Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận: Thành tựu nền văn minh Ai Cập pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.67 KB, 18 trang )

1







Tiểu luận

Thành tựu nền văn minh Ai Cập













2




LỜI MỞ ĐẦU
Ai Cập là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại


.Nhờ vào những điều kiện thuận lợi về mặt tự nhiên, ngay từ rất
sớm, nơi đây đã hình thành và phát triển một nền văn minh vô
cùng rực rỡ.Những thành tựu mà cư dân Ai Cập cổ đại đạt được
không những là niềm tự hào của đất nước Ai Cập nói riêng mà
còn là của thế giới nói chung.
Việc tìm hiểu ,khám phá những thành tựu ấy là vô cùng cần
thiết ,nó giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc
hơn về nền văn minh này.Trong đề tài này ,chúng tôi đã nghiên
cứu một cách khái quát về tổng quan và những thành tựu chủ
yếu của nền văn minh Ai Cập cổ đại ,mặt khác cũng đề cập đến
sự phát triển của Ai Cập hiện nay.
Trên cơ sở những kiến thức đã thu thập được từ những nguồn
tài liệu khác nhau chúng tôi hi vọng rằng phần nghiên cứu của
chúng tôi sẽ mang lại những tri thức bổ ích cho người đọc.Tuy
đã cố gắng chọn lọc ,nghiên cứu nhưng chúng tôi không thề
tránh khỏi những sai sót .Rất mong được sự góp ý của cô và các
bạn để tiếp tục hoàn thiện đề tài này .

3









A.VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI
I-Tổng quan về Ai Cập cổ đại

1.Địa lý dân cư:
a.Địa lý của Ai Cập cổ đại:
-Ai Cập nằm ở Đông Bắc Châu Phi,nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực
sông Nin.Phía Tây giáp sa mạc Xahara ,phía Đông giáp Biển Đỏ,phía Bắc giáp
Địa Trung Hải ,phía Nam giáp Nubi.
-Sông Nin là một trong những con sông dài nhất thế giới khoảng 6500 km,bắt
nguồn từ vùng xích đạo của Châu Phi,nhưng vùng chảy qua Ai Cập chỉ dài
700km .Hằng năm,từ tháng 6 đến tháng 11 , nước sông Nin dâng cao đem theo
một lượng phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở hạ lưu sông Nin.Đất đai
màu mỡ ,cây cối tốt tươi,các loài động thực vật và tài nguyên thiên nhiên
phong phú ,nên ngay từ thời nguyên thủy con người đã tập trung sinh sống ở
đây đông hơn ở các khu vực xung quanh. Chính vì vậy ,nhà sử học Hy Lạp
Hêrôđôt nói rằng:Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.
-Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin từ Nam lên
Bắc:miền Thượng Ai Cập (miền Nam) là một dải lưu vực hẹp ,miền hạ Ai
Cập(miền Bắc)là một đồng bằng hình tam giác.
-Con người ở đây đã sớm biết sử dụng những công cụ,vũ khí bằng đồng.Từ
đó,con người ở đâychuyển sang sống chủ yếu nhờ nghề nông ,thoát khỏi cuộc
sống săn bắn ,hái lượm và sớm bước vào xã hội văn minh.
b.Dân cư:
- Ở lưu vực sông Nin từ thời đồ đá cũ đã có con người sinh sống .Người Ai
Cập thời cổ là những thổ dân Châu Phi,hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều
bộ lạc.Do đi lại săn bắn trên lục địa,khi đến vùng thung lũng sông Nin,họ định
cư ở đây và phát triển nghề nông và nghề chăn nuôi từ rất sớm .
4

- Về sau,một chi của bộ tộc Hamites từ Tây Á xâm nhập vào vùng hạ lưu sông
Nin,chinh phục thổ dân người Châu Phi ở đây.Trải qua quá trình hỗn hợp lâu
dài ,người Hamites và thổ dân đã đồng hóa lẫn nhau,hình thành ra một bộ tộc
mới,đó là người Ai Cập cổ đại.

2.Các thời kì lịch sử chính của Ai Cập cổ đại : Lịch sử Ai Cập cổ đại có thể
chia ra làm 5 thời kì chính sau :
• Thời kì TảoVương quốc ( khoảng 3200 - 3000 năm TCN )
• Thời kì Cổ Vương quốc ( khoảng 3000 - 2200 năm TCN )
• Thời kì Trung Vương quốc ( khoảng 2200 - 1570 năm TCN )
• Thời kì Tân Vương quốc ( khoảng 1570 - 1100 năm TCN )
• Thời kì Hậu Vương quốc ( khoảng 1100 - 31 năm TCN )
II Những thành tựu chủ yếu của nền văn minh Ai Cập cổ đại
1.Chữ viết:
Khoảng hơn 3000 nămTCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng
hình . Muốn chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn
tả những khái niệm trừu tượng thì họ mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát
thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để nói lên sự công
bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu ( vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau ).
Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24
chữ cái. Vào thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt đã học cách viết của người
Ai Cậpđể ghi lại các ngôn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít
nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ
cái A , B Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc trên đá, viết
trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy papyrus. Đây là một loại
“giấy” cổ xưa nhất, do vậy ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là
papes, papier Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp là Sampôliông (
Champollion ) đã tìm cách đọc được thứ chữ này.
2.Văn học:
Những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói
Láo, Đối thoại của một người thất vọng với linh hồn của mình , Người nông
phu biết nói những điều hay
Văn học Ai Cập trong suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ của mình là một sự
thống nhất về ngôn ngữ nhưng đa dạng về chữ viết. Người ta viết bằng ngôn
ngữ Ai Cập trong một thời kỳ vô cùng dài không ít hơn ba thiên niên kỷ rưỡi,

