Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận lịch sử công tác tư tưởng, hoạt động tư tưởng của nguyễn ái quốc giai đoạn 1920 – 1930 và đóng góp đối với lịch sử công tác tư tưởng của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.71 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
 ĐỀ TÀI
HOẠT ĐỘNG TƯ TƯỞNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC GIAI ĐOẠN
1920 – 1930 VÀ ĐĨNG GĨP ĐỐI VỚI LỊCH SỬ CƠNG TÁC TƯ
TƯỞNG CỦA ĐẢNG.
  


MỤC LỤC
Lời mở đầu.......................................................................................................1
Phần nội dung..................................................................................................3
I. Sơ lược về thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh........................3
1. Giới thiệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh...........................................................3
2. Giới thiệu về Tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................................3
II.

Hoạt động tư tưởng của Hồ Chí Minh giai đoạn 1920 – 1930................4

1. Hồ Chí Minh ở Pháp (1921 – 1923)............................................................4
2. Hồ Chí Minh ở Liên Xơ (1923 – 1924)......................................................6
3. Hồ Chí Minh ở Trung Quốc (1924 – 1927)................................................7
4. Hồ Chí Minh ở Thái Lan (1928).................................................................8
5. Hồ Chí Minh trở về Trung Quốc (1929 – 1930). Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời..........................................................8
III.

Đánh giá những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với lịch sử

cơng tác tư tưởng của Đảng.............................................................................11
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (giai đoạn 1921


- 1930):............................................................................................................11
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa các mạng thuộc địa và cách
mạng chính quốc, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới (giai đoạn
1921 - 1930)....................................................................................................13
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản và cán bộ cách mạng (giai đoạn
1921-1930)......................................................................................................13
Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................16


Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là “Anh hùng giải phóng dân tộc
Việt Nam, Danh nhân văn hoá thế giới” (UNESCO – 1987), là “một trong
một trăm nhân vật ảnh hưởng nhất thế kỷ XX” (TIME – 2005). Người là
người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam. Điếu văn của BCH TW Đảng
Lao động Việt Nam – 1969 viết: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước
ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã
làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Hồ Chủ tịch đã để lại cho dân tộc và nhân loại một di sản đồ sộ, vô
cùng quý báu. Đó là cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Trong kho tàng ấy, Tư tưởng Hồ Chí Minh giữ một vị trí đặc biệt.
Cùng với Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành “kim chỉ
nam cho hành động” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đó là thứ vũ khí lý
luận vô cùng sắc bén, là ngọn hải đăng soi đường chỉ lối cho dân tộc Việt
Nam tiến về phía trước.
Em đã chọn đề tài “Hoạt động tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn
1920 – 1930 và đóng góp đối với lịch sử công tác tư tưởng của Đảng” làm đề
tài nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn về quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như những sự kiện chính xảy ra trong quãng thời gian hoạt động
cách mạng của Người.
1. Lý do chọn đề tài

Việc lựa chọn đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu học tập sâu về Tư
tưởng Hồ Chí Minh, nguồn gốc – quá trình hình thành qua thời kỳ lịch sử giai
đoạn 1920 – 1930.
2. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận làm rõ những sự kiện chính trong quãng thời gian hoạt động
1920 – 1930 của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, qua đó chỉ ra những Tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh xuất hiện trong thời kỳ này, thấy
1


