Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Báo cáo " QUYỀN LỰC TỪ BÊN DƯỚI CÓ THỂ THAY ĐỔI THẾ GIỚI ĐƯỢC KHÔNG? " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.84 KB, 23 trang )

QUYỀN LỰC TỪ BÊN DƯỚI CÓ THỂ THAY ĐỔI
THẾ GIỚI ĐƯỢC KHÔNG?
_______________________________________________________
Diễn văn của Chủ tịch tại Hội nghị thường niên Hội Xã hội học Mỹ
năm 2007. In trong: Tạp chí xã hội học Mỹ, Vol. 73 (February) 2008,
trang 1-14.

Frances Fox Piven
Trung tâm đào tạo sau đại học
Đại học Thành phố New York

Người dịch: Bùi Thế Cường
Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ
Việt Nam. Email:


Các quan điểm phổ biến hiện nay về quyền lực không thể giải thích
được vì sao các phong trào phản kháng chính trị từ bên dưới đôi khi
lại dẫn đến những cải cách thể hiện yêu cầu bất bình của người biểu
tình. Tôi đề xuất một lý thuyết mới về “quyền lực phụ thuộc” để cung
cấp một cách giải thích cho điều nói trên. Tôi lập luận rằng khác với
cách nhìn thông thường, toàn cầu hóa trong thực tế làm tăng tiềm
năng của kiểu quyền lực nhân dân này.

Phần lớn công việc học thuật của tôi là về vai trò của các phong trào
phản kháng trong việc tạo ra những cuộc cải cách cải thiện hoàn
cảnh của dân chúng lớp dưới trong xã hội Mỹ. Và phần lớn công việc
của tôi với tư cách là một người tích cực chính trị - niềm vui thực sự
trong đời tôi – là cộng tác với những phong trào ấy. Trong bài phát
biểu này, dựa trên kinh nghiệm tham gia chính trị của mình tôi xem
xét về mặt lý thuyết loại quyền lực xuất hiện khi các phong trào, ở Mỹ


cũng như ở mọi nơi, trở thành động lực của thay đổi. Tôi nghĩ rằng
câu hỏi tầng lớp dưới có thể nỗ lực sử dụng quyền lực như thế nào
chưa bao giờ quan trọng hơn như ngày hôm nay. Xét đến cùng, nó
sẽ quyết định việc một thế giới khác là có thể hay không.

Mặc dù đây không phải là cách mà người ta thường kể câu chuyện
về sự phát triển của nền chính trị Mỹ, các phong trào phản kháng đã
đóng vai trò lớn trong lịch sử Mỹ. Điều này đặc biệt đúng đối với
những phong trào cải cách vĩ đại đã nhân văn hóa xã hội chúng ta,

1
từ phong trào thành lập nền cộng hòa, giải phóng nô lệ, đến Chính
sách Mới (New Deal) và Xã hội Vĩ đại, quyền dân sự trong thập niên
1960, v.v. Trong những năm dẫn đến cuộc Chiến tranh Cách mạng,
dưới ách thống trị của Anh, giới tinh hoa Mỹ đã liên tục nỗ lực liên
minh với “người dân thường” (people-out-of-doors), với dân chúng.
Không có sự ủng hộ của họ, cuộc chiến chống lại nước Anh đã
không thể thắng lợi.
1
Nhưng cái giá của sự liên minh là giới tinh hoa
phải nhượng bộ trước tư tưởng dân chủ cấp tiến về quyền tự quản
của nhân dân. Hơn thế nữa, sức mạnh đe dọa của đám đông và
niềm tin dân chủ cấp tiến vững chắc của họ đã in dấu ấn vào các
điều khoản hiến pháp bang mới, và sau đó ở mức độ ít hơn vào các
điều khoản của hiến pháp liên bang mới, nó tuyên bố quyền và tính
đại diện của nhân dân. Đó là những điều khoản mà người ta phải
chấp nhận để có được sự ủng hộ của dân chúng đối với chính phủ
quốc gia mới.

Chắc chắn, quá trình là phức tạp. Đám đông thì đầy quyền lực trong

thời kỳ cách mạng, vì quyền lực nhà nước bị suy yếu do xung đột
sâu sắc giữa giới tinh hoa ở thuộc địa, Hoàng gia Anh, và lợi ích của
giới thương gia Anh những người rất có ảnh hưởng đối với Hoàng
gia Anh. Quyền lực Nhà nước còn bị suy yếu do khoảng cách quá xa
chia tách thuộc địa khỏi bộ máy cai trị và quân đội của mẫu quốc, và
do sự manh mún của các cơ quan cai trị thuộc địa. Thêm nữa, những
thành tố tạo nên nền dân chủ bầu cử đại diện, thành quả của cách
mạng, đã sớm được bảo trợ trong nền chính trị dựa vào khách hàng
và bộ lạc do các đảng chính trị thế kỷ XIX phát triển nên. Còn nữa,
ngay cả một nền dân chủ bầu cử hạn chế đôi khi cũng giúp cho việc
giảm bớt quyền lực của đồng tiền và lực lượng vũ trang, ít nhất khi
những đợt sóng phản kháng dâng trào khiến cho những người lãnh
đạo dân cử phải ứng phó theo cách hòa giải.

Hãy kể đến trường hợp những người bãi bỏ (abolitionist) xa lạ và
cuồng tín. Sự táo bạo và kiên tâm của họ trong việc theo đuổi sự
nghiệp giải phóng ngay lập tức đã đập vỡ mọi thỏa hiệp cục bộ khiến
cho việc thống nhất quốc gia đã trở nên có thể vào năm 1789. Những
nhà hoạt động phong trào tích cực có lien hệ cội rễ sâu trong các nhà
thờ của một đất nước rộng lớn theo đạo Tin Lành. Tài hùng biện
khích động của họ đập vỡ các giáo phái chủ yếu, chuẩn bị cách thức
để phân hóa các liên phái của hệ thống đảng thứ ba và rút cục lèo lái
các bang miền Nam tức giận đi đến ly khai. Thành quả của phong

2
trào là không thể chối cãi. Chính phủ quốc gia đã tiến hành một cuộc
chiến nhằm duy trì sự thống nhất, điều sẽ dẫn đến việc giải phóng nô
lệ, và rồi, do các đại diện phía Nam ly khai, nên Thượng Viện đã đưa
các khoản tu chính 13, 14 và 15 vào Hiến pháp.


Hãy kể đến thời kỳ phong trào lao động thực hiện các cuộc bãi công
những năm 1930, những cuộc bãi công đã tạo nên khuôn khổ cơ bản
cho một hệ thống quan hệ lao động, hệ thống này đem lại, ít nhất
cũng được một thời gian, cơ hội cho nhiều công nhân đạt tới cái
được gọi là giai cấp trung lưu, đem lại sự kính trọng và tự tin, cho
đến lúc bấy giờ vẫn bị từ chối, cho những người công nhân giờ đây
đã liên hiệp lại trong các ngành ô tô, thép, cao su, và khai thác than
(Metzgar 2000). Hãy kể đến phong trào tự do da đen, sự gan dạ vô
biên của họ trong cuộc chiến đấu chống chế độ apartheid miền Nam
đã khiến Chính phủ liên bang sau rất nhiều trì hoãn rốt cuộc đã thông
qua các điều luật thực hiện những hứa hẹn của Thời kỳ Kiến thiết.
Hãy kể đến phong trào chống nghèo khổ của thập niên 1960 dẫn tới
việc mở rộng các chương trình xã hội đến mức khiến nước Mỹ trông
giống như một nước dân chủ xã hội. Hãy kể đến phong trào chống
chiến tranh ở Việt Nam, đặc biệt là bộ phận G.I. của phong trào, rốt
cuộc đã khiến cuộc chiến ở Đông Nam Á đi đến hồi kết, và để lại sau
sự khuấy động của mình cái vẫn được gọi là “hội chứng Việt Nam”,
cản trở việc khai triển quân đội Mỹ trên thế giới ít nhất cũng trong
một thời gian. Hãy kể đến phong trào phụ nữ, phong trào giải phóng
người đồng tính với thành công của họ trong việc giành được quyền
hợp pháp, làm biến đổi đời sống xã hội và nền văn hóa Mỹ.

Không cần phải nói rằng những người phản kháng chưa bao giờ
giành được thắng lợi một cách dễ dàng. Yêu sách của họ không
tránh khỏi bị biến điệu và mài giũa để thích ứng với những dàn xếp
định chế hiện tồn và với những lợi ích đầy quyền lực bám chắc trong
những định chế ấy. Thêm nữa, một khi phong trào bị lắng lại, ngay
cả các thành quả hạn chế của nó cũng bị rút tỉa mất (đây lại là bằng
chứng nữa, trong khi nó chưa bao giờ được thừa nhận, của tầm
quan trọng của phong trào trong việc thúc đẩy các cuộc cải cách). Dù

vậy, bất kể những bước lùi ấy, các phong trào phản kháng vẫn để lại
dấu ấn của mình trong các cuộc cải cách. Một hệ thống đại diện bầu
cử được củng cố, chế độ nô lệ không thể phục hồi, hệ thống
apartheid miền Nam bị xói mòn, và trong khi lao động đang bị đánh

3
bại thì vẫn còn đó các công đoàn và họ có thể làm nên chuyện trong
nền chính trị Mỹ.