và hoàn toàn đương nhiên ngôn ngữ đó phải biến đổi. Các tác phẩm thành văn
đã minh chứng rằng sau ba mươi lăm thế kỷ tồn tại, tiếng Ai Cập đã trải qua
một số giai đoạn phát triển, gắn liền với truyền thống bắt nguồn từ thời cổ đại
5

và gắn với sự phân kỳ lịch sử của bản thân đất nước Ai Cập đã được khoa học
thiết lập. Những giai đoạn đó là:
I. Ngôn ngữ cổ Ai Cập thời đại Cổ vương quốc (thế kỷ XXX – XXII trước
công nguyên);
II. Ngôn ngữ cổ điển (trung Ai Cập) thời đại Trung vương quốc (thế kỷ XXII
– XVI trước công nguyên);
III. Ngôn ngữ tân Ai Cập thời đại Tân vương quốc (thế kỷ XVI – VIII trước
công nguyên);
IV. Ngôn ngữ demotic (bình dân) (thế kỷ VIII trước công nguyên – thế kỷ III
sau công nguyên);
V. Ngôn ngữ Coptic (từ thế kỷ III sau công nguyên).
Văn học Ai Cập là một phần của văn hóa Ai Cập và cùng mất đi với nó, đã trải
qua một cuộc sống lâu hơn nhà nước độc lập Ai Cập. Ai Cập vào năm 332
trước công nguyên đã thần phục Alexander Macedonia và đến năm 30 trước
công nguyên trở thành một tỉnh của đế quốc La Mã. Văn hóa đặc sắc của Ai
Cập tiếp tục sống và phát triển trong những điều kiện chính trị mới. Nhưng,
mặc dù như vậy và mặc dù từ lâu việc nghiên cứu văn học Ai Cập đã trở thành
một lĩnh vực độc lập trong bộ môn Ai Cập học, các chuyên gia khi phân kỳ
lịch sử của nó vẫn thích dựa vào những đặc điểm bên ngoài và phát xuất từ sự
phân kỳ lịch sử ngôn ngữ và lịch sử đất nước mà chúng ta đã làm quen để
phân biệt các nền văn học Cổ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương
quốc và văn học demotic. Sự phân kỳ văn học Ai Cập được thừa nhận như vậy
là bất đắc dĩ, chủ yếu do tình hình tư liệu và việc không thể theo dõi liên tục
từng bước sự phát triển của bản thân tiến trình văn học.
Văn học cổ đại Ai Cập, cũng như mọi nền văn học khác, gắn liền với đời sống

xã hội và với hệ tư tưởng của xã hội đó. Và bởi vì ở Ai Cập cổ đại, tôn giáo là
hình thức tư tưởng chủ đạo, nên không có gì lạ rằng văn học Ai Cập chịu ảnh
hưởng chủ yếu của tôn giáo, và nhiều tác phẩm của nền văn học này đã thấm
nhuần thế giới quan tôn giáo, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy
nhiên không nên từ đó mà cho rằng văn học Ai Cập chỉ là những văn bản tôn
giáo hay thần thoại. Ngược lại, nó rất phong phú đa dạng về thể loại. Bên cạnh
những truyện cổ dân gian được tái chế (như Papyrus Westcar, Truyện về hai
anh em, Truyện chàng hoàng tử phải chết, …), trong văn học Ai Cập còn
có những tác phẩm mô tả cuộc sống hiện thực (các truyện Sinuhe và Un-
Amon), những văn bia của các vua và quan lại mang tính lịch sử, những tác
phẩm mang nội dung tôn giáo (tụng ca thần linh) và triết học (“Bài ca của
người chơi đàn hạc”, “Cuộc trò chuyện của một người tuyệt vọng với linh
6

hồn”); những truyện thần thoại (“Cuộc chiến giữa Horus và Seth”), các
truyện ngụ ngôn, thơ tình yêu. Người Ai Cập đã biết đến trình diễn sân khấu,
không chỉ dưới hình thức kịch tôn giáo, mà cả dưới hình thức kịch thế tục ở
một chừng mực nào đó. Và sau rốt, tồn tại một bộ phận lớn văn học giáo huấn
dưới hình thức được gọi là các “châm ngôn”, chứa đựng những lời răn dạy đạo
lý và những quy định hành xử trong xã hội.
Tóm lại, văn học Ai Cập chứng minh rõ ràng rằng xã hội Ai Cập thời cổ đại đã
sống một cuộc sống tinh thần phong phú và đa diện. Những thư tịch từ thời đại
cổ xưa còn lại đến nay và được lưu giữ trong các bảo tàng và các bộ sưu tập
trên toàn thế giới chỉ là những mảnh di tích nhỏ bé của cả một nền văn học lớn
mà tiếc thay đã mãi mãi mất đi. Nhưng chỉ chúng thôi cũng đã tạo ra một bức
tranh rực rỡ, phong phú và thú vị lạ thường.
Nói về một nền văn học thì không thể không nói đến những người sáng tạo ra
nó. Tất cả các văn bản Ai Cập còn truyền lại đến nay đều được người nào
đóvào thời gian nào đó sáng tạo nên, hay nói cách khác, đều có tác giả của
mình. Tất nhiên ở Ai Cập, cũng như ở những nước khác, văn học dân gian phổ

