người, quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn.
Hình thức cơ bản thứ hai của thực tiễn là hoạt động CT-XH nhằm cải tạo,
biến đổi XH, phát triển các quan hệ XH, chế độ XH (mít tinh, biểu tình, bãi
công, bãi khóa, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ) Đây là hình
thức hoạt động thực tiễn cao nhất, thiếu hình thức này con người không thể phát
triển bình thường.
Với sự ra đời và phát triển của khoa học làm xuất hiện hình thức cơ bản
thứ ba của thực tiễn hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức hoạt
động thực tiễn đặc biệt nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra
lý thuyết khoa học. Hình thức hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng do sự
phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.
Trong ba hình thức ấy thì hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản

nhất, vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong mọi
thời kỳ lịch sử. Hơn nữa, các hình thức hoạt động khác suy cho cùng là từ hoạt
động đó mà ra và nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động đó.
Hoạt động thực tiễn có hai đặc trưng sau:
Thứ nhất, hoạt động thực tiễn là những hoạt động vật chất của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nói đến hoạt động thực tiễn là hoạt động vật
chất, điều đó có nghĩa là, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những
đối tượng vật chất, những phương tiện vật chất … để tác động, trực tiếp làm
thay đổi bản thân sự vật, trực tiếp cải tạo thế giới trong hiện thực. Nói đến hoạt
động vật chất, tức là nói đến sức mạnh vật chất, sức mạnh trực tiếp cải tạo thế
giới của con người. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra một
hiện thực mới, một “thiên nhiên thứ hai”, thế giới của văn hóa tinh thần và vật
chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn có tính lịch sử xã hội. Tính xã hội của hoạt
động thực tiễn có nghĩa là thực tiễn không chỉ là những hoạt động của từng con
người riêng lẻ, mà là dạng hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Xét từ nội
16
dung cũng như từ phương thức thực hiện, hoạt động thực tiễn mang tính xã hội.
Hoạt động thực tiễn là một quá trình lịch sử, trải qua quá trình vận động và phát
triển và các giai đoạn lịch sử của nó. Có thể nói, thực tiễn là sản phẩm lịch sử,
những mối quan hệ muôn vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con
người với con người.
Thực tiễn là cơ sở và động lực chủ yếu của nhận thức. Bằng hoạt động thực
tiễn, con người trực tiếp tác động vào sự vật, bắt các sự vật hiện tượng của thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính và tính quy luật của chúng. Điều đó có nghĩa
là thực tiễn đã cung cấp những tài liệu làm cơ sở cho nhận thức. Tri thức của
con người có thể thu nhận được dưới dạng trực tiếp từ thực tiễn hoặc dưới dạng
gián tiếp. Nhưng xét đến cùng thì mọi tri thức của con người đều nảy sinh từ
hoạt động thực tiễn. Không có thực tiễn thì con người sẽ không có nhận thức,
không có hiểu biết. Không có những kinh nghiệm thực tiễn thì không có tri thức

lý luận. Hơn nữa, chính trong quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở phát huy
tính tích cực sáng tạo của con người, là cơ sở của sự phát triển trí tuệ con người.
Thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển, luôn đặt ra những vấn đề mới đòi
hỏi nhận thức phải trả lời, đặt ra những nhiệm vụ và phương hướng phát triển
cho nhận thức, đòi hỏi những tri thức mới, những khái quát mới để lý giải những
vấn đề nảy sinh … Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Trong
lịch sử, các môn khoa học nối tiếp nhau ra đời và phát triển trên cơ sở quá trình
hoạt động thực tiễn của loài người, nhằm đáp ứng những nhu cầu do sự phát
triển của thực tiễn đề ra.
Thực tiễn có vai trò to lớn đối với nhận thức, vai trò đó được thể hiện ở
chố:
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức. Hoạt động thực tiễn của con
người ngay từ đầu đã bị quy định bởi những nhu cầu thực tiễn. Muốn sống,
muốn tồn tại, con người phải sản xuất, cải tạo tự nhiên và xã hội. Chính nhu cầu
sản xuất vật chất, cải tạo xã hội buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận
thức thế giới xung quanh. Rõ ràng con người quan hệ với thế giới xung quanh
không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng và thông qua thực tiễn. Bằng hoạt
động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới
khách quan phải bộc lộ những thuộc tính, những tính chất, những quy luật để
con người nhận thức. Chính thực tiễn đã cung cấp cho nhận thức của con người
17
những hiểu biết về thế giới. Như vậy, mọi tri thức của con người, xét đến cùng
đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của
nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học mới. Thực
tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho chúng phát
triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn. Trên cơ sở đó giúp nhận thức của con người
đạt hiệu quả hơn. Bởi lẽ, chính trong hoạt động thực tiễn, con người cũng cải
biến luôn chính bản thân mình, phát triển năng lực, trí tuệ của mình. Ph.
Ăngghen đã khẳng định: “… chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không

phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu
nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển
song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”. Hoạt động thực tiễn còn
là cơ sở để chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con người
trong quá trình nhận thức. Chính nhu cầu chế tạo và cải tiến công cụ sản xuất
cũng như công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức đã thúc đẩy nhận thức,
tư duy phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức của con người là nhằm
phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhận thức mà không
nhằm mục đích phục vụ thực tiễn thì sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức
khoa học, mọi lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng được áp dụng vào thực
tiễn, nghĩa là được vận dụng vào sản xuất vật chất, vào cải tạo xã hội và vào
thực nghiệm khoa học nhằm phục vụ con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chân lý không phải là cái gì đó hiển
nhiên, không phải cái có ích, có lợi. Chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về
số đông. Chân lý là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và được
thực tiễn kiểm nghiệm. Bởi lẽ chỉ có bằng và thông qua thực tiễn con người mới
vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó khẳng định được
chân lý, bác bỏ được sai lầm.
Thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối, vừa
có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn là khách quan chân lý
bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn luôn vận động, biến đổi,
phát triển. Do đó, với tư cách là tính chất chân lý nó cũng không đứng im mà
luôn thay đổi.
18
Nghiên cứu vấn đề này cho thấy, phải có quan điểm thực tiễn trong nhận
thức và trong hoạt động. Quan điểm này yêu cầu: nhận thức sự vật phải gắn với
nghiên cứu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý
luận của chủ trương, đường lối, chính sách; phải tăng cường tổng kết thực tiễn
để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận cũng như chủ trương đường lối, chính

sách.
Nghiên cứu và vận dụng sáng tạo vấn đề này trong thực tiễn còn góp phần
khắc phục bệnh giáo điều trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Bệnh
giáo điều là khuynh hướng cường điệu lý luận, coi thường thực tiễn, tách rời lý
luận khỏi thực tiễn. Ở nước ta có hai loại giáo điều: Giáo điều lý luận, tầm
chương trích cú. Chỉ căn cứ trên câu chữ trong sách vở, xa rời cuộc sống, xa rời
thực tiễn. Giáo điều kinh nghiệm: bắt chước, dập khuôn máy móc. Áp dụng lý
luận một cách cứng nhắc không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể. Áp dụng kinh
nghiệm người khác một cách rập khuôn máy móc.
Bệnh giáo điều biến chủ nghĩa xã hội khoa học thành những công thức sơ
cứng, phiến diện, cản trở quá trình đổi mới thường xuyên CNXH hiện thực.
Nguyên nhân của bệnh giáo điều là do tác động tiêu cực của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, tư tưởng gia trưởng; ảnh hưởng của chủ nghĩa thành
tích, hình thức…. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là vi phạm sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, không nắm được thực chất mối quan hệ biện chứng giữa thực
tiễn và lý luận.
Do đó, cùng với từng bước hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa khắc phục tư tưởng tiểu tư sản, chủ nghĩa hình thức, thành tích thì
phải quán triệt tốt trên thực tế nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Do đó,
Phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn. Do vậy, cán bộ phải thường xuyên
được bồi dưỡng lý luận, và cán bộ lý luận phải thường xuyên thâm nhập và đi
thực tế. Phải có cơ chế chính sách trên thực tế để đảm bảo học đi đôi với hành,
lý luận liên hệ với thực tiễn, gắn giáo dục đào tạo với cơ sở kinh tế xã hội. Tăng
cường tổng kết thực tiễn nhưng phải khách quan trung thực không được tô hồng,
bôi đen, có mục đích đúng đắn. Các kết luận rút ra phải có tính khái quát cao,
nghĩa là có giá trị chỉ đạo thực tiễn tiếp theo.
19
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, quán triệt tốt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là góp phần ngăn ngừa, khắc phục bệnh