Vậy thì, vì sao lại có những chiến thắng đó? Các phong trào phản
kháng đã làm gì để buộc phải có những phản ứng giải hòa? Cả
những nghiên cứu về phong trào xã hội lẫn những nghiên cứu về sự
phát triển của nền chính trị Mỹ đều chưa đưa ra được câu trả lời thoả
đáng cho vấn đề này. Khi thảo luận về phong trào, người ta thường
nói đến tính chất gây rối, điều có nghĩa là ồn ào, mất trật tự, thậm chí
bạo lực. Dĩ nhiên, các phong trào phản kháng thì ồn ào vì họ muốn
truyền đi yêu sách của mình, với những băng rôn biểu ngữ, trò biểu
diễn, tụ tập, diễu hành. Những hành động ấy làm cho phong trào có
tiếng nói, và nếu điều kiện cho phép thì đem lại tác động bầu cử. Có
lẽ quan trọng hơn, những đám đông tụ tập, hô khẩu hiệu, ký hiệu,
khích lệ đạo đức của những người tham gia phong trào. Nhưng các
phong trào phản kháng làm nên lịch sử Hoa Kỳ đã phải đương đầu
với những chống đối ghê gớm mà chỉ có tiếng nói thôi thì khó có thể
vượt qua. Trong khi đôi lúc phải sử dụng bạo lực để tự vệ, nói chung
những cuộc phản kháng Mỹ đều tránh xa bạo lực và những rủi ro
chiến lược do bạo lực tạo ra.

Mặc dù tôi cũng có viết rằng phong trào là có tính chất gây rối, ở đây
tôi sẽ sử dụng thuật ngữ quyền lực “phụ thuộc lẫn nhau” không phải
bởi vì tôi muốn độc giả bớt nghi ngờ, mà bởi vì cái từ ấy gợi ý đến

một cơ sở xã hội học của động lực gây rối. Tôi muốn chỉ ra tầm quan
trọng của kiểu quyền lực này đối với việc phân tích phong trào và
ảnh hưởng của nó đến chính trị, bằng cách đó tôi muốn ngụ ý đến sự
phản kháng liên tục diễn ra đối với sự phân bổ ích lợi vật chất và văn
hóa do hành động của chính phủ một cách trực tiếp hay gián tiếp. Tôi
cũng gợi ý rằng quyền lực phụ thuộc lẫn nhau là có ý nghĩa trong các
vùng định chế khác, thể hiện rõ nhất là trong kinh tế, nhưng chẳng
hạn cũng thể hiện rõ trong gia đình, nhà thờ, và cộng đồng địa
phương. Do đó, những khuôn mẫu thống trị – đôi khi được gọi là
“kiểm soát xã hội” – mà chúng phổ biến trong các lĩnh vực khác rất
dễ có hậu quả đối với phản kháng quyền lực mà ta thừa nhận như là
chính trị. Cuối cùng, tôi xem xét triển vọng của việc nổi lên quyền lực
phụ thuộc lẫn nhau với tính cách là một chủ thể mang tính thay đổi
trong nền chính trị đương đại, ở Mỹ cũng như trên thế giới. Tôi tin
rằng, tiềm năng của quyền lực từ bên dưới sẽ là chỉ lệnh cho nhà xã
hội học nghiên cứu. Nhưng truyền thống tri thức và định chế của

4
chúng ta có phù hợp cho việc tiến hành những nghiên cứu ấy hay
không?

MỘT LÝ THUYẾT MỞ RỘNG VỀ QUYỀN LỰC
2


Các nhà xã hội học đã bận tâm nhiều về khái niệm quyền lực. Tôi
muốn đặt sang một bên nhiều cuộc tranh luận thú vị về định nghĩa
quyền lực ủng hộ cách hiểu gần với quan niệm của Weber. Tôi xem
quyền lực như là khả năng của một chủ thể tác động đến hành động
của một hay các chủ thể khác, kể cả để chống lại sự phản kháng. Đôi

khi điều này được gọi là giả định tổng bằng zero (zero-sum
assumption): cái mà chủ thể này đạt được là giá phải trả của chủ thể
kia. Theo ngôn ngữ của Anthony Giddens (1976), quyền lực là sự
thống trị (domination), và là một đặc tính của tương tác xã hội
3
. Cách
lý giải này rất có ảnh hưởng trong số các nhà xã hội học bắt đầu
quan tâm đến xung đột khi khung mẫu (paradigm) Parsons trở nên
phai nhạt trong thập niên 1960.

Câu hỏi làm bận tâm các nhà lý thuyết theo quan điểm này là ai có
quyền lực, và vì sao? Và câu trả lời nói chung được hiểu là phụ
thuộc vào nguồn quyền lực, hoặc những cơ sở khiến cho một chủ
thể có khả năng khuất phục ý chí của chủ thể khác. Weber lẩn tránh
câu hỏi bằng cách lập luận rằng không thể khái quát hóa các nguồn
quyền lực, mà chúng phụ thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể. Vì
quan điểm này từ chối khả năng phân tích sự phân bố quyền lực
mang tính khuôn mẫu trong đời sống xã hội, nên nó khiến nhiều nhà
phân tích không hài lòng. Thay vào đó, các nhà lý thuyết xung đột
xây dựng một danh mục các sự vật và thuộc tính tạo khả năng cho
một chủ thể có thể tác động đến các chủ thể khác. Giờ thì quyền lực
được xem là cái gì đó dựa trên kỹ năng cá nhân, tri thức kỹ thuật,
tiền hay sự kiểm soát cơ hội kiếm tiền, uy tín hay sự tiếp cận đến uy
tín, đến số đông hay khả năng huy động đông người. Randall Collins
(1975:60-61) khái quát quan điểm này như sau:

“Hãy nhìn vào các sự vật vật chất mà chúng tác động vào tương tác:
các địa điểm vật thể, phương thức truyền thông, vũ khí, phương tiện
dàn dựng để gây ấn tượng cho một người trước công luận, công cụ,
vật phẩm. Hãy đánh giá những nguồn lực tương đối mà cá nhân có

thể sử dụng: khả năng gây ra bạo lực thể chất, khả năng tiếp cận
đến những người có thể thương thảo, sự hấp dẫn tình dục, kho công

5
cụ văn hóa để gợi lên cảm xúc, cũng như là những sắp xếp vật chất
như đã đề cập…Các nguồn lực cho xung đột là đa dạng”.

Cái catalog của Collins rất quen thuộc và không khác nhiều với cái
danh mục thông thường (common sense) của Dahl (1961:226), đó là
cái danh mục “của bất cứ thứ gì mà có thể được sử dụng để tác
động đến những lựa chọn hay chiến lược đặc thù của cá nhân
khác”.
4
Mills (1956:9, 23) có một bổ sung quan trọng rằng người thực
sự có quyền lực là “những người chiếm giữ các vị trí ra lệnh” trong
những định chế chủ chốt, vì những định chế đó là cơ sở cho việc tập
trung các nguồn lực.
5
Mọi người tỏ ra nhất trí rằng một kiểu nguồn
lực này có thể sử dụng để kiếm được một kiểu nguồn lực khác, bởi
vì nguồn lực là có thể “chuyển hóa, tập hợp, tái phân bổ, trao đổi” và
đầu tư.
6
Tổng hợp lại, nguồn lực quyền lực là những thuộc tính hay
sự vật mà một chủ thể có thể sử dụng để ép buộc hay thuyết phục
chủ thể khác.
7
Tôi sẽ gọi quan điểm này đơn giản là quan điểm
nguồn lực quyền lực.


Cái danh mục các nguồn lực quyền lực, từ tiền đến sự nổi tiếng đến
số đông đến thời gian rỗi, đôi khi là căn cứ cho lập luận về tính không
quyết định luận trong các khuôn mẫu quyền lực.
8
Tất cả mọi người
đều có cái gì đó, như nhà đa nguyên luận nói, và kể cả những người
gần như không có gì thì ít nhất cũng có số đông của họ. Tuy nhiên,
một cách điển hình, các loại vật phẩm và đặc tính mà các nhà phân
tích đã liệt kê như là những nguồn lực then chốt thì không hề được
phân bố rộng rãi, đúng hơn chúng tập trung ở phần trên của tháp tôn
ti xã hội. Theo đó quyền lực cũng tập trung ở phía trên. Luận lý cứ
thế mà tiến: của cải, uy tín, những công cụ bạo lực vật lý, tất cả là
những cơ sở đáng tin cậy để thống trị kẻ khác. Bởi vì những đặc tính
và vật phẩm này, như tất cả mọi người đều đồng ý, được phân bố
theo phẩm trật xã hội, nên tất yếu người ở cấp bậc xã hội cao hơn thì
có nhiều quyền lực hơn, người ở cấp bậc thấp hơn thì có ít quyền
lực hơn. Nói cách khác, vì các nguồn lực là cơ sở cho việc hành xử
quyền lực và nó bị phân tầng, nên quyền lực cũng bị phân tầng, và ai
tích lũy được nhiều nguồn lực hơn thì cũng có nhiều quyền lực hơn.