biến rất rộng rãi, nhưng những tác phẩm còn truyền lại đến nay rõ ràng không
phải là sản phẩm của sáng tác dân gian trong nghĩa nghiêm ngặt của từ này,
thậm chí nếu như chúng là bản ghi lại những câu chuyện truyền miệng. Tuy
nhiên, trong phần lớn các văn bản đó không có một chỉ dẫn nào, dù là nhỏ
nhất, hay một lời ám chỉ nào về tác giả.
3.Tôn giáo:
Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi
vùng thờ mỗi vị thần riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến
thời kì thống nhất quốc gia, bên cạnh những vị thần riêng của mỗi địa phương
còn có các vị thần chung như thần Mặt trời ( Ra ), thần sông Nin (Osiris ).
Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần : hồn và xác. Khi con người
chết đi, linh hồn thoát ra ngoài nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác
( Họ tin rằng như khi bị ngất , hồn thoát ra ngoài tạm thời ). Vì vậy những
người giàu có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ thuật ướp xác vì vậy cũng
rất phát triển.
Tôn giáo Ai Cập cổ đại bao gồm các niềm tin tôn giáo và nghi thức khác nhau
tại Ai Cập cổ đại qua hơn 3.000 năm, từ thời kỳ Tiền Triều Đại cho đến khi du
nhập Kitô giáo trong những thế kỷ đầu Công nguyên. Những niềm tin này tập
trung vào thờ cúng các vị thần đại diện cho nhiều khía cạnh, ý tưởng và chức
năng quyền lực khác nhau của thiên nhiên, thể hiện qua các nguyên mẫu phức
tạp và đa dạng. Vào thời kỳ của triều đại thứ 18, người Ai Cập đã có nâng vị
7

thế một số đơn vị thần như Amun lên hàng đấng sáng tạo vũ trụt với nhiều
biểu hiện, tương tự như khái niệm kinh tế cũng được tìm thấy trong đạo Ki-tô:
niềm tin rằng một Thượng đế có thể tồn tại trong nhiều hơn một người.
Những vị thần được tôn thờ với các nghi lễ và cầu nguyện, trong các ngôi đền
địa phương và đền thờ gia đình cũng như trong ngôi đền chính thức quản lý
bởi các giáo sĩ. Các vị thần khác nhau đã được nổi bật ở giai đoạn khác nhau
của lịch sử Ai Cập, và các huyền thoại liên quan đến họ thay đổi theo thời

gian, do đó, Ai Cập chưa bao giờ có một hệ thống thứ bậc các vị thần chặt chẽ
hay một thần thoại thống nhất. Dù vậy, trong tôn giáo Ai Cập có nhiều niềm
tin bao quát. Trong số đó có sự tôn thờ của pharaon - đã giúp thống nhất quốc
gia về mặt chính trị, và niềm tin phức tạp về một thế giới bên kia, mà đã dẫn
đến việc gia tăng tục chon cất công phu của người Ai Cập.
 Các vị thần:
Truyền thuyết về các vị thần của Ai Cập cổ đại khá đặc biệt. Thần Mặt Trời,
hay Thần Thái Dương là Ra, sinh ra hai vị thần, nam thần Shu - thần không
khí và nữ thần Tefnut, thần hơi nước. Shu và Tefnut cưới nhau rồi sinh ra đôi
thần trai gái là Nut và Geb. Nut và Geb cũng yêu nhau, nhưng bị cha cấm hẹn
hò vì vậy họ phải lén lút với nhau. Một hôm, thần Shu bắt gặp, ném Nút lên
trời, đạp Gép xuống sâu trong mặt đất. Từ đó, Nút là nữ thần bầu trời, Gép là
nam thần mặt đất. Nhưng nhờ có thần trí tuệ Thot, cả hai cũng được cưới nhau
và bên nhau chỉ trong năm ngày (thần Shu làm cho lịch thành 360 ngày, thần
Thot thắng 72 ván cờ với thần Shu nên đã làm cho lịch chuyển thành 365 ngày
nhờ ánh sáng của thần Thái dương).
Nút sinh ra năm vị thần là: Osiris, Isis, Seth, Nephthis và Haeroit. Cả năm vị
thần đều là những vị thần quan trọng trong thế giới Ai Cập, được ghi chép lại
trong cuốn "Book of The Dead" nghĩa là Sách của Người Chết.
 Thần Ra:
Thần Ra là Thần Mặt trời của Ai Cập. Trong Sách của Người Chết có miêu tả
thần Ra vào buổi sáng biến thành một em bé, buổi trưa trở thành một thanh
niên lực lưỡng và về chiều tối, thần trở thành một ông cụ.
Truyền thuyết kể lại rằng, Isis, vợ của Osiris, ghen tỵ với thần Ra, nàng liền
nặn một con rắn bằng đất ở chỗ thần Ra vẫn thường đi lại. Khi thần Ra tới,
nàng núp sau một tảng đá, hóa phép cho con rắn thức dậy, con rắn liền cắn
thần Ra một nhát chí mạng. Thế là, mọi quyền của thần Ra đều thuộc về Isis.
 Osiris và Seth:
Osiris cưới Isis rồi Isis sinh ra Horus. Osiris được nối ngôi Thần thái dương,
trở thành thần nông nghiệp, thần sinh đẻ và thần hạnh phúc đem hạnh phúc