kinh nghiệm suông và bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này: một mặt, phải ra sức
học tập, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, phải có
phương pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với
thực tế. Nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc phải
bệnh giáo điều, sách vở. Người chỉ rõ, "lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học
tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng
ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế". Điều quan trọng nữa theo
Người là phải chống giáo điều ngay trong học tập Chủ nghĩa Mác - Lê nin. Theo
Hồ Chí Minh, "học tập Chủ nghĩa Mác -Lê nin là học tập cái tinh thần xử trí mọi
việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ
biến của Chủ nghĩa Mác- Lê nin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh
thực tế của nước ta. Học để mà làm" Như vậy, học tập Chủ nghĩa Mác - Lê nin
trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ quốc, nhân dân,
giai cấp. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý
luận và thực tiễn đối với chúng ta.
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa khắc phục bệnh giáo
điều có hiệu quả thì phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận.
Khi có lý luận phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực tiễn để làm
giàu lý luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy trình
như vậy thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều. Đồng
thời thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bởi lý luận sẽ không bị mò mẫm, vấp váp,
hay chệch hướng. Và như vậy thì bệnh giáo điều cũng không còn chỗ đứng.
20
Câu 7: Nêu quan điểm triết học của Lê Nin về vật chât, ý thức ? quan
hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận ?
Trả lời:
Vật chất và YT là phạm trù cơ bản của triết học, làm sáng tỏ mối quan hệ
VC và YT chính là góp phần làm sáng tỏ vấn đề cơ bản của triết học, là chìa
khoa để đi nghiên cứu các vấn đề khác của triết học đồng thời là cơ sở phương

pháp luận trong nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Trong lịch sử, khi đề cập đến mối quan hệ giữa VC và YT, cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào… đã có không ít ý kiến khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Chỉ đến khi CNDV Mác xít ra đời, mối quan hệ
này mới được làm sáng tỏ. Theo quan điểm DVBC, "Vật chất là phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác".
Còn, "Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới quan". Theo C.Mác, ý thức
"chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó" .
Ý thức của con người là sự phản ánh trong bộ não con người một cách tích
cực chủ động và sáng tạo đối với thế giới khách quan để có hình ảnh của các sự
vật hiện tượng giúp con người có tri thức, sự hiểu biết và tình cảm đối với thế
giới trên cơ sở của hoạt động thực tiễn (lao động đấu tranh ).
Trong mối quan hệ giữa VC và YT thì vật chất có trước, ý thức có sau. Vật
chất sinh ra ý thức, ý thức là chức năng của óc người - dạng vật chất có tổ chức
cao nhất của thế giới vật chất. Không thể có ý thức trước khi có con người hay ý
thức nằm ngoài con người, độc lập với con người. Ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào óc con người. Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý
thức.
Theo đó, tồn tại vật chất trong hoạt động thực tiễn trong xã hội của loài
người (sản xuất, đấu tranh ) quyết định đến nội dung hoạt động tư duy của loài
người cũng như từng cá nhân con người. Trong đó, điều kiện địa lý là tồn tại vật
chất chi phối sự nhận thức của con người để tạo ra của cải vật chất (phải tính
21
toán ). Đó là tài nguyên thiên nhiên. Là tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, giai
cấp nào nắm được sẽ trở thành ông chủ và chi phối toàn xã hội.
Giai cấp nào nắm tư liệu sản xuất sẽ nắm quyền lực chính trị, vì vậy mọi
hoạt động văn hóa chính trị, tinh thần, tư tưởng phụ thuộc vào ông chủ. (Khi làm