được những thay đổi, phát triển trong những tư tưởng ấy so với những thời kỳ
trước.
3. Phạm vi nghiên cứu
– Về quãng thời gian nghiên cứu: từ năm 1920 đến hết năm 1930, mở
đầu bằng mốc 1920 với sự kiện Bác tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc Việt Nam, kết thúc là 1930 – Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới cho
lịch sử dân tộc.
– Về không gian nghiên cứu: theo phạm vi hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc. Trong đó: từ 1920 đến 1930 – Người sống và hoạt động tại Pháp, tại
Liên Xô (1923 – 1924), Trung Quốc (1924 – 1927), Thái Lan (1928 – 1929),
và thống nhất các tổ chức cộng sản ở Trung Quốc (1930).
– Về tài liệu nghiên cứu: Tiểu luận dựa trên các loại tài liệu dưới đây:
+ Các cơng trình nghiên cứu về tiểu sử, tư tưởng, cuộc đời hoạt động
của Hồ Chí Minh.
+ Văn kiện Đảng, Lịch sử Đảng quãng thời gian 1920 – 1930 về việc ra
đời của Đảng, Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
+ Các tác phẩm của Hồ Chí Minh: bài nói, phát biểu, kết luận, bài báo,
đặc biệt các tác phẩm tập hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tiên (tập hợp
trong Hồ Chí Minh tồn tập)

+ Tài liệu về lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới có liên quan để hiểu bối
cảnh ra đời và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh.

2


Phần nội dung
I. Sơ lược về thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Giới thiệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969) – Người con ưu tú nhất của dân
tộc và là một vĩ nhân của thời đại. Người là tượng trưng cao đẹp của chủ
nghĩa yêu nước và chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô
sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho,
nguồn gốc nơng dân, ở làng Hồng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của
thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh
hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về
chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các
phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu
dân, cứu nước.
2. Giới thiệu về Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chủ tịch đã dành cả cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Người đã để lại cho dân tộc và nhân loại một di sản đồ sộ, vơ cùng
q báu. Đó là cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.Trong kho tàng ấy, Tư tưởng Hồ Chí Minh giữ một vị trí đặc biệt.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”của chủ tịch Hồ Chí
Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam đúc kết lại. Đảng ta xác định lấy Chủ

nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành
động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hệ thống tư tưởng này bao gồm
những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và
phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam Ngày nay,
3


phong trào “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
do Đảng và Nhà nước phát động vẫn ln được quần chúng nhiệt tình hưởng
ứng. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, một mặt làm rõ
khái niệm, các nội dung cụ thể của Tư tưởng Hồ Chí Minh, mặt khác cịn chia
sự hình thành và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh thành những giai đoạn
khác nhau. Việc phân chia đó khơng phải sự phân chia đứt đoạn bởi Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một quá trình phát triển liên tục, nhất quán, có kế thừa, phát
triển, loại bỏ những quan điểm khơng phù hợp, có những luận điểm tư tưởng
của Người được hình thành, bổ sung suốt đời. Đặc biệt em tập trung nghiên
cứu sâu hơn vào giai đoạn hoạt động tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời
kỳ 1920 – 1930 bởi nó giữ một vai trị đặc biệt quan trọng với 10 năm hoạt
động sôi nổi nhất, quyết liệt nhất của Người. Bởi nếu nội dung chính của Tư
tưởng Hồ Chí Minh “là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam” thì giai đoạn này chính là giai
đoạn hình thành những tư tưởng cơ bản đó.
Trên cơ sở phân tích trên, chúng ta có thể phân chia sự hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn 1920 - 1930 thành năm thời kỳ
như sau:
1. Giai đoạn Hồ Chí Minh ở Pháp (1921 – 1923)
2. Giai đoạn Hồ Chí Minh ở Liên Xơ (1923 – 1924)
3. Giai đoạn Hồ Chí Minh ở Trung Quốc (1924 – 1927)
4. Giai đoạn Hồ Chí Minh ở Thái Lan (1928)