8

cho nhân loại, cải tạo nông nghiệp, dạy dân trồng nho, làm rượu, trồng ngũ
cốc và chăn gia súc. Osiris cũng dạy con người cách xây đền thờ, xây kim tự
tháp nguy nga, tráng lệ. Osiris đi đâu cũng được mọi người kính trọng và yêu
quý. Tuy nhiên, thần Seth, em trai của thần Osiris, lại ghẻ lạnh và căm ghét
Osiris chỉ vì anh được nối ngôi, được mọi người kính trọng. Rồi Seth đã nghĩ
ra kế hiểm độc đó là giết chết anh trai bằng cách dụ Orisis nằm vào quan tài
rồi đóng đinh và thả xuống biển. Sau đó, Seth chiếm đoạt ngôi vị của anh trai
và làm bao điều bạo tàn, ác độc khiến cho dân chúng và các vị thần khác bất
bình. Isis biết chuyện, đau khổ vô cùng và tìm mọi cách để tìm thân thể Osiris.
Sau khi tìm thấy thân thể chồng, Isis kể lại cho con trai Horus nghe. Từ đó,
Horus nung nấu ý định giết Seth, trả thù cha.
 Câu chuyện về âm phủ và thế giới bên kia:
Người Ai Cập tin rằng ở thế giới bên kia, các vị thần chờ những người đã mất
ở đó để đón lên thiên đàng hoặc đày xuống địa ngục. Khi qua thiên đường,
phải gặp thần Anubis, Anubis dẫn người chết đi đến chiếc cân trái tim, để cân
xem người đó ác hay tốt. Nếu anh ta nói dối, chứng tỏ anh ta là người xấu, sẽ
bị Ammit, con quái vật hình cá sấu ăn trái tim và bị đày đi địa ngục. Còn nếu
trả lời đúng, anh ta sẽ được tiếp đón hậu hĩnh bởi thần Osiris, thần âm phủ.
Người Ai Cập rất mê tín nên họ chả dám làm gì sai trái vì câu chuyện trên.
Nhưng không phải tất cả đều làm điều tốt. Và tất nhiên là xã hội bao giờ mả
chả thế!
4.Kiến trúc và điêu khắc:
Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật
nhất phải kể đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim
tự tháp đầu tiên để làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã
phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim tự
tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp (
Kheops ) cao tới 146m, đáy hinh vuông , mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn

năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai Cập có
câu “ Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng
mình trước Kim tự tháp”. Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ
còn để lại ấn tượng cho đời sau qua các công trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là
tượng Nhân Sư (Sphinx ) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp Khephren. Bức tượng
mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện
Khephren là chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư tử.
a.Kim tự tháp:
9

-Kim tự tháp đầu tiên được xây dựng từ thời vua Giêde thuộc vương triều III
(Cổ vương quốc).Đây là một ngôi tháp gồm 6 bậc, cao 60 m,đáy hình
vuông,mỗi cạnh đáy là 71 m.Hầm mộ đặt quan tài nằm sâu dưới mặt đất
28m,mỗi cạnh 7m.Xung quanh tháp Giêde có đền thờ và mộ những thành viên
trong gia đình và những người thân cận.
-Trong số kim tự tháp ở Ai Cập,cao lớn nhất,tiêu biểu nhất là kim tự tháp
Kêôp:
+Kim tự tháp Kêôp xây thành hình tháp chóp,có đáy là hình vuông mỗi cạnh
230 m,bốn mặt là những hình tam giác ngoảnh về bốn hướng
Đông,Tây,Nam,Bắc.Đỉnh chóp nhọn cao 146,6 m.Thể tích của kim tự tháp 2,5
triệu m
3
đá và có trọng lượng khoảng 6,5 triệu tấn .
+Toàn bộ kim tự tháp được xây dựng bằng những tảng đá vôi mài nhẵn,mỗi
tảng nặng 2,5 tấn,có tảng nặng 30 tấn.
+Để xây dựng kim tự tháp người ta đã dùng đến 2.300.000 tảng đá vôi với một
khối lượng là 2.408.000 m
3
.
+Một số nhà Ai Cập học đã lấy chiểu dài các cạnh cuả kim tự tháp Kêôp chia