Cách hiểu ai có quyền lực và vì sao, như trên đã mô tả, rõ ràng đã
phục vụ tốt trong một thời gian dài. Người giàu và người có vị trí cao,
bao gồm cả những người kiểm soát quân đội và công an, thường
đánh bại những người chẳng có gì như thế trong bất kỳ một cuộc

6
phản kháng nào – nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Đôi khi người
dân chẳng có vật dụng hay vị thế hay của cải gì lại thành công trong
việc gây sức ép thay đổi định chế, nó phản ánh, thường chỉ là lờ mờ,
các nhu cầu và khát vọng của người dân bên dưới trong trật tự xã

hội. Những đám đông bạo loạn bao vây các thành phố thời cuối
Trung cổ đã khiến người ta phải tạo ra các hệ thống cứu trợ đầu tiên
(De Swaan 1988; Hill 1952; Jutte 1994; Lis and Soly 1979; Piven and
Cloward 1971). Khi châu Âu và Mỹ công nghiệp hóa, những người
công nhân bãi công đã dẫn đến việc xây dựng các hệ thống bảo vệ
lao động. Những người tham gia phong trào tự do da đen đã thách
thức đám đông da trắng và giới chính khách bảo hoàng và đã giành
thắng lợi trong việc thay đổi luật và thực tế làm xói mòn chế độ
apartheid. Những đám đông thường dân đã đánh bại lực lượng bảo
vệ có vũ trang và phá đổ theo nghĩa văn chương bức tường Berlin
huyền thoại. Và chỉ mới gần đây thôi, những người thất nghiệp
phong tỏa đường phố trong phong trào piquetero ở Argentina đã
buộc chính phủ phải thiết lập chế độ trợ cấp thất nghiệp đầu tiên
trong lịch sử châu Mỹ latin. Điều này góp phần thúc đẩy một cuộc nổi
dậy rộng lớn hơn lật đổ các tổng thống (Auyero 2005; Sitrin 2006:8-
16). Thổ dân da đỏ cao nguyên Aymaric ở Bolivia đã đánh đổ hai
chính phủ và chính phủ hiện thời đã phải có những bước đi theo
hướng ít nhất cũng quốc hữu hóa một phần ngành hơi đốt và dầu
lửa. Vậy thì, vì sao luôn có tình trạng người dân không có bất cứ cái
gì mà ta gọi là nguồn lực quyền lực lại có khả năng giành thắng lợi?
9


QUYỀN LỰC PHỤ THUỘC LẪN NHAU

Tôi cho rằng có một kiểu quyền lực khác không dựa trên nguồn lực,
sự vật, hoặc các thuộc tính, mà dựa trên các quan hệ xã hội và cộng
tác trong đó con người được móc xích vào với nhau trong một ưu thế
của đời sống nhóm. Hãy hình dung các xã hội như là hợp thành từ
các mạng lưới các quan hệ cộng tác, ít nhiều được định chế hóa,

qua đó việc kết bạn và tái sản xuất được tổ chức, hay sản xuất và
phân phối, xã hội hóa thế hệ trẻ, hoặc phân bố và củng cố quyền hạn
nhà nước.
10
Đời sống xã hội là đời sống cộng tác, và về nguyên tắc
tất cả mọi người mà có đóng góp vào hệ thống cộng tác này đều có
quyền lực tiềm tàng đối với người khác, những người phụ thuộc vào
họ. Kiểu quyền lực phụ thuộc lẫn nhau này không tập trung ở phía
trên mà về mặt tiềm tàng nó lan tỏa rộng rãi. Ngay cả những người
không có tài sản hay những thuộc tính mà ta vẫn gắn với quyền lực,

7
vẫn có thể làm những việc mà khiến người khác phải phụ thuộc vào
đó.
11
Họ cọ rửa toilet hay đào than hay chăm sóc trẻ sơ sinh. Kể cả
khi họ thất nghiệp và vô dụng, những người khác cũng bị phụ thuộc
vào họ để tuân thủ các chuẩn mực của đời sống dân sự.

Các mạng lưới cộng tác ổn định tất yếu dẫn đến tình trạng chịu sự
điều hành của các quy tắc và ý tưởng mà ta gọi là các định chế. Và
các định chế cũng trở thành trường tranh đấu và nơi vận hành của
quyền lực phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng điều này sẽ không phải là hiển
nhiên nếu chúng ta nhìn đời sống xã hội một cách quá quyết định
luận một chiều. Các định chế mang khuôn mặt của thần Janus:
chúng giúp cho việc định hình các bản sắc và dự định của con người,
và chúng xã hội hóa mọi người tuân thủ các quy tắc của định chế mà
đời sống hàng ngày dựa vào đó. Tuy nhiên, như Dennis Wrong đã
lập luận cách đây ít lâu (1979), con người tiếp tục theo đuổi những
mục tiêu khác hơn là những mục tiêu mà các chế độ của đời sống

định chế khích lệ, cho dù đó là do họ trốn chạy khỏi xã hội hóa do bị
khêu gợi bởi vô số khát khao của con người, hay cho dù bởi các môi
trường định chế đa dạng cho phép sinh sôi nảy nở những mục tiêu
khác bày ra trước mắt họ.
12
Tôi nghĩ rằng tất cả những điều nói trên
là không thể tranh cãi. Tuy nhiên, giả định căn bản của tôi là: bởi vì
con người có những mục tiêu đa dạng (và mâu thuẫn nhau), và bởi
vì đồng thời họ là kẻ sáng tạo mang tính xã hội và cộng tác, cho nên
điều không tránh khỏi là họ sẽ cố gắng sử dụng các quan hệ của họ
với người khác để theo đuổi những mục tiêu ấy, ngay cả khi phải
chống lại sự phản kháng. Phải nhấn mạnh thêm nữa, đời sống định
chế xã hội hóa mọi người để tuân thủ, trong khi đồng thời các định
chế cũng sản sinh ra cho những người tham gia vào các hoạt động
xã hội và cộng tác cái quyền lực để theo đuổi các ý định đa dạng và
xung đột nhau, ngay cả khi phải thách thức với các quy tắc (tác giả
nhấn mạnh).

Thành thử, trong khi các nhà lý thuyết xung đột nhấn mạnh rằng nhà
tư bản có quyền lực đối với công nhân vì nhà tư bản kiểm soát vốn
và cơ hội việc làm mà đầu tư đã tạo ra (và nhà tư bản có thể viện
đến kẻ đâm thuê chém mướn, quân đội cảnh sát, báo chí, tòa án), thì
quan điểm quyền lực phụ thuộc lẫn nhau sẽ cho ta nhìn thấy rằng
công nhân cũng có quyền lực tiềm tàng đối với nhà tư bản vì họ vận
hành toàn bộ cái dây chuyền mà sự sản xuất phụ thuộc vào đó. Cũng
theo cách đó, địa chủ có quyền lực đối với tá điền vì địa chủ sở hữu

8
đất mà tá điền canh tác, nhưng tá điền cũng có quyền lực đối với địa
chủ vì ruộng đất chỉ là đồ vô dụng nếu không có lao động của tá điền.

Giới chức nhà nước có thể viện đến quyền hạn của luật pháp và sức
mạnh của quân đội cảnh sát, nhưng họ cũng phụ thuộc vào công
luận cử tri. Vợ và chồng, thầy tu và con chiên, chủ nô và nô lệ, tất cả
đều đối diện với cái động lực học nói trên. Cả hai phía của các mối
quan hệ trên đều có tiềm năng để thực hiện quyền lực phụ thuộc lẫn
nhau, và ít nhất là trên nguyên tắc, đều có khả năng thực thi quyền
lực đối với người khác bằng cách rút bỏ hay đe dọa rút bỏ khỏi sự
cộng tác xã hội.

Trong thực tế, quyền lực phụ thuộc lẫn nhau hàm ý (ẩn ngầm) nhiều
nhất trong cái ta vẫn thường nói là quyền lực từ bên dưới. Ngày nay,
nói chung ta thường dựa trên hai lý thuyết có tiềm năng để giải thích
về hiện tượng thể hiện quyền lực nhân dân mang tính chu kỳ, cả hai
lý thuyết này thường được giới trí thức sử dụng để lập luận với
những phiên bản khác nhau, và cả hai lý thuyết cũng in dấu ấn sâu
sắc trong niềm tin của dân chúng. Lý thuyết thứ nhất được gọi đơn
giản là lý thuyết dân chủ chính trị, phát triển từ thế kỷ XVII. Người
dân thường có quyền lực đối với giới quan chức tinh hoa thông qua
các định chế đại diện bầu cử, các định chế này làm trung giới giữa
công dân và nhà nước. Nhân dân, hay ít nhất cũng là nhiều người
trong đó, có lá phiếu, và các cuộc bầu cử định kỳ, ở đó sẽ đếm các lá
phiếu, sẽ làm cho các chính trị gia phải phụ thuộc vào đa số nhân
dân để duy trì các vị trí quyền hạn nhà nước. Như vậy, bầu cử buộc
neo các nhà lãnh đạo nhà nước vào với cử tri những người mà họ
phải dựa vào để duy trì vị trí trong chính phủ. Cử tri có nghĩa là người
dân có quyền lực, đôi chút quyền lực, vì giới tinh hoa chính trị phụ
thuộc vào họ.