5. Giai đoạn Hồ Chí Minh trở về Trung Quốc (1929 – 1930). Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
II. Hoạt động tư tưởng của Hồ Chí Minh giai đoạn 1920 – 1930
1. Hồ Chí Minh ở Pháp (1921 – 1923)
Vào khoảng thời gian cuối năm 1917 – đầu năm 1918, Nguyễn Tất
Thành trở lại Pháp để gặp gỡ lãnh đạo của Hội những người Việt Nam yêu
nước đã được thành lập tại đây từ mấy năm trước để thảo luận, bàn bạc về
4


phương hướng hoạt động của hội. Không lâu sau thời gian hoạt động, Nguyễn
Tất Thành đã trở thành người có uy tín trong giới đồng bào Việt Nam tại đất
Pháp.
Năm 1919, các nước đế quốc thắng trận trong chiến tranh thế giới lần
thứ nhất đã tổ chức họp Hội nghị tại Véc-xây để chia lại thị trường thế giới.
Thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành, lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc, đã gửi Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam tới Hội
nghị. Bản Yêu sách đề cập đến hai nội dung cơ bản: một là những vấn đề sơ
đẳng nhất về quyền tự do, dân chủ, quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam; hai
là vạch trần tội ác của đế quốc Pháp ở thuộc địa, để cho tồn thế giới biết tới
tình hình Việt Nam dưới ách thống trị của đế quốc Pháp. Tuy “Yêu sách của
nhân dân An Nam” không được Hội nghị Véc-xây xem xét đến bởi Hội nghị
này là nơi các nước đế quốc chia phần nhưng đã có tiếng vang lớn trong nhân
dân Pháp và các nước thuộc địa của Pháp. Yêu sách đã nói lên rằng phong
trào cách mạng giải phóng của nhân dân Việt Nam đã có ngọn cờ lãnh đạo, đó
là ngọn cờ yêu nước với người đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc.
Trong khơng khí sơi động của nước Pháp dước ảnh hưởng của Cách
mạng Tháng Mười, sự ra đời của Quốc tế Cộng sản tháng 3 – 1919; Đại hội
lần thứ II Quốc tế Cộng sản tháng 7 – 1920 ... Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập
Đảng Xã hội Pháp, hoạt động rất tích cực để thể hiện hoài bão đã chọn.

Ngày 16 và 17 tháng 7 – 1920, báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp đã
đăng Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa. Sau này, nhớ lại
niềm sung sướng khi đọc bản Luận cương của Lênin, Người đã viết: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói
to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta.”

5


Cuối năm 1920 lịch sử đó, Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp
họp tại thành phố Tua Nguyễn Ái Quốc là đại biểu chính thức của Đảng và là
đại biểu duy nhất của các nước thuộc địa Đơng Dương, Người đã cùng một số
đồng chí của mình ủng hộ việc gia nhập Quốc tế III.
Tháng 7 – 1921 tại Paris, Nguyễn Ái Quốc đã gặp nhiều người cách
mạng châu Phi, châu Mỹ Latinh và cùng họ thành lập Hội Liên hiệp thuộc
địa. Ngày 19-1-1922, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp thuộc địa đã họp và
quyết định lập ra Hội Hợp tác người cùng khổ và ra tờ báo cùng tên do
Nguyễn Ái Quốc phụ trách chính trong việc xuất bản, sửa chữa, đi in và gửi
báo đi các thuộc địa.
⇨ Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917-1923) đã
đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động của Người: từ một người yêu nước trở
thành một người Cộng sản, tù chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác
Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản.
2. Hồ Chí Minh ở Liên Xơ (1923 – 1924)
Tháng 10 năm 1923 Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô tham dự đại hội lần
thứ nhất của nông dân Quốc tế Mácxcơva và được bầu vào Ban Chấp hành
Quốc tế nông dân. Tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần tham luận nhằm

nhấn mạnh vai trò của vấn đề dân tộc và thuộc địa. Cũng thời gian này, Người
tham dự các đại hội của Quốc tế Công hội Đỏ, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế
Thanh niên... và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông.
Là Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc say mê nghiên
cứu lý luận của Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản trên tất cả các vấn đề
đấu tranh cách mạng, đặc biệt là vấn đề dân tộc thuộc địa, đồng thời tham gia
tích cực mọi hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện lý luận và các nghị quyết của
Quốc tế Cộng sản. Những hoạt động xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc được
Trung ương Đảng Cộng sản Pháp đánh giá cao và cử đi tham dự Đại hội V
Quốc tế Cộng sản ở Mácxcơva.