cho số ngày trong một nămđã thu được một đơn vị đo chiều dài bằng 0,635 m
và họ đặt tên là thước đo kim tự tháp ,đơn vị độ dài đung1 bằng 1/10 triệu bán
kinh trái đất ,đúng bằng 1/tỉ khoảng cách giữa trái đất và mặt trời
+Phương pháp xây dựng kim tự tháp là ghép những tảng đá mài nhẵn với nhau
chứ không dùng vữa,thế mà các mạch ghép kín đến mức một lá kim loại mỏng
cũng không thể lách qua được.
+Kim tự tháp không phải là khối đá đặc mà bên bên trong có những đường
hầm ,lăng mộ ,phòng chứa quan tài…Cửa vào hướng về phía Bắc.Phòng chứa
quan tài của pharaong Kêôp trên độ cao 42,28 m so với mặt nền ,chiều dài
10,47 m,chiều ngang 5,23 m… Giữa phòng có một quan tài bằng đá hoa trang
trí rất đẹp nhưng đã bị mất nắp có chiều dài 2,29 m,chiều ngang 0,99m ,chiều
cao không kể nắp là 1,05m.
+Ở phía Bắc của kim tự tháp cách mặt đất 13 m có một cái cửa thông với hầm
mộ,kim tự tháp Kêôp có hai hầm mộ:một hầm mộ ở sâu 30 m dưới lòng đất và
một hầm mộ nằm ở giửa kim tự tháp cách mặt đất 40 m.Người ta cho rằng
theo thiết kế ban đầu ,hầm mộ ở sâu dưới đất,nhưng khi đã làm xong Kêôp
thay đổi ý kiến bắt phải xây ở trên cao.
+Các nhà Ai Cập đã làm một thí nghiệm nhỏ là:đem những đồng tiền bằng
kim loại đã bị hoen rỉ vào trong tháp ;sau hơn một tháng ,những đồng tiền đó
trở nên sáng loáng.Hai cốc sữa tươi,một cốc để ở bên ngoài,một cốc đem vào
trong tháp.Sau một thời gian,cốc sữa bên ngoài bị biến chất ,còn cốc sữa bên
10

trong vẫn không thay đổi mùi vị ,màu sắc.Có hai cây cà chua ,một cây trồng ở
ngoài trời ,một cây đem trồng ở trong tháp,cây bên ngoài chưa ra hoa kết trái
thì cây bên trong đã ra hoa kết trái.
+Để giải thích những hiên tượng kì lạ trên,các nhà bác học đã cho rằng các
cửa và lỗ thông hơi của kim tự tháp đều hướng về phía Bắc,đã hấp thụ được
các loại ‘‘sóng vũ trụ”nào đó ,do đó đã ảnh hưởng đến các đồ vật ,cây cỏ,cơ
thể và cả tinh thần của con người trong kim tự tháp.

+Việc xây dựng kim tự tháp đã huy động biết bao kiến trúc sư ,hàng vạn thợ
thủ công,nông dân và thợ thủ công,nô lệ trong vòng ba chục năm trời .Tốn
nhiều công sức và tiền bạc nhưng nó đã đánh dấu một nền văn hóa rực rỡ của
nhân dân Ai Cập cổ đại.
b.Tượng Xphanh:
-Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại có những thành tựu lớn biểu hiện ở
hai mặt tượng và phù điêu.
-Trong các tượng của Ai Cập cổ đại tiêu biểu nhất là tượng bán thân hoàng
hậu Nêfectiti ,vợ của vua Ichnatôn .
-Tượng Xphanh là những bức tượng mình sư tử đầu người hoặc dê.Những bức
tượng này thường được đặt trước các cổng đền miếu ,có những tượng lên đến
500 tượng như vậy .
-Trong số những tượng Xphanh của Ai Cập cổ đại ,tiêu biểu nhất là tượng
Xphanh,là tượng của vua Kêphen , ở gần kim tự tháp Kêphen ở Ghidê.Tượng
này cao dài 55 m,cao 20 m,chỉ riêng cái tai đã dài 2 m.Tượng này được tạc
vào cuối thế kỉ XXIX TCN.
5.Khoa học tự nhiên :
a.Thiên văn học:
-Được nghiên cứu từ rất sớm với những công cụ thô sơ với như dây dọi ,mảnh
ván cá khe hở
-Họ vẽ hình các thiên thể lên các trẩn các đền miếu .biết mười hai cung hoàng
đạo ,biết được các hệ hành tinh:kim, mộc, thủy ,hỏa ,thổ.
-Để đo được thời gian,từ thời cổ vương quốc người AI Cập phát minh ra cái
nhật khuê .Nhưng dụng cụ này chỉ xem được thời gian ban ngày và khi có
nắng .
-Đến thời vương triều XVII, người Ai Cập lại phát minh ra đồng hồ nước
,nhìn vào mực nước người ta có thể biết được thời gian
-Thảnh tựu lớn nhất trong lĩnh vực thiên văn của Ai Cập cổ đại là việc đặt ra
lịch
11