Một lý thuyết lớn khác, thể hiện cả trong phiên bản trí thức lẫn dân
gian, là lý thuyết về quyền lực lao động (labor power) được lập luận

một cách thuyết phục nhất trong Tuyên ngôn Cộng sản của Mác và
Engels. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, lập luận nói rằng, làm
nảy sinh nền công nghiệp sản xuất hàng loạt và vô số công nhân
công xưởng mà nền công nghiệp ấy phải dựa vào quyền lực lao
động của họ. Vì sản xuất công xưởng phụ thuộc vào họ, nên công
nhân có thể gây ảnh hưởng bằng bãi công, bằng cách “tắt máy”
(shutting it down). Thêm nữa, sự lớn mạnh của công nghiệp sản xuất
hàng loạt luôn làm tăng số lượng công nhân, những người có kiểu

9
quyền lực này. Tăng trưởng tạo ra đoàn kết trong công nhân, ngay
cả khi trải nghiệm về nền sản xuất hàng loạt tạo ra sự phân hóa ngày
càng sâu sắc giữa tư bản và lao động, nó đẩy tư bản ra thành đối
tượng của sự giận dữ của công nhân. Quyền lực lao động cũng có
một biểu hiện được định chế hóa trong việc thành lập các công đoàn
và một bộ giáp các quyền lao động được đưa vào luật và quy chế.
13


TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUYỀN LỰC PHỤ THUỘC LẪN NHAU
TỪ ĐÓ VÀ HIỆN NAY

Lịch sử rời rạc và phức tạp của việc mở rộng quyền chính trị và lao
động ở châu Âu, Mỹ, Mỹ latinh và các nơi khác, có thể được kể ra
như là lịch sử của những phản ứng của nhà nước đối với sự huy
động của cả quyền lực quần chúng nảy sinh từ sự phát triển của các
định chế bầu cử đại diện lẫn của quyền lực nảy sinh từ nơi làm việc
công nghiệp. Kiểu quyền lực này có thể ảnh hưởng đến kiểu quyền
lực kia. Những cuộc bãi công nơi làm việc có thể dễ được giải quyết
bằng một sự hòa giải, nếu giới tinh hoa nhà nước kiềm chế sử dụng

lực lượng đàn áp người bãi công vì họ lo ngại về hậu quả bầu cử
trong những khu vực cử tri có cảm tình. Chiều tác động ngược lại
cũng đúng như thế. Nếu giới tinh hoa cảm thấy tự do trong việc huy
động các đơn vị cảnh sát, thì các cuộc bãi công sẽ rất khó thành
công, như lịch sử các cuộc bãi công thất bại ở Mỹ trong thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX đã cho thấy (Piven and Cloward 1977).

Không chỉ có sự độc quyền của nhà nước đối với việc sử dụng hợp
pháp bạo lực làm cho quyền lực lao động trở nên có điều kiện đối với
quyền lực bầu cử. Những cuộc bãi công lan rộng trong thập niên
1930 đã dẫn đến sự nhượng bộ đối với lao động có tổ chức thể hiện
trong Luật Wagner, và trong các thập niên tiếp theo, ảnh hưởng của
lao động có tổ chức đối với nền chính trị bầu cử đã góp phần bảo vệ
ít nhất là một số trong những thành quả đó. Những sự vận động
mạnh mẽ trong bầu cử và lobby do các công đoàn Mỹ tiến hành gần
đây hiển nhiên là một nỗ lực để giành lại ảnh hưởng của quyền lực
bầu cử trong một thời đại mà quyền lực lao động đã giảm sút.

Tương tự, lịch sử của nhà nước phúc lợi có thể được kể như là lịch
sử của những nhượng bộ kế tiếp nhau không tránh khỏi do những
cuộc bùng nổ của cả quyền lực lao động và quyền lực bầu cử. Trong
thực tế, tôi nghĩ câu chuyện không đơn giản khi nhiều cuộc phản

10
kháng của quyền lực nhân dân bị cô lập. Tuy nhiên, có một chân lý
trong cái bức tranh lớn cho thấy an toàn kinh tế mà người lao động
và người nghèo được hưởng từ những trợ giúp thu nhập công cộng
và từ những chương trình dịch vụ là cái giá mà giới tinh hoa chính trị
và kinh tế phải trả cho sự hội nhập và cộng tác của đông đảo dân cư,
một cái giá tất yếu phải trả bởi những cuộc bùng phát thường kỳ của

quyền lực dân chủ và quyền lực lao động.

Toàn cầu hóa

Bạn vẫn có thể nói rằng đó là chuyện của quá khứ, cuộc chơi đã thay
đổi rồi. Thế giới của chúng ta đã biến đổi bởi những sự phát triển mà
ta gọi là toàn cầu hóa. Trước khi có toàn cầu hóa, ở đây tôi muốn nói
là toàn cầu hóa tân tự do, ít nhất chúng ta cũng có đôi chút tự tin nói
rằng chính phủ của chúng ta có thể thực hiện các cải cách nếu sự
tương tác qua lại giữa quyền lực lao động và nền chính trị bầu cử
gây được áp lực đủ mạnh. Ta cũng có thể tự tin đôi chút rằng người
lao động và công đoàn của họ có thể thúc ép các chính sách. Giờ
đây khả năng của các chính phủ kiểm soát các tác viên thị trường,
bao gồm những công ty đa quốc gia và các nhà tài chính quốc tế, đã
yếu đi đáng kể do sự di động tư bản, đồng thời thương mại ngày
càng thúc đẩy cạnh tranh toàn thế giới để có lao động ngày càng rẻ
hơn. Không còn ảnh hưởng của quyền lực dân chủ và quyền lực lao
động, phải chăng chúng ta sẽ bất hạnh đi tới một tương lai do các
nhà kinh doanh và chính khách tham lam vô độ kiểm soát, và hậu
quả là cơn lốc xoáy bất bình đẳng và xuống cấp môi trường? Tôi
không nghĩ như vậy. Thực tế, tôi là một người đôi chút lạc quan về
tương lai của chúng ta. Đó là bởi vì tôi nghĩ các nguồn quyền lực đã
tạo nên các cuộc cải cách trong quá khứ không hề bị toàn cầu hóa
xói mòn.

Về nguyên tắc, quyền lực phụ thuộc lẫn nhau tăng lên cùng với tập
trung hóa và chuyên biệt hóa – bởi cái lý do hiển nhiên là khi phân
công lao động tiến bộ hơn, thì mạng lưới cộng tác rộng hơn và phức
tạp hơn, và sự cộng tác sẽ lôi kéo sự đóng góp nhiều hơn và đa
dạng hơn với số người đông hơn và đa dạng hơn.

14
Toàn cầu hóa,
cho dù là tân tự do hay không, chỉ có nghĩa là thế này: khi tăng
chuyên môn hóa và hội nhập trong các hệ thống phức tạp và quy mô,
thì tiềm tàng kèm theo đó là quyền lực nhân dân cũng sẽ trở nên
rộng lớn hơn và tiếp cận tới nhiều người hơn. Bằng chứng cho thấy

11
rằng tiềm năng của quyền lực nhân dân đã mở rộng vượt quá cả
những địa chỉ định chế đặc thù mà ta nghĩ về quyền lực dân chủ và
quyền lực lao động.

Tồn tại qua suốt phần lớn lịch sử thế giới, những làng quê hẻo lánh
đã ảnh hưởng rất ít đến các trung tâm đế chế xa xôi. Ngày nay, thổ
dân cao nguyên có thể thường xuyên phong tỏa những con đường
tới La Paz, lật đổ được các chính phủ ở Bolivia, và các công ty năng
lượng đa quốc gia, và thế giới, phải chú ý. Tương tự, khi những toán
vũ trang của tộc người Ogoni và Ijaw ở vùng đồng bằng Nigeria giầu
tài nguyên phản kháng chống lại sự tàn phá hủy diệt của các công ty
dầu lửa quốc tế - bắt công nhân dầu làm con tin, làm nổ tung các cơ
sở dầu và hơi đốt – thì hậu quả là mức sản xuất dầu giảm mạnh và
giá dầu tăng cao (Mouawad 2007a, 2007b). Thế giới phải chú ý và
bài học tỏ ra lan khắp các khu vực nhiều dầu lửa khác. Ở Nigeria,
Ecuador, Bolivia, và Venezuela, phản kháng liên quan đến dầu lửa; ở
Peru và Chile là kim loại đồng. Vì thế, khi thợ khai thác đồng ở Peru
bãi công đầu tháng 5/2007 thì giá đồng ở New York nhảy lên mức
cao nhất trong 11 tháng (Munshi 2007). Trong khi hành động của các
nhà đầu tư và đầu cơ tiền đa quốc gia luôn gây ra tiếng vang rộng
lớn chấn động trong nhận thức của công luận, thì nhiều người dân
bình thường cũng đóng một phần quan trọng trong những trao đổi

phức tạp và mỏng manh tạo nên toàn cầu hóa – và bởi vì họ hành
động nên họ có quyền lực tiềm tàng.

Những quan sát trên gợi nên một quan điểm rất khác với lý lẽ thông
thường về toàn cầu hóa tân tự do và về sự sút giảm của quyền lực
dân chủ và quyền lực lao động. Chắc chắn rằng toàn cầu hóa đã mở
ra cho nhà đầu tư cơ hội lớn trong việc chạy thoát khỏi quan hệ với
bất kỳ một nhóm người lao động cụ thể nào. Chỉ với một cái nhấp
chuột, vốn tư bản có thể chạy đến những khu vực lương thấp và chi
phí thấp trên thế giới. Nhưng chính những dàn xếp ấy cũng tạo ra
những sự phụ thuộc lẫn nhau mới, mỏng manh hơn. Chuyển việc
làm ra bên ngoài là có tính hai mặt. Một mặt, nó giảm nhẹ sự phụ
thuộc của giới chủ vào công nhân trong nước.Mặt khác, nó cột giới
chủ vào nhiều công nhân khác trong cái chuỗi sản xuất xa xôi và dài
rộng. Những cái chuỗi này, đến lượt mình, lại phụ thuộc vào các hệ
thống truyền thông điện tử và vận tải phức tạp, bản thân chúng rất dễ
bị tổn thương. Theo một nghĩa nào đó, người ta dễ dàng thừa nhận
một ý tưởng cũ xưa rằng người công nhân làm công việc logistic ở

12
những mắt lưới then chốt của các hệ thống sản xuất công nghiệp có
quyền lực lao động tiềm tàng rất lớn. Nhiều công nhân, bao gồm
những người vận hành các hệ thống vận tải đường dài, những người
làm trong tất cả các mắt xích trong cái chuỗi sản xuất vô cùng rộng
lớn, và những người làm trong các hệ thống sản xuất just-in-time có
sự hỗ trợ của internet, tất cả những người này có thể có quyền lực
phụ thuộc lẫn nhau đầy tiềm năng.