6


Ngày 30-6-1923 Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Paris đi Liên Xơ, trở thành
người Việt Nam đầu tiên có mặt trên đất nước Lênin, nơi nhân dân Liên Xô
đã được tự do và xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, bình đẳng. Tại Liên Xơ,
Người tích cực hoạt động, học tập để hướng tới con đường giải phóng dân tộc
và góp phần phát triển tư tưởng độc lập tự do cho các dân tộc bị áp bức trên
thế giới.
3. Hồ Chí Minh ở Trung Quốc (1924 – 1927)
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc tức Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
Macxcơva tới Quảng Châu, Trung Quốc, đây là sự kiện lịch sử có ý nghĩa lịch
sử quan trọng. Tại đây, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cơng tác lý luận, cơng tác tuyên truyền, công
tác tổ chức và bồi dưỡng cán bộ cho việc trở về nước để lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam.
Cũng tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên lạc và kết nối được với một
số nhà hoạt động cách mạng đến từ các quốc gia, dân tộc bị áp bức, bóc lột
trên thế giới, cùng thành lập đoàn thể cách mạng, tiến hành đấu tranh chống

chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Hồ Chí Minh chọn Trung Quốc để tiến hành hoạt động cách mạng năm
1924 bởi đây là thời điểm cách mạng Trung Quốc có nhiều thay đổi lớn,
phong trào cách mạng với Quảng Châu làm trung tâm thu được nhiều thắng
lợi. Thời điểm này Quảng Châu được mệnh danh là “Macxcơva phương
đông” thu hút rất nhiều nhà hoạt động cách mạng tới từ các quốc gia bị áp
bức. Quảng Châu khi đó cịn là nơi tập trung của nhiều nhà hoạt động cách
mạng đến từ Việt Nam như nhà cách mạng dân chủ Phan Bội Châu, tham gia
tổ chức “Phục Quang Hội”, sau một số người thanh niên Việt Nam thành lập
tổ chức “Tâm Tâm Xã”.
Được sự giúp đỡ bí mật của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính Phủ
cách mạng ở Quảng Châu, từ đầu năm 1926 đến tháng 4-1927, Nguyễn Ái
Quốc đã trực tiếp mở ba lớp huấn luyện chính trị cách mạng cho lớp thanh
7


niên ưu tú của Việt Nam, với tổng số 75 người. Từ giữa năm 1926 đến đầu
năm 1927 Nguyễn Ái Quốc mở thêm hai lớp nữa, mỗi lớp hơn 30 người. Nội
dung học tập mới mẻ và phóng phú đã lôi cuốn sự say mê của các học viên.
Kết thúc khóa học, có người được giữ ở lại cơng tác, có người được cử đi học
tiếp ở các trường đại học Cộng sản, cịn phần đơng thì được cử về nước hoạt
động, gây dựng và tổ chức, phát triển phong trào cách mạng Việt Nam.
Cũng tại đây, vào năm 1927, Người cho ra đời tác phẩm Đường kách
mệnh (Đường cách mạng) là tác phẩm ghi lại những bài giảng của mình cho
các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu. Trải qua 90 năm từ thời điểm cuốn
sách được xuất bản lần đầu tiên, nhưng tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị lý
luận và thực tiễn sâu sắc.
4. Hồ Chí Minh ở Thái Lan (1928)
Sau một thời gian làm việc trong Quốc tế Cộng sản, giữa năm 1928 Hồ
Chí Minh sang Xiêm (sau này là Thái lan) để tránh sự theo dõi của mật thám