+Lịch Ai Cập được đăt ra dựa trên kết quả quan sát tinh tú và quy luật dâng
nước của sông Nin.Họ nhận thấy rằng buổi sáng sớm khi sao Lang bắt đầu
mọc cũng là lúc nước sông Nin bắt đầu dâng.Hơn nữa,khoảng cách giữa hai
lần mọc của sao Lang là 365 ngày.Họ lấy khoảng thời gian ấy là một
năm.Một năm được chia làm 12 tháng ,mỗi tháng có 30 ngày,5 ngày còn thừa
để cuồi năm ăn tết.Năm mới của Ai Cập bắt đầu từ ngày nước sông Nin bắt
đầu dâng(bắt đầu tháng 7 dương lịch).Một năm được chia là 3 mùa,mỗi mùa 4
tháng.Đó là mùa nước dâng,mùa Ngũ cốc và mùa thu hoạch.
Như vậy,lịch của Ai Cập cổ đại là một thứ lịch được phát minh rất sớm(vào
khoảng thiên niên kỷ VI TCN) và tương đối chính xác và thuận tiện.Tuy
nhiên,lịch sử Ai Cập cổ đại so với lịch mặt trời còn thiếu mất ¼ ngày.nhưng
lúc bấy giờ,họ chưa biết đặt ra năm nhuận.
b.Toán học:
Nhu cầu đo đạc lại ruộng đất ,làm thủy lợi,xây dựng đền miếu,kim tự tháp,tính
toán thu nhập …là những nhu cầu thúc đẩy toán học ra đời.
-Thiên niên kỉ thứ III là thời kì xuất hiện từng bước quan niệm trừu tượng về
số của Ai Cập .Sang đầu thiên niên kỉ thứ II ,TCN ,người Ai Cập đã phát triển
thành công hệ đếm của mình.
Người Ai Cập đã biết dùng hệ thập phân .Nhờ có hệ đếm,người Ai Cập đã biết
làm các phép cộng ,trừ còn nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng hoặc trừ
nhiều lần .Tri thức đại số của người Ai Cập đã đạt tới việc giải phương trình
bậc nhất .
-Về hình học:họ biết tính diện tích hình tam giác ,tứ giác ,biết rằng bình
phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông.Người Ai Cập
đã biết tìm được số Pi=3,14
c.Y học:
Người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại , mắt, răng,
dạ dày Họ đã biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.
B .AI CẬP HIỆN NAY

Ai Cậpcó tên chính thức là Cộng hòa Ả Rập Ai Cập , là một nước cộng hòa
nằm ở phía bắc châu Phi, Trung Đông và tây nam châu Á.
1. Kinh tế
1.1 Tổng quan tình hình kinh tế
Ai Cập là nước nông nghiệp, công nghiệp tương đối phát triển ở Châu Phi. Từ
năm 1991, được sự giúp đỡ của Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới, Ai
Cập bắt đầu cải cách kinh tế trên diện rộng. Các chương trình đẩy mạnh tư
nhân hóa, thu hút đầu tư nước ngoài, tự do hóa thương mại, xúc tiến xuất khẩu
12

đã đem lại những kết quả đáng khích lệ. Trong thập kỷ 90, nền kinh tế Ai Cập
tăng trưởng với tốc độ bình quân 4,4%/năm, giai đoạn 1996-2000 đạt
5,4%/năm, năm 2007 đạt 7,1%.

Kinh tế Ai Cập phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, môi giới trung gian, xuất
khẩu dầu mỏ và du lịch. Dân số tăng trưởng nhanh chóng (đông nhất thế giới
Ả rập), hạn chế về đất canh tác cùng sự phụ thuộc vào sông Nile khiến các
nguồn tài nguyên và kinh tế nước này phải chịu nhiều sức ép lớn. Tuy nhiên,
các điều kiện kinh tế đang bắt đầu được cải thiện nhiều sau một giai đoạn trì
trệ nhờ việc tự do hóa các chính sách kinh tế của chính phủ, cũng như tăng
nguồn thu từ du lịch và sự bùng nổ của thị trường chứng khoán. Trong bản báo
cáo hàng năm của mình, IMF đã xếp hạng Ai Cập là một trong những nước
dẫn đầu thế giới về thực hiện cải cách kinh tế.

Là thành viên của WTO, Chính phủ Ai Cập có những chính sách cải thiện môi
trường đầu tư, thực hiện các cam kết mở cửa thị trường của thành viên WTO
như: giảm thuế nhập khẩu, bãi bỏ hạn ngạch dệt may (bắt đầu từ 01/01/2005),
khuyến khích xuất khẩu, thành lập các khu công nghiệp đủ điều kiện (QIZ), ổn
định đồng bảng Ai Cập, cải cách thủ tục hải quan và hệ thống ngân
hàng Đồng thời, Chính phủ Ai Cập cũng đang thực hiện chính sách đối ngoại

mở rộng nhằm nâng cao uy tín của Ai Cập trong khu vực và trên thế giới.
Năm 2008, lạm phát ở Ai Cập đang ở mức cao kỷ lục. Theo Cơ quan Thống
kê quốc gia (CAPMAS) của Ai Cập, lạm phát ở nước này đã tăng lên mức cao
kỷ lục 23,1% trong tháng 7/2008, do giá lương thực tăng mạnh. Việc chỉ số
giá tiêu dùng trong nước tăng mạnh chủ yếu là do giá lương thực tăng 32,5%
so với cùng kỳ năm ngoái. Con số lạm phát chính thức được công bố hai tháng
một lần, với lạm phát trong tháng 5/08 ở mức 21,1% và tháng 3/08 ở mức
15,8%. Lạm phát của Ai Cập dường như đã được kiểm soát cho tới đầu năm
nay, nhưng bắt đầu tăng mạnh trong tháng 3/08 do giá lương thực tăng mạnh
trên thị trường thế giới, đặc biệt là lúa mì - mặt hàng mà Ai Cập là nước nhập
khẩu chủ yếu. Trong báo cáo về tình hình lạm phát trong tháng 7/08,
CAPMAS đã nêu giá tăng đáng kể nhất là giá bơ (tăng 71,1%), giá các sản
phẩm bơ sữa (tăng 38,5%), gia cầm (tăng 39,1%) và mì ống (tăng 32,8%). Để
kìm chế lạm phát, Ngân hàng Trung ương Ai Cập tăng lãi suất tiền gửi thêm
0,5% lên 11% và lãi suất cho vay lên 13%. Tuy nhiên biện pháp này cũng có
thể gây ảnh hưởng tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế của Ai Cập - dự báo sẽ tăng
trưởng 7% trong năm 2008.
13