Và không chỉ có công nhân mà thôi. Trong một kịch bản rất quen
thuộc ở Trung Quốc và Ấn Độ, người nông dân từ chối bán đất của

họ để làm đường cho một khu hóa dầu ở một Đặc khu Kinh tế phía
nam Calcuta. Họ buộc nhà chức trách Ấn Độ phải ngưng dự án dự
định lôi kéo nhà đầu tư nước ngoài, ít nhất cũng là trong một thời
gian. Mười bốn nông dân đã bị bắn chết trong cuộc xung đột. Tuy
nhiên, thủ lĩnh nhóm Hồi giáo lãnh đạo cuộc phản kháng hân hoan
loan báo, “Chúng tôi đã dạy cho chính phủ một bài học mà họ sẽ
không bao giờ quên được” (Page 2007). Hàng chục ngàn cuộc phản
kháng tương tự của nông dân Trung Quốc, với hậu quả đẫm máu đã
khiến chính phủ trung ương phải mở tới 90.000 cuộc điều tra và buộc
phải “trừng phạt hành chính” một số quan chức địa phương đã dùng
quyền lực xua đuổi nông dân ra khỏi nơi sinh sống của mình để thỏa
mãn lòng tham lam với đầu tư mới (Cheng 2007). Trung Quốc có kế
hoạch phạt tiền nặng hơn đối với những phát triển bất hợp pháp.
Tổng cộng, người ta đã thừa nhận chính thức một con số tới 74.000
cuộc phản kháng quần chúng trong năm 2004 ở Trung Quốc, gây ra
một mối lo ngại mới trong giới cầm quyền về bất bình đẳng xã hội,
cũng như dẫn đến một số chương trình mới để giảm nhẹ bất bình
đẳng.
15


Tiếng vang lan rộng của các cuộc phản kháng địa phương có thể là
đáng kể. Khi người dân thị trấn Gualeguaychu ở Argentina phong tỏa
cây cầu quốc tế nối Uruguay với Argentina, họ chống đối việc xây
một nhà máy giấy mà họ cho rằng sẽ gây ô nhiễm môi trường và gây
hại cho ngành du lịch và thủy sản dọc sông Uruguay. Dự án này do
một công ty Đan Mạch xây với tín dụng của Ngân hàng Thế giới.
Những người phản kháng không chỉ đe dọa dự án mà cả nền kinh tế
Uruguay, vạch ra sự rạn nứt trong liên minh thương mại Mercosur,
kích hoạt các NGO quốc tế, khiến cho bản thân vua Tây Ban Nha

phải vào cuộc làm trung gian hòa giải.
16



13
Vấn đề chiến lược

Dĩ nhiên, việc hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau không hề
dễ dàng. Tôi lập luận rằng kiểu quyền lực này có thể đã tăng lên,
nhưng nó luôn luôn tồn tại và luôn luôn phân tán rộng rãi. Điều tốt mà
quyền lực phụ thuộc lẫn nhau có thể dẫn đến thì không tán phát rộng
rãi vì nó thường là ẩn (latent). Việc hiện thực hóa quyền lực phụ
thuộc lẫn nhau đòi hỏi người dân phải bẻ gãy những quy tắc đang
điều hành các định chế mà họ ở trong đó, vì những quy tắc này được
thiết kế để thống trị quyền lực phụ thuộc lẫn nhau. Nhân dân cũng
phải ý thức được rằng họ có quyền lực, rằng giới tinh hoa cũng phụ
thuộc vào quần chúng. Người dân phải được tổ chức lại, nghĩ ra
những cách thức hành động phối hợp, ít nhất trong chừng mực
những hành động phối hợp cần thiết để làm cho quyền lực của họ trở
nên hiệu quả. Trở ngại của các quan hệ khác, với gia đình, nhà thờ,
hay đảng phái, cần phải được kiềm chế hay khắc phục. Nhóm phản
kháng phải có năng lực kiên nhẫn chịu đựng sự gián đoạn các quan
hệ cộng tác mà họ phụ thuộc vào.

Để hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau trong điều kiện mới,
phải phát triển các chiến lược có thể quản lý được tất cả những trở
ngại đó.
17
Qua thời gian, một tập hợp các chiến lược có thể trở nên

quen thuộc và có sẵn để sử dụng – giống như những kịch bản có thể
phác họa nên theo những thách thức kế tiếp nhau. Nhưng khi các
dàn xếp định chế thay đổi, như chúng đã thay đổi trong thời đại
chúng ta, thì đòi hỏi phải có những chiến lược mới. Việc hiện thực
hóa quyền lực tiềm tàng phải đợi cho đến khi phát minh ra những
chiến lược mới. Quá trình này khó khăn hơn nhiều vì các kịch bản
chiến lược giải quyết các vấn đề trong quá khứ vẫn còn tồn tại đầy
quyền lực. Sự kháng cự của các kịch bản là do chúng hằn sâu trong
ký ức và thói quen, do chúng có sức mạnh của những thắng lợi trong
quá khứ, do sự lặp lại của những tổ chức và nhà lãnh đạo được đề
cao trong những cuộc xung đột quá khứ.
18
Tổng kết lại, toàn cầu hóa
không có nghĩa là quyền lực nhân dân bị tiêu tan (tức là không phải
các nhóm thống trị không cần đòi hỏi sự đóng góp của các nhóm bị
trị nữa). Mà đúng hơn là cần phải khéo léo tạo ra những chiến lược
mới để huy động và khai triển việc hiện thực hóa quyền lực phụ
thuộc lẫn nhau từ bên dưới. Và có bằng chứng thực sự cho thấy điều
này đang diễn ra.


14
Thứ nhất, bẻ gãy các quy tắc. Tôi đã nói rằng các định chế tạo ra
tiềm năng của quyền lực phụ thuộc lẫn nhau cũng đồng thời tạo ra
các quy tắc, ý tưởng và tập quán gây trở ngại cho việc hiện thực hóa
quyền lực ấy. Chắc chắn rằng các quy tắc là tiên đề cơ bản của đời
sống tập thể, chúng bảo vệ con người trước những gì không chờ
đợi, chưng cất tri thức tập thể, và tạo ra khả năng cho những hình
thái hợp tác phức thể mà xã hội dựa vào đó. Nhưng các quy tắc cũng
là công cụ của quyền lực, và thiết lập quy tắc là một chiến lược mà

các nhóm cầm quyền, dựa trên vô vàn nguồn lực quyền lực mà mình
có, để cản trở các nhóm bị trị sử dụng quyền lực đặc thù chứa đựng
trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Những quy tắc này tạo phạm vi rộng
lớn cho các nhóm thống trị nhưng hạn chế cái mà các nhóm bị trị có
thể làm trong các quan hệ cộng tác. Hãy nghĩ đến lịch sử dài lâu của
các bộ luật gắn chặt người lao động vào chủ của họ - các bộ luật
phong kiến quy định nghĩa vụ của kẻ chư hầu đối với quý tộc, bộ
Luật Địa vị của Lao động năm 1349, các bộ luật cấm người lang
thang và ăn xin, vô số bộ luật liên quan đến ăn trộm và lừa đảo, và
các bộ luật ngăn cản công nhân tổ chức công đoàn và bãi công
(ngày nay vẫn còn tồn tại trong hình thức các hợp đồng công đoàn,
những nghĩa vụ hay các bộ luật ngăn cản bãi công trong khu vực
công). Trong tất cả những khía cạnh trên, việc hoạch định các quy
tắc nhằm tạo ra sự ổn định quyền lực bằng cách áp bức quyền lực
phụ thuộc lẫn nhau từ bên dưới.

Tất nhiên, bản thân các quy tắc cũng có thể trở thành tâm điểm tranh
cãi, sự thay đổi quy tắc không chỉ là kết quả của việc triển khai các
nguồn lực quyền lực mà còn là kết quả của phản ứng đối với những
huy động từ bên dưới. Một số quy tắc có thể thực sự phản ánh một
kiểu nhượng bộ nào đó, vừa hạn chế vừa hợp pháp hóa quyền lực
phụ thuộc lẫn nhau từ bên dưới (chẳng hạn các bộ luật quy định
những điều kiện cho việc bãi công hợp pháp). Tuy nhiên, ngay cả về
mặt này, vì các quy tắc phản ánh sự bất bình đẳng đang thống trị nên
việc hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau thường phải có điều
kiện là khả năng của quần chúng thách thức các quy tắc và bất chấp
những cách diễn giải thịnh hành nhằm biện minh cho những quy tắc
ấy.