nước ngoài. Ở đây người mang tên Thầu Chín và cịn có bí danh Ơng Thọ,
Nam Sơn. Địa bàn hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tập trung chủ yếu ở các
tỉnh đông bắc của Xiêm, song song với các tỉnh, thành phố của Lào là Viêng
Chăn, Khăm Muộn và Savằnnakhệt.
Nguyễn Ái Quốc chọn Thái Lan không chỉ là nhiệm vụ “ tuyên truyền
cách mạng về trong nước từ phía tây” mà cịn để làm bàn đạp trở về Việt Nam
qua đường Lào, bởi nơi đây có hậu thuận của hơn 10000 Việt kiều đang làm
ăn, sinh sống, đa phần là họ là những người Việt Nam yêu nước tạm thời phải
lưu lạc bởi sự truy đuổi gắt gao của thực dân Pháp.
5. Hồ Chí Minh trở về Trung Quốc (1929 – 1930). Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Cuối mùa thu năm 1929, Hồ Chí Minh trở lại Hồng Kơng để triệu tập
Hội nghị đại biểu các tổ chức Cộng sản để thống nhất ba tổ chức Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản

8


liên đồn, thành lập ra một chính Đảng chung nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trong lúc công việc của Nguyễn Ái Quốc đang diễn ra thuận lợi thì ở
Trung Quốc xảy ra sự biến. Cánh hữu của Quốc dân Đảng mở cuộc tiến công
nhằm vào những người Cộng sản. Nhiều người Việt Nam đang hoạt động tại
Trung Quốc bị bắt, Nguyễn Ái Quốc đành phải rời Quảng Châu đi Liên Xơ.
Từ Liên Xơ, người đã có những chỉ thị quan trọng nhằm thúc đẩy việc thành
lập Đảng cộng sản. Trong gia đoạn Đảng chuẩn bị ra đời, mặc dù Bác khơng
có trong nước nhưng những người học trị của Người vẫn tiếp tục xúc tiến
công việc mà thầy của mình đã vạch ra.
Đánh giá ý nghĩa ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh
viết: "Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào

yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân
năm 1930. Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng".
Có thể nói Hội nghị thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản
nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng là
một tất yếu lịch sử do điều kiện trong nước và thế giới lúc ấy quyết định.
Đồng thời đó là kết quả rực rỡ của một q trình hoạt động sơi nổi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Người đã phấn đấu kiên cường trong phong trào công nhân
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, kiên trì học tập, tìm tịi nghiên cứu
và rèn luyện. Đó là một kết quả to lớn của gần 10 năm chuẩn bị rất công phu
và đầy đủ của Người về các mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản trong nước có ý nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản
triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đơng
9


Dương Cộng sản Đảng (6-1929); hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng
(10-1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động ngồi nước. Hội nghị họp
bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long (Hương Cảng), từ
ngày 6-1 đến 7-2-1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam và nhất trí thơng qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản: Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt
của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành nội dung
Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin,
đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương

lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế
giới và Đơng Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn
kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một lơgic hợp lý của một Cương
lĩnh chính trị của Đảng.
Tháng 10-1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại
Hương Cảng do điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao
phong trào cách mạng. Hội nghị họp từ ngày 14-10 đến 31-10-1930 thảo luận
và thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết của Trung ương tồn
thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đơng Dương và nhiệm vụ cần kíp của
Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Hội
nghị thông qua 17 văn bản là Nghị quyết, Điều lệ của các tổ chức đoàn thể
cách mạng ở nước ta, công tác vận động công nhân, nông dân, thanh niên,
phụ nữ, binh lính, lập Hội đồng minh phản đế Đông Dương và bản Thông cáo
cho các Xứ ủy bổ sung nội dung của Cương lĩnh. Hội nghị Trung ương quyết
định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đơng Dương,
bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư, nên Cương lĩnh thứ hai mà bản Luận
cương chánh trị là văn kiện quan trọng, mang tên là Cương lĩnh của Đảng
Cộng sản Đông Dương.
10