chủ được chính trị lại nắm được kinh tế đó là sự tác động ngược trở lại).
Trong quá trình tổ chức hoạt động, con người phải căn cứ điều kiện vật
chất khách quan để hoạt động (sản xuất của cải vật chất nuôi sống xã hội; dựa
vào điều kiện, sự tồn tại vật chất để định ra tư duy về quốc phòng )
Điều kiện hoàn cảnh yếu tố địa lý gắn với từng dân tộc tạo ra yếu tố tâm
lý, sinh hoạt mang tính truyền thống và ảnh hưởng đến văn chương, hội họa,
nghệ thuật, sắc thái văn hóa.
Dân số và mật độ dân số liên quan đến mọi lĩnh vực: nguồn lực lao động.
Phương thức sản xuất: Lực lượng sản xuất (người lao động gắn với dân số,
nguồn lực lao động); Tư liệu sản xuất gắn với tài nguyên, đất đai; Quan hệ sản
xuất: ai nắm đất đai, tài nguyên, lực lượng lao động người đó có quyền phân
phối của cải vật chất.
VC quyết định YT, song ý thức có tính độc lập tương đối, tác động to lớn
trở lại VC. Điều này được thể hiện ở chỗ:
Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm với một mức độ nhất định sự biến đổi
của những điều kiện vật chất. Con người có khả năng nhận biết được các hiện
tượng tự nhiên xã hội trên cơ sở đó con người có khả năng tổ chức cải tạo tự
nhiên xã hội tổ chức các mặt của hoạt động thực tiễn (Bảo vệ ).
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người. Con người dựa trên các tri thức về những quy luật khách quan mà đề ra
mục tiêu, phương hướng thực hiện; xác định các phương pháp và bằng ý thức
thực hiện mục tiêu ấy. Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức độ
nào đi chăng nữa thì nó vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất.
Để cải tạo tự nhiên xã hội đòi hỏi con người phải có tri thức, nhận thức
đúng và nếu đề ra chủ trương chính sách hợp lý phù hợp quy luật thì sẽ thúc đẩy
hoạt động thực tiễn đi nhanh hơn, đời sống phát triển. Ngược lại trong một giai
đoạn nào đó nếu chúng ta đề ra những chủ trương chính sách xa thực tế hay làm
22
trái quy luật thfi sẽ làm kinh tế xã hội sa sút cản trở sự phát triển và tiến bộ xã
hội.

Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã
hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các
mối quan hệ khác nhau: chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn, điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan v.v
Nghiên cứu, làm sáng tỏ quan điểm của Lê nin về mối quan hệ VC và YT
có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy, con
người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
của mình.
Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất, cho nên trong
nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong
hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức
lực lượng thực hiện biến khả năng thành hiện thực. Tôn trọng khách quan là tôn
trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này
đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất
phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt
động của mình. V.I. Lênin dã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ
quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu
lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải
bệnh chủ quan duy ý chí. (Nguyên nhân: ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ;
yếu kém về lý luận; quan liêu xa rời thực tế).
Khi đánh giá kết luận các sự vật hiện tượng đòi hỏi chúng ta phải đảm bảo
tính khách quan: điều tra kiểm sát thông tin đối tượng một cách nghiêm túc và
đảm bảo thông tin phải trung thực, không được điều tra sơ sài đã kết luận dẫn

đến suy diễn có tính chủ quan sai lầm.
23
Khi đề ra những mục tiêu chương trình phát triển phải điều tra kiểm sát
một cách khách quan và phải nắm bắt đúng thực tế, dựa trên điều kiện thực tế
khách quan đồng thời phải tôn trọng những quy luật khách quan.
Khi đề ra chủ trương chính sách mục tiêu, chương trình phát triển đòi hỏi
phải tổng kết thực tiễn, nhưng tổng kết đòi hỏi phải khách quan (điều tra, kiểm
sát, tổng kết, báo cáo) nếu không sẽ nhiễu loạn thông tin gây khó khăn cho quản
lý nhà nước (ví dụ các vụ đất đai ở Hải Phòng, thanh tra dầu khí, giáo dục )
Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động của con người, cho nên cần phải phát huy tính tích cực, tính năng động chủ
quan của ý thức đối với vật chất bằng cách nhằm nâng cao năng lực nhận thức
các quy luật khách quan và vận dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn của
con người. Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của
ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực
tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện
thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong
thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông
qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy luật
khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí, phải có
phương pháp để tổ chức hành động, cần nhận rõ vai trò tích cực của nhân tố ý
thức, tinh thần trong việc sử dụng một cách có hiệu quả nhất những điều kiện
phương tiện vật chất hiện có.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người để
cải tạo thế giới khách quan, phải tạo ra động lực hoạt động cho con người bằng
cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng, phát huy
dân chủ rộng rãi Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri
thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người
xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp
theo, con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện tổ chức

các hoạt động thực tiễn.
Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ thụ động, chờ
đợi vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan Bằng sự nỗ lực và ý chí
mạnh mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý
thức, tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành
24
công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan
trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược
lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con
người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động
sáng tạo của ý thức, cần phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, cần
phải khái quát, tổng kết hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lực
nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn, phát huy vai trò nhân tố con người để tác
động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ,
thái độ tiêu cực, thụ động, ngồi chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất
trong quá trình đổi mới hiện nay.
25

×