Cùng với thời gian, các quy tắc trở nên song hành với những diễn

giải sâu về đời sống xã hội biện minh cho việc tuân phục, cho dù mọi
sự bất lợi về quyền lực do tính tuân phục này. Sức ép của cách diễn

15
giải đồng hành với toàn cầu hóa mang tính thị trường dù vậy cũng dễ
bị suy yếu bởi chính cái tính chất mới mẻ của những dàn xếp ấy, và
bởi cái thực tế rằng những diễn giải ấy được thể hiện dưới dạng của
những dàn xếp xã hội truyền thống và những tư tưởng truyền thống
chúng hợp pháp hóa cho những diễn giải ấy. Nói cách khác, cuộc
giao tranh với truyền thống đem lại cho người dân những lựa chọn
khác. Hãy xem các phong trào xã hội đã phải thường xuyên tranh
đấu như thế nào trong việc cáo buộc rằng các hành động hay chính
sách mà họ đang phản kháng là sai lầm bởi vì chúng vi phạm các
quy tắc mà luật pháp hay tập quán đã xác quyết.
19


Thứ hai, hãy tính đến vấn đề công nhận thực tế của sự phụ thuộc lẫn
nhau – tiềm năng cho quyền lực từ bên dưới – đương đầu với những
định nghĩa của giai cấp thống trị chúng nhấn mạnh những đóng góp
đặc biệt của các nhóm cai trị đối với đời sống xã hội và có thể xóa bỏ
sự đóng góp của các nhóm vị thế thấp. Sự phụ thuộc lẫn nhau về
kinh tế và chính trị là thực tế theo cái nghĩa là nó có những chi nhánh
thực tế trong cơ sở vật chất của đời sống xã hội và trong việc thực
thi lực lượng bạo lực. Nhưng chúng cũng là những kiến tạo văn hóa.
Sự đóng góp bằng tiền của người chồng vào gia đình luôn luôn được
nhấn mạnh hơn là công việc nội trợ của người vợ; sự đóng góp của
tư bản kinh doanh luôn luôn có trọng lượng hơn lao động sản xuất
của công nhân; và v.v. Trước khi người dân muốn rút bỏ sự đóng
góp của mình với tính cách là một chiến lược thực thi quyền lực, họ

cần biết thừa nhận những đóng góp này trong các quan hệ bạn đời,
kinh tế, chính trị, hay tôn giáo.

Bước đi này trong việc huy động quyền lực phụ thuộc lẫn nhau phụ
thuộc vào việc người dân hiểu như thế nào về những mối quan hệ
mà họ ở trong đó. Sự phát triển của phong trào công nhân công
nghiệp ở châu Âu và Mỹ chỉ có được khi xuất hiện nền tiểu văn hóa
của công nhân chính xác tạo nên cái điểm then chốt này – tức là
công nhân là tâm điểm cho sự tăng trưởng kinh tế. “Chúng ta là
những người cày cấy ruộng đồng, dựng xây thành phố nơi họ buôn
bán, đào than và xây xưởng máy, làm những con đường sắt dài vạn
dặm”, lời của một bài hát công nhân ngày xưa đã nói như vậy.

Học thuyết tân tự do (neo-laissez faire) biện minh cho toàn cầu hóa
định hướng thị trường có thể xem như là sự phục hồi một kiểu luật tự
nhiên xóa bỏ quyền lực công nhân bằng cách thu hẹp nó vào trao đổi

16
thị trường. Giống học thuyết tự do thế kỷ XIX, nó khẳng định tính ưu
việt tất yếu của tính toán thị trường, và nó cảnh báo hậu quả nguy
hại tiềm tàng của việc can thiệp vào sự năng động của thị trường hay
vào “quy luật” thị trường. Tuy nhiên, mặt khác, việc các công ty đa
quốc gia khai thác kiệt quệ các nguồn tài nguyên đã dấy lên sự phản
kháng trên suốt phần phía Nam bán cầu, có lẽ vì những lập luận trừu
tượng về thị trường và quy luật thị trường đã mất hết trọng lượng bởi
các thực tế rành rành về luật tục sử dụng đất và những biện minh
văn hóa truyền thống.

Thứ ba, những đóng góp vào các hoạt động kinh tế và chính trị
thường là của nhiều người, và những đóng góp đa dạng đó phải

được phối hợp để huy động hiệu quả các quyền lực rời rạc. Công
nhân, dân làng, dân xứ đạo hay người tiêu dùng phải hành động phối
hợp với nhau trước khi việc rút ra khỏi các đóng góp của họ tạo ra
một hiệu ứng náo loạn tác động đến công xưởng, nhà thờ hay cơ sở
thương mại. Đây là vấn đề xưa cũ về việc tạo ra sự đoàn kết, phối
hợp hành động chung mà công nhân, cử tri, và cư dân cộng đồng
phải đối mặt khi họ cố gắng triển khai tác động của mình đến những
người mà họ phụ thuộc đối với lao động của mình, lá phiếu của
mình, hay sự chấp thuận không phản đối của mình trong những
khuôn mẫu chuẩn mực của đời sống dân sự. (Một trong những ưu
thế mà nhà tư bản luôn luôn chiếm thế thượng phong đối với công
nhân đơn giản là nhà tư bản không phải lo tổ chức để triển khai
quyền lực phụ thuộc lẫn nhau của họ).

Như vẫn thường được chỉ ra, các quan hệ xã hội được tạo ra trong
một bối cảnh định chế ổn định có thể đi rất xa trong việc giải quyết
vấn đề phối hợp. Phân tích marxist kinh điển lập luận rằng sự đoàn
kết công nhân sẽ được tạo ra trong những hầm mỏ và công xưởng
của chủ nghĩa tư bản công nghiệp, nó tập hợp mọi người vào chung
một nơi ở đó họ có thể tạo ra sự bất bình chung và những người
phản kháng chung. Tuy nhiên, giờ đây, ít nhất cũng là trong những
nước mẹ đẻ của chủ nghĩa tư bản công nghiệp nơi truyền cảm hứng
cho lập luận trên, số lượng thợ mỏ và công nhân công nghiệp đang
giảm mạnh, cùng với quyền lực huyền thoại của mình, khi các công
ty dịch chuyển sản xuất đến những nước có mức lương thấp ở Nam
bán cầu. Các nhà chiến lược của các công đoàn kiểu cũ đang tìm
kiếm cách thức để khắc phục điểm yếu này bằng cách phối hợp hành
động của lao động xuyên biên giới. Mặc dù điều này mới chỉ ở trạng

17

thái tuyên ngôn và mong muốn, đã có một vài hình mẫu liên minh
phôi thai nhưng có thể hứa hẹn vững chắc hơn.
20


Những hình thái phong trào mới đang nổi lên được địa phương hóa
hơn là các công đoàn công nghiệp kiểu cũ, và chúng tỏ ra có nhiều
điểm chung hơn với các tổ chức xã hội nông thôn mà Barrington
Moore (1965:470-74) đã lập luận rằng những tổ chức này tạo ra sự
đoàn kết khiến cho người dân có khả năng phản kháng lại những khó
khăn liên quan đến chế độ cũ (ancient regime). Các nhóm địa
phương mới có thể có những lợi thế không thấy có ở nơi dân làng
châu Âu sống qua sự quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ
nghĩa tư bản thương nghiệp. Các nhóm mới liên kết với nhau, cũng
như là với công luận thế giới, trong những mạng lưới dựa trên
internet. Các chiến dịch của dân quân Ijaw và Ogoni ở vùng châu thổ
Nigeria dựa trên các máy điện thoại trị giá 2-3 US$, và Jomo Gbomo,
người phát ngôn chính thức của Phong trào Giải phóng vùng châu
thổ Niger, liên lạc với phóng viên nước ngoài qua email (Junger
2007). Những người phản kháng Zapatista ở Chiapas, khởi đầu năm
1992, cũng sử dụng rộng rãi internet và tạo ra tiếng vang trong các
tộc người bản địa trên toàn cầu. Shefner (2007) kết luận rằng trong
khi ảnh hưởng trực tiếp của những cuộc phản kháng này là hạn chế,
thì chúng lại góp phần xúc tác cho một phong trào dân chủ hóa rộng
rãi ở Mexico. Cũng có những hình thái tổ chức mới đang nảy nở có
tính đến lao động phi chính quy rất phổ biến ở phía Nam bán cầu.
Những nhóm này tránh việc tổ chức chống lại giới chủ nhỏ, để nhằm
vào các chính phủ và đòi hỏi các quy định của chính phủ ở nơi làm
việc (Agarwala 2006). Đây chính là một nỗ lực để tránh làm tiêu tan
những cố gắng tổ chức trong khu vực phi chính quy.


Như một loạt ví dụ trên cho thấy, có lẽ quá ư là quan trọng đối với
những đoàn kết được tạo ra bởi tổ chức xã hội nền tảng và đã có
trước, và đối với bản thân việc “tổ chức” phong trào. Như tôi đã viết
cùng với Richard Cloward (Piven and Cloward 1992), “Những cuộc
nổi dậy đòi hỏi nhiều hơn một chút về cách tổ chức hơn là về số
đông, sự gần gũi, và đôi chút truyền thông. Khuôn mẫu chính của sự
cư trú của con người … đặt ra yêu cầu cấu trúc như thế”.
21
Những
đám đông náo loạn đường phố có thể hình thành ngay lập tức, có lợi
thế tập hợp hơn so với chợ búa, buổi hành hình, hoặc đơn giản là
đám đông, và những người tham gia có thể không quen biết nhau,

18
mặc dù họ dễ dàng nhận biết ký hiệu nói lên bản sắc của nhóm, giai
cấp, khu dân cư mà đám đông đang thể hiện.