III.Đánh giá những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
lịch sử công tác tư tưởng của Đảng.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (giai
đoạn 1921 - 1930):
Giai đoạn từ 1920 đến 1930 đáng được ghi nhận là một trong những
giai đoạn quan trọng bậc nhất trong quá trình hình thành và phát triển của tư
tưởng Hồ Chí Minh với sự hình thành tư tưởng về cách mạng giải phóng dân
tộc, về đảng cộng sản, về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách

mạng quốc tế...
Những nội dung tư tưởng hình thành trong giai đoạn này thể hiện ở
những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và chủ yếu ở các tác phẩm: Bản
án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách mệnh (1927), và các tác phẩm
tập hợp trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930).
a) Mục tiêu của cách mạng:
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con
đường cách mạng vơ sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng
nhân dân lao động, giải phóng giai cấp cơng nhân, phải kết hợp độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội.
b) Bản chất của cách mạng:
Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh
đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập tự do.
⇨ Đây là một cách nhìn nhận, đánh giá hết sức đúng đắn của Hồ Chí
Minh. Người đã nhìn ra mâu thuẫn cơ bản của một xã hội thuộc địa, đó là
mâu thuẫn dân tộc. Khát vọng lớn lao nhất của người dân là được độc lập, tự
do. Vì thế, trước hết phải thực hiện cuộc dân tộc cách mệnh để đánh đuổi
ngoại xâm, thành lập chính quyền do nhân dân làm chủ. Đó là tiền đề, cũng là
điều kiện tiên quyết để tiến hành đấu tranh giai cấp, xây dựng kinh tế xã
hội..v.v.v..
c) Lực lượng cách mạng:
11


Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng, phải tập hợp lực
lượng dân tộc thành một sức mạnh lớn để chống đế quốc và tay sai. Trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh viết: “Đảng phải thu
phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo”.
Đồng thời lại “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức trung nơng... để lơi
kéo họ về phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tự

bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm
cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mắt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
d) Phương pháp đấu tranh:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc đại đoàn kết.
Phải tổ chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng các hình thức và
khẩu hiệu thích hợp. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền, giành lại
độc lập tự do là bằng bạo lực của quần chúng và có thể bằng phương thức
khởi nghĩa dân tộc.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và rút ra kinh nghiệm lịch sử từ các vị tiền
bối. Người đánh giá các cụ Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh... đều là những vị anh hùng dân tộc, yêu nước thương
dân nhưng phương pháp đấu tranh của các cụ chưa đúng và Người không
đồng tình. Ví dụ như:
-

Cụ Phan Chu Trinh chỉ u cầu Người Pháp thực hiện cải lương.

Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lịng thương.
-

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất

nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
-

Cụ Hoàng Hoa Thám cịn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống

Pháp. Nhưng theo người ta kể thì cụ cịn nặng cốt cách phong kiến. Anh thấy
rõ và quyết định chọn con đường nên đi...”.
Hồ Chí Minh thấy rằng chỉ có bằng bạo lực của quần chúng nhân dân,

và phải tự dựa vào mình “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, chứ không thể ở

12


lại trơng chờ bên ngồi. Đó là những nhận thức đúng đắn đem lại nền độc lập
cho nước ta ngày nay.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa các mạng thuộc địa
và cách mạng chính quốc, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
(giai đoạn 1921 - 1930).
Năm 1921, Hồ Chí Minh khi ấy đang hoạt động ở Pháp đã cùng một số
nhà cách mạng của Angiêri, Tuynidi, Marốc, Madagasca... thành lập Hội liên
hiệp các dân tộc thuộc địa. Hội đã ra báo Người cùng khô, rồi bí mật chun
về các thuộc địa. Qua đó truyền bá chủ nghĩa Mác và các tư tưởng của Hội.
Các nghiên cứu cho thấy Hồ Chí Minh là người hoạt động tích cực, sơi nổi
nhất của Hội.
Tiếp đó, năm 1927, Hồ Chí Minh lại thành lập Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức á đơng tại Trung Quốc.
Ngồi ra, trong thời kỳ hoạt động ở Pháp, ở Anh, ở Liên Xơ, Trung
Quốc... Hồ Chí Minh cũng thường đi sâu vào phong trào công nhân, thợ
thuyền của các địa phương đó. Chính hoạt động thực tiễn đã giúp cho Hồ Chí
Minh có được sự cảm thơng, và Người dễ dàng tiếp nhận và hưởng ứng tinh
thần của Quốc tế cộng sản “Vơ sản tồn thế giới liên hiệp lại”.
Trong q trình soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm
1930 cũng như suốt quãng thời gian lãnh đạo về sau, Hồ Chí Minh đều khẳng
định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, và Người
u cầu phải đồn kết chặt chẽ cùng vơ sản thế giới, nhất là vô sản Pháp.
Sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trở thành nguồn lực to lớn tạo nên những thắng lợi thần kỳ của
quân và dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản và cán bộ cách mạng
(giai đoạn 1921-1930)
Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi. Người viết: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân
13


dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vơ tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng
lãnh đạo mới chắc thắng lợi” (Hồ Chí Minh tồn tập – tập 9, trang 290).
Trong Đường Kách mệnh, Người viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?
Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức quần
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững
thì thuyền mới chạy”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương
hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và
định phương châm cho đúng.
Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của Chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào cơng nhân và phong trào u nước. Điều đó lý giải vì sao
năm 1925 Hồ Chí Minh chỉ thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội mà khơng thành lập ngay đảng cộng sản vì khi đó 3 nhân tố cho sự ra
đời của Đảng cộng sản chưa chín muồi: Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa được
truyền bá sâu rộng trong nước, phong trào công nhân đang phát triển tự phát
mà chưa chuyển sang tự giác, phong trào yêu nước thì manh mún, chia rẽ
thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Thơng qua VN TNCMĐCH, Hồ Chí
Minh đã chuẩn bị mọi mặt để thành lập Đảng. Đây cũng là một bước phát
triển mới trong Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi Lênin, bằng sự quan sát
thực tiễn cách mạng châu Âu, cho rằng Đảng ra đời kết hợp bởi chủ nghĩa
Mác và phong trào cơng nhân thì Hồ Chí Minh, với sự hiểu biết đất nước
mình - một xã hội thuộc địa cho rằng cần cộng thêm vào đó cả phong trào yêu
nước. Và Đảng cộng sản Việt Nam thực sự “là đảng của dân tộc”.

Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản
chất giai cấp công nhân. Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh viết: “Đảng
ta là đội tiên phong của vơ sản giai cấp”. Trong Chương trình văn tắt của
Đảng Người viết: Đảng là “đội tiên phong của đạo quân vô sản”. Đảng tập
hợp vào hàng ngũ của mình những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản,
14


chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh
phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ
phận Đảng”. Hồ Chí Minh khẳng định rõ mục đích của Đảng là “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. “Đảng
liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”.
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng cộng sản
Việt Nam phải lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, phải dựa vào lý
luận cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin. Khi huấn luyện
cho cán bộ cách mạng năm 1925 – 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đẳng
muốn vững phải có Chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng
có trí khơn, tàu khơng có kim chỉ nam” và Người khẳng định “Chủ nghĩa” ấy
là chủ nghĩa Mác Lênin. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
Hồ Chí Minh ln ln coi trọng chủ nghĩa Mác Lênin, chính chủ nghĩa Mác
Lênin là nguồn gốc cơ bản nhất hình thành tư tưởng của Người. Theo Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa Mác Lênin thực sự là “mặt trời soi sáng cho con đường cách
mạng Việt Nam, là “cái cẩm nang thần kỳ” để giải quyết các công việc cho
đúng đắn... Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác - Lênin như trí khơng của con
người, như bàn chỉ nam định hướng cho con tàu đi là nói lên vai trị cực kỳ
quan trọng của lý luận ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó,
theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tảng

tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.

15


Danh mục tài liệu tham khảo
1. 2016, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
2. Hồ Chí Minh, 2012, Đường Kách mệnh, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. 2011, Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội.
4. />5. />6. Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam/Đại
tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên. Nxb Chính trị Quốc gia, 1997.

16



×