Nhiều cuộc phản kháng chống toàn cầu hóa tân tự do có cái đặc
trưng này của việc hình thành cố hữu các đám đông hay đám náo
loạn. Adolfo Gilly mới đây nhận xét về điều này khi nói về các cuộc
phản kháng ở Mỹ Latin: “Những phong trào này hình thành từ thanh
niên, nhiều người trong số họ từ khu vực phi chính quy. Họ không có
công đoàn như thời cha mình, họ sống trong các khu ổ chuột thay vì
ở làng quê hay ở khu xóm công nhân. Họ phải tổ chức nhau theo
một cách thức khác. Và họ tự do hơn chúng ta đã từng!”.
22
Về phản
kháng ở Argentina, Marina Sitrin (2006:31) viết “Đó là một cuộc nổi
dậy mà không có lãnh đạo, từ các đảng chính thức hay từ giới tinh

hoa mới nổi lên…Mọi người không biết họ đang diễu hành đi đâu,
hay vì sao họ diễu hành, đơn giản là họ đã chán ngấy cái hệ thống
tân tự do điển hình này mà Menem đang thực thi”. Các thành viên
của tổ chức “Những sinh viên vì một Xã hội Dân chủ” mới nổi lên gần
đây ở Hoa Kỳ thể hiện một điều tương tự (Phelps 2007). Nhóm này
chủ tâm chống quan liêu, chống phân đẳng cấp, họ không có lãnh
đạo toàn quốc, và việc tự do không có sự kiểm soát từ một trung tâm
lại chính là một phần hấp dẫn của nó. Nói chung hơn, phong trào
công lý toàn cầu dứt khoát từ chối các hình thức tổ chức của phong
trào lao động thay vào đó chọn cách hành động trực tiếp tự phát hơn,
đôi khi được gọi là khuynh hướng theo chiều ngang, hoặc là chọn
các phương pháp lỏng lẻo về truyền thông và phối hợp hành động
tập thể theo kiểu “phát ngôn và bánh xe quay” hơn là chọn kiểu kim
tự tháp tổ chức.

Thứ tư, khi người dân cố gắng thực thi quyền lực gây rối hay quyền
lực phụ thuộc lẫn nhau, họ phải tìm ra những cách thức chịu đựng
được việc ngưng các quan hệ cộng tác mà họ phụ thuộc vào đó, và
trụ vững trước mọi sự trả đũa có thể xảy đến. Ít có bằng chứng đối
với những người tham gia vào các hành động như đám đông khích
động và gây rối, ở đó các hành động thường là ngắn ngủi và người
tham gia dễ ẩn danh tính. Nhưng nếu bãi công, công nhân cần phải
nuôi sống gia đình và trả tiền nhà; người tẩy chay tiêu dùng phải trụ
qua được một thời gian không có những vật phẩm và dịch vụ mà họ
từ chối. Người dân cũng có thể phải đối diện với sự đe dọa rút bỏ,
vốn là điều hay được đem ra khiêu khích. Đối diện với người vợ
đang nổi dậy người chồng có thể đe dọa sẽ bỏ đi, đối diện với công

19
nhân bãi công người chủ có thể đe dọa di chuyển nhà máy hay thay

thế công nhân khác, và v.v. Những người nổi dậy cũng gặp rủi ro khi
đối tác của họ trong các quan hệ cộng tác rút lui, đây là điều diễn ra
khi những cơ sở kinh doanh nhỏ rút chạy khỏi các khu ổ chuột trong
thời kỳ nổi dậy của những khu ghetto Mỹ những năm 1960.

Những cuộc chiến tài nguyên ở Mỹ Latin và châu Phi do những
người phản kháng địa phương phát động tỏ ra ít bị những hậu quả
nói trên. Chắc chắn là những khoản thanh toán nước ngoài sẽ không
có nữa, nhưng vì nỗi bất bình chính của những người phản kháng là
họ không nhận được lợi ích từ những khoản thanh toán ấy, nên
người dân địa phương chẳng mất gì do bị ngưng thanh toán. Và nếu
đầu tư nước ngoài vào khai thác tài nguyên đồng hành với việc xuất
khẩu làm khuynh đảo nền công nghiệp tại chỗ thì việc giảm sự can
dự của nước ngoài có thể là một thắng lợi ròng.
23
Trong mọi trường
hợp, chỉ ít nhiều lâu hơn đôi chút, rồi sẽ lại có những nhà thầu khác
cho các nguồn tài nguyên này, và ở châu Phi và Nam Mỹ, trong thực
tế các nhà thầu khoán Trung Quốc đã nhanh chóng xuất hiện.
24


Thứ năm, như đã nhận xét ở trên, đời sống xã hội là phức tạp và
hành động chính trị diễn ra trong một ma trận các quan hệ xã hội.
Những người cố gắng huy động quyền lực gây rối phải khắc phục
những trở ngại hàm chứa trong các quan hệ đa cấp của họ với người
khác, như khi người nông dân nổi dậy bị nhà thờ đe dọa rút phép
thông công, khi công nhân bãi công bị những trở ngại do trách nhiệm
của mình với gia đình. Các giáo sĩ Tin Lành Methodist Anh khích
động con chiên của họ khi vẽ ra nỗi kinh sợ đối với sự trừng phạt

vĩnh hằng dưới địa ngục sẽ đổ lên đầu những kẻ nổi dậy Luddite đầu
thế kỷ XIX. Tuy nhiên, trong một số hoàn cảnh, những mối dây đa
dạng có thể xúc tác cho quyền lực gây rối.
25
Nhà thờ, vốn thường
thuyết giảng cho sự tuân phục nhà chức trách thế giới, đôi khi có thể,
đơn giản có lẽ chỉ là để ủng hộ con chiên đang thất vọng, khích lệ
những cuộc nổi dậy như trong phong trào Đoàn kết ở Ba Lan, phong
trào quyền dân sự ở Mỹ, và ở Chiapas khi Giám mục Samuel Ruiz và
giáo khu của ông ủng hộ các cuộc nổi dậy của dân địa phương.

KẾT LUẬN

Mọi điều đã nói, tôi phải nói ngay rằng tôi không tiên đoán bình minh
của nền dân chủ toàn cầu hay của chủ nghĩa xã hội toàn cầu. Cái mà

20
tôi dự đoán đó là một thời đại hỗn loạn và không chắc chắn. Thêm
nữa, như mọi hình thái quyền lực, quyền lực phụ thuộc lẫn nhau có
một mặt trái, và bao giờ cũng có một mặt trái. Những đám đông đói
khát và bệnh tật gây kinh hoàng cho thị dân châu Âu cuối thời Trung
cổ không phải là các nhà tư tưởng khai sáng, họ cũng không phải là
những kẻ đánh bom liều chết Hồi giáo. Ngay cả những cuộc đấu
tranh của Hiệp hội Các Thợ mỏ miền Tây cũng có một mặt trái, khi
họ chống lại bạo lực nhà nước và công ty bằng bạo lực riêng của
mình. Song, các phong trào từ bên dưới được nhen nhóm bởi quyền
lực phụ thuộc lẫn nhau ít nhất cũng có một niềm hy vọng rằng nhu
cầu và mơ ước của đa số quần chúng sẽ in dấu ấn của mình vào các
xã hội mới mà chúng ta mong ước. Dĩ nhiên, quá trình cải cách sẽ là
phức tạp và kết quả được định hình không chỉ bởi quyền lực phụ

thuộc lẫn nhau mà còn bởi các cấu trúc định chế phức hợp mà chúng
ta thừa kế, bởi trí nhớ văn hóa, và bởi các nguồn lực quyền lực tập
trung của giới tinh hoa đang mở rộng sức mạnh. Tất cả những cái đó
nói rằng, không có ảnh hưởng của các phong trào từ bên dưới và
của quyền lực phụ thuộc lẫn nhau mà những phong trào ấy sản sinh
ra, thì tương lai của chúng ta thực là đáng lo ngại.

Nhà xã hội học có một đóng góp cho việc thúc đẩy quyền lực phụ
thuộc lẫn nhau. Mối bận tâm xã hội học trang bị cho chúng ta cách để
lần theo những khuôn mẫu đương đại của sự phụ thuộc xã hội lẫn
nhau nó đang đan kết thế giới vào với nhau. Chúng ta có thể mô tả
những khuôn mẫu này theo những cách làm sáng tỏ sự đóng góp
vào đời sống xã hội của đa số nhân dân trên thế giới, và chúng ta
cũng có thể đo lường được cái giá mà đa số nhân dân phải trả cho
toàn cầu hóa theo kiểu tân tự do. Dựa trên mối quan tâm truyền
thống của mình về các định chế, chúng ta có thể chỉ ra rằng những
hành động thách thức của các phong trào là có tính tổng thể bởi vì
các quy tắc không đơn giản là một mặc định cơ bản của đời sống xã
hội. Đúng hơn, các quy tắc phản ánh tình trạng không bình đẳng về
quyền lực trong xã hội chúng ta, và vì chúng là như thế, nên chúng
có thể áp chế việc hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau từ
bên dưới. Cuối cùng, với tính cách là nhà xã hội học, điều hợp lý lẽ,
vì vậy tôi nghĩ rằng nó là tất yếu, là những cam kết đạo đức của
chúng ta sẽ soi sáng cho công việc của chúng ta. Ít nhất, chúng ta có
cam kết với những đòi hỏi cơ bản về phúc lợi của xã hội, mà phúc lợi
này đang bị xói mòn bởi tình trạng gia tăng bất bình đẳng, mất an
toàn, chiến tranh và xuống cấp môi trường.

21


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Xin xem nguyên bản đăng trong American Sociological Review 2008.
Vol. 73 (February:1-14).

1
Điều này được chấp nhận rộng rãi. Công trình then chốt có lẽ là của Becker (1909) (Xem thêm Bailyn
1965; Bridenbaugh 1955; Morgan 1956; Raphael 2001; Schlesinger 1955; Young 1999).
2
Lập luận này được trình bày đầy đủ trong Piven and Cloward (2005).
3
Tuy nhiên đối với Giddens, quan hệ của quyền lực với xung đột phụ thuộc vào việc có phải khắc phục sự
phản kháng hay không.
4
Những người khác đã cố gắng phân loại các nguồn lực theo nguyên tắc phân biệt đối xử, chẳng hạn
Giddens (1976) phân biệt “các nguồn lực phân bổ” (việc kiểm soát sản phẩm vật chất và nguồn lực tự nhiên
mà có thể chế ngự trong sản xuất) và “các nguồn lực quyền hạn” (việc kiểm soát các hoạt động của con
người). Etzioni (1968:357-59) phân biệt giữa các nguồn lực sử dụng hay khích lệ vật chất, các nguồn lực
bạo lực có thể sử dụng để gây bạo lực lên thân thể hay tâm lý, và các phần thưởng hay đe dọa có tính chuẩn
mực hay biểu trưng. Tilly (1978:69) chú ý đến kinh tế hơn khi nhấn mạnh “các yếu tố kinh tế của sản xuất:
đất, lao động, vốn, có lẽ cả bí quyết kỹ thuật nữa”. Mann (1986) phân biệt quyền lực kinh tế dựa trên nguồn
lực vật chất, quyền lực quân sự dựa trên phương tiện bạo lực vật lý, quyền lực tư tưởng và quyền lực chính
trị dựa trên một bộ máy hành chính lãnh thổ.
5
Domhoff (2007:97) viết “Quyền lực mà hoạt động của một người thực hiện trong quan điểm “cấu trúc
quyền lực” mà Mills là người nêu lên đầu tiên, quyền lực này có cội rễ trong các tổ chức chứ không phải
nằm ở cá nhân”.
6

Cách nói này lấy từ Oberschall (1973:28); xem Dahl (1961:227) để biết các cách dùng thuật ngữ khác
nhau. Hiển nhiên là của cải, vị thế, và quyền lực với tính cách là phương tiện tác động tới người khác đã
được Weber xem xét đầu tiên và được thảo luận ở Wrong (1979:229).
7
Các danh mục khác và được mở rộng hơn có thể xem ở Lasswell và Kaplan (1950:83-92).
8
Chẳng hạn, Dahl (1961:226) bắt đầu danh mục riêng của mình với “kiểm soát thời gian của một cá nhân”.
Theo cách lập luận này, người thất nghiệp có thể được xem là người có ảnh hưởng đáng kể.
9
Các nhà phân tích phong trào xã hội thể hiện một sự mập mờ đáng kể về vấn đề này. Một mặt, phần lớn
học giả về phong trào ở Mỹ rất đồng cảm với các phong trào, coi chúng như là một hình thái của chính trị.
Mặt khác, vẫn còn rất ít các nghiên cứu về ảnh hưởng của phong trào đối với chính sách, hay nghiên cứu về
sự năng động qua đó đạt được ảnh hưởng. Có lẽ ít nhất thì điều này một phần cũng là do thực tế rằng các
nhà phân tích phong trào chưa chắc chắn về cơ sở lý luận về quyền lực phong trào (xem chẳng hạn Amenta,
Halfmann và Young 1999; Burstein, Einwohner và Hollander 1995; Cress và Snow 2000; Giugni 1998;
McAdam, McCarthy và Zald 1988). Dĩ nhiên mọi khái quát đều mạo hiểm, và có những ngoại lệ quan
trọng đối với khái quát của tôi (chẳng hạn xem Gamson 1975; Goldstone 1980; Gurr 1980; Tarrow 1994).
Các nghiên cứu thực nghiệm về phong trào quyền dân sự cũng đã cố gắng rút ra kết luận về kết quả ảnh
hưởng, mặc dù vẫn còn thiếu nhiều phân tích về cơ chế cụ thể qua đó các cuộc biểu tình đã đóng góp vào
kết quả lập pháp (chẳng hạn xem Andrews 2001).
10
Mann (1986:17) cho rằng chúng ta quan niệm “xã hội như là mang tính hiệp hội, chồng chéo nhau, mang
tính tương liên giữa các khu vực hơn là những tổng thể đơn giản (simple totalities)”. Quan niệm của Mann
ủng hộ cho cách hiểu này về quyền lực.
11
Luận điểm cơ bản về sự phụ thuộc của bề trên đối với bề dưới đã được Hegel nói đến khi thảo luận về
mối quan hệ giữa chủ và đầy tớ (xem Friedrich 1953:399-411).
12
Về sự lan truyền ý tưởng giữa các lĩnh vực định chế, xem Sewell (1992).
13

Đây là cái mà Wright (2000) gọi là quyền lực mang tính cấu trúc của công nhân. Để phát triển hơn ý
tưởng này xem Silver (2003).
14
Durkheim ([1933] 1964:39) nhấn mạnh điểm này là cái mà ông xem là “một trong những cơ sở căn bản
của trật tự xã hội” thế kỷ XIX.
15
Daniel Bell (2007:21) viết: “Vào tháng 10/2006, lần đầu tiên trong 25 năm qua, một phiên họp của Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dành cho việc xem xét các vấn đề xã hội…[báo
hiệu] một sự chuyển dịch từ tăng trưởng không hạn chế (no-holds-barred growth) sang một mô hình bền
vững hơn nâng cao bình đẳng kinh tế và xã hội”.

23

16
Xem bản tin của Benedict Mander trong tờ Financial Times. Ông đã ở Montevideo trong 6 tháng đầu
năm 2007 (xem them Futures and Commodity Market News 2006).
17
Những chiến lược như thế cần được phát triển cả từ phía trên lẫn phía dưới của quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau. Vì những lý do đã được thảo luận ở chỗ khác, các nhóm thống trị ở vào vị trí tốt hơn để thích ứng
chiến lược của mình với những lợi thế của các hoàn cảnh mới (xem Piven và Cloward 2005).
18
Nhiều người khác cũng đã đề cập điều này. Chẳng hạn Jasper (1997) nói về việc các nhóm có xu hướng
dựa vào những sách lược quen thuộc và hạn chế trước hàng loạt lựa chọn rộng rãi mở ra cho mình.
19
Chẳng hạn, vào tháng 4/2007, một số cộng đồng bản địa ở Bắc Guatemala đã tổ chức một “Consulta
Popular” về hai vấn đề: xây đập Xalala, điều có thể phải di dời 18 cộng đồng địa phương, và việc cho phép
khai thác dầu ở Quiche. Consulta là một quá trình ra quyết định truyền thống; 91% bỏ phiếu chống (xem
Kern 2007).
20
Hội công nhân chế tạo máy quốc tế và Hiệp Hội công nhân luyện kim quốc tế đã công bố một thỏa thuận

vào tháng 4/2007 về việc hình thành một Liên minh Công đoàn Toàn cầu đại diện cho công nhân hãng
Boeing ở Mỹ, Canada, Úc, Đức, Ý, Thụy Điển, và Nhật. Mới đây tổ chức Công nhân Thép loan báo mở
rộng thương lượng với hai công đoàn lớn nhất ở Anh (Meyerson 2007). Công đoàn quốc tế những người
làm dịch vụ cũng có những kế hoạch quốc tế nhấn mạnh vào chiến lược các công đoàn mạnh trong một
nước sử dụng quyền lực mặc cả hay ngân quỹ của mình để giành được quyền được tổ chức cho công nhân
ở các nước khác (Lerner 2003) (về một đánh giá nghiêm túc xem Moody 1997 và Piven và Cloward 2000).
21
Trong khi tình trạng tổ chức lao động ở Mỹ không có khả năng bảo vệ quyền của người lao động chủ yếu
là do tỷ lệ công nhân có tổ chức ngày càng giảm thì các công đoàn ở Pháp tuy cũng trải qua tình trạng sụt
giảm số lượng như thế nhưng lại vẫn duy trì được quyền lực đáng kể trong nền chính trị Pháp vì họ vẫn giữ
được khả năng huy động quần chúng.
22
Tôi nêu lại nhận xét của Gilly từ ghi chép của tôi trong một phiên họp ở Diễn đàn Cánh tả Toàn cầu, họp
tại Liên minh Cooper ở Thành phố New York, ngày 11/3/2007.
23
Hàng hoá Trung Quốc nay đang chảy vào châu Phi, chẳng hạn, và đang đánh bại các nhà máy chế tác địa
phương (Polgreen và French 2007). Điều này đang lặp lại tình hình thế kỷ XIX khi nền công nghiệp dệt
may Ấn Độ bị phá sản hoàn toàn do dòng hàng nhập khẩu từ Anh.
24
Phần lớn công ty dầu phương Tây rút khỏi Sudan trong thập niên 1990 do áp lực của các nhóm quyền
con người và do bị ảnh hưởng của các cuộc nổi dậy ở địa phương. Các công ty Trung Quốc, Malaysia, Ấn
Độ nhảy vào thay thế (Moro 2007). Nhưng rồi các công ty châu Á lại trở thành đối tượng của các cuộc
phản kháng tương tự. Ở Ethiopia tháng 4/2007, một khu khai thác dầu của Trung Quốc đã bị Mặt trận Giải
phóng Dân tộc Ogaden tấn công.
25
Thảo luận của Kalyvas (2003:475) về nội chiến đã đưa ra một phân tích bổ ích: “[Nội chiến] không phải
là cuộc xung đột hai bên mà là những quá trình phức tạp và nhập nhằng, nó là một thứ hỗn hợp đầy biến
động của các bản sắc và hành động”.

×