1.2 Các ngành kinh tế trọng điểm
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Ai Cập đã giảm từ 20% vào cuối thập kỷ
80 xuống 13,8% vào năm 2007. Các chương trình nông nghiệp của Chính phủ
như đẩy mạnh khai hoang, phát triển tưới tiêu đã làm tăng sản lượng nông
nghiệp với tốc độ bình quân 4%/năm trong những năm gần đây.
Công nghiệp Ai Cập tăng trưởng bình quân 4,9%/năm trong thập kỷ 90, chiếm
tỷ trọng 41,1% GDP năm 2007. Công nghiệp khai khoáng của Ai Cập rất phát
triển. Khai thác và xuất khẩu dầu mỏ giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế Ai
Cập suốt hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, do trữ lượng ngày càng sụt giảm, Ai
Cập đã bắt đầu giảm dần nhịp độ khai thác dầu.
Ngành dệt may của Ai Cập cũng khá phát triển và là lĩnh vực công nghiệp sử

dụng nhiều nhân công nhất. Ngoài ra, Ai Cập còn phát triển các ngành cơ khí,
luyện thép, xi măng, hóa chất, dược phẩm, lắp ráp xe hơi
Lĩnh vực dịch vụ của Ai Cập đóng góp 45,1% GDP của Ai Cập trong năm
2007. Đây là một tỷ lệ khá cao so với các nước đang phát triển khác. Các
ngành dịch vụ quan trọng là du lịch, ngân hàng, khai thác kênh đào Suez Du
lịch là nguồn thu ngoại tệ lớn nhất đất nước. Nguồn thu từ kênh đào Suez ổn
định trong những năm qua (khoảng 1,8 tỷ USD/năm) và dự kiến sẽ không tăng
do nhu cầu sử dụng đã bão hòa.
2. Thương mại
Ai Cập có nền ngoại thương lớn nhất khu vực Bắc Phi. Ngoại thương Ai Cập
phát triển mạnh trong thập kỷ 90, nhưng nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu
làm cho tình trạng thâm hụt thương mại ngày càng trầm trọng. Cuối những
năm 90, thâm hụt thương mại đã vượt ngưỡng 10 tỷ USD. Tuy nhiên, những
năm gần đây, tình trạng thâm hụt này có dấu hiệu được cải thiện.
Trong cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Ai Cập, nhóm hàng quan trọng nhất là
các sản phẩm chế biến, chế tạo. Các sản phẩm hóa dầu và dầu thô luôn là
những mặt hàng xuất khẩu chính của Ai Cập. Bông cũng là một thế mạnh xuất
khẩu của Ai Cập nhờ chất lượng cao. Ngoài ra, Ai Cập đang cố gắng đẩy
mạnh xuất khẩu hàng dệt may, giày dép, các sản phẩm chế tạo Một số mặt
hàng mà Ai Cập phải nhập khẩu với khối lượng lớn là các loại máy móc thiết
bị, các sản phẩm sắt thép, lúa mì, ngô, đồ nhựa, đồ gỗ
Về cơ cấu bạn hàng, EU là đối tác lớn nhất, Mỹ là bạn hàng lớn thứ hai. Hiện
nay, buôn bán với Châu Á chiếm khoảng 14-16% ngoại thương của Ai Cập.
Tình hình xuất nhập khẩu của Ai Cập giai đoạn 2001-2005
14


(Nguồn: Cơ quan Xúc tiến Đầu tư nước ngoài của Ai Cập - GAFI)

Tình hình xuất nhập khẩu của Ai Cập năm 2007 như sau:

 Kim ngạch xuất khẩu: 24,45 tỷ USD
 Các mặt hàng xuất khẩu chính: dầu thô và các sản phẩm dầu, hàng dệt, bông,
kim loại, hoá chất.
 Đối tác xuất khẩu: Mỹ (11,7%), Ý (9,7 %), Tây Ban Nha (7,8 %), Syria
(5,7%), Ả Rập (5%), Anh (4,3%)
 Kim ngạch nhập khẩu: 44,95 tỷ USD
 Các mặt hàng nhập khẩu chính: máy móc thiết bị, hoá chất, thực phẩm, sản
phẩm gỗ
 Đối tác nhập khẩu: Mỹ (11,7 %); Trung Quốc ( 9,7%); Ý (6,5 %) Đức (
6,4%), Ả Rập (4,8%).
3. Đầu tư
Thu hút đầu tư nước ngoài luôn được Chính phủ Ai Cập quan tâm. Luật Đầu
tư năm 1997 có nhiều ưu đãi như: cho phép chủ đầu tư nước ngoài sở hữu
100% vốn; bảo đảm quyền chuyển thu nhập và vốn về nước; bảo đảm vốn đầu
tư không bị sung công, tịch thu và quốc hữu hóa; bảo đảm quyền sở hữu đất
(lên đến 4000 m
2
), quyền mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng, quyền được đối
xử bình đẳng
Luật đầu tư ban hành các chính sách khuyến khích khác nhau đối với cá dự án
đầu tư trong nước và đầu tư vào các khu kinh tế tự do. Các cơ hội đầu tư tại Ai
Cập rất rộng, từ ngành công nghiệp gas, dầu mỏ, du lịch, công nghệ truyền
thông, bất động sản, giao thông vận tải đến các ngành công nghiệp định
hướng xuất khẩu.
Trong các năm 1997-2000, vốn FDI vào Ai Cập đạt trên 1 tỷ USD/năm. Do
những khó khăn kinh tế trong nước cũng như tình hình khu vực và thế giới bất
lợi, vốn FDI năm 2001 chỉ còn 509 triệu USD. Mỹ là nước đầu tư lớn nhất,
15

tiếp theo là Anh, Đức, Pháp, Nhật Bản. Đầu tư ra nước ngoài tập trung vào các

lĩnh vực năng lượng, công nghiệp chế tạo, ngân hàng

Trong những năm gần đây, Ai Cập đã có những bước tiến ấn tượng trong việc
cải cách các chính sách thu hút đầu tư, tuy nhiên vẫn còn nhiều rào cản đáng
kể đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Chương trình cải cách đầu tư đầy tham vọng của Ai Cập bắt đầu kể từ năm
2004. Trong năm 2004, 2/3 vốn FDI được tập trung trong ngành công nghiệp
dầu mỏ và khí gas. Tuy nhiên, đến năm 2006, 2/3 trong tổng luồng vốn này đã
chuyển sang khu vực sản xuất và dịch vụ, chỉ còn 1/3 cho ngành công nghiệp
dầu mỏ.
Các rào cản đối với đầu tư nước ngoài vào Ai Cập đã được nới lỏng. Các thủ
tục hải quan được cải tiến, một cơ quan chuyên trách quản lý và xúc tiến đầu
tư nước ngoài vào Ai Cập đã được thành lập vào năm 2004. Hệ thống thuế
cũng được cải tiện, trong đó thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ mức 32%-
40% xuống còn 20%, hơn 3000 mặt hàng nhập khẩu được giảm thuế.
Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất được tự do hóa hoàn toàn, ngoại trừ
các ngành liên quan đến quốc phòng. Tỷ lệ tham gia của vốn đầu tư của nước
ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và dịch vụ viễn thông do tư nhân sở hữu
được cho phép tới 100%. Việc đăng ký tài sản sở hữu cũng nhanh hơn theo mô
hình "một cửa" và với chi phí thấp hơn. Thời gian đăng ký trung bình đã giảm
từ 193 ngày xuống chỉ còn 1 tuần.
Tuy nhiên đầu tư nước ngoài vẫn bị hạn chế trong nhiều lĩnh vực như xây
dựng, điện và giao thông vận tải. Trong lĩnh vực xây dựng, nhà đầu tư nước
ngoài phải thành lập công ty liên doanh trong đó phía đối tác nước ngoài chỉ
được giới hạn vốn góp không quá 49%.
Một số ngành cũng hạn chế số lượng lao động người nước ngoài được phép
tuyển dịch. Chẳng hạn, các doanh nghiệp nước ngoài có thể thành lập văn
phòng tư vấn pháp luật ở Ai Cập để phục vụ các khách hàng nước ngoài, tuy
nhiên người của văn phòng này không được đại diện cho khách hàng của họ
tại tòa án ở Ai Cập.

Theo bản báo cáo chính sách đầu tư năm 2007 của Ai Cập, luồng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Cập trong giai đoạn 2001-2006 đã tăng gấp 12 lần.
Trong 9 tháng đầu năm 2007, đầu tư nước ngoài vào Ai Cập đạt 9 tỷ USD, từ
mức 0,5 tỷ trong năm 2001, 0,7 tỷ USD vào năm 2002, tăng hơn cả mức 6,1 tỷ
USD của cả năm 2006. Ước tính trong năm 2007, đầu tư trực tiếp nước ngoài
16

vào Ai Cập đạt trên 10 tỷ USD. Tính đến năm 2007, tổng vốn đầu tư nước
ngoài hiện có tại Ai Cập là 48,46 tỷ USD.

Tình hình đầu tư nước ngoài vào Ai Cập giai đoạn 2000-2006 và Quý I
năm 2007


(Nguồn: Cơ quan Xúc tiến Đầu tư nước ngoài của Ai Cập - GAFI)
Trong số các nhà đầu tư EU, Anh là đối tác đầu tư lớn nhất ở Ai Cập. Trong
năm 2006-2007, Anh vẫn tiếp tục đầu tư mạnh vào Ai Cập. Một số công ty lớn
ở Anh đã có mặt tại Ai Cập bao gồm British Gas, British Petroleum (BP)
Dự kiến đầu tư nước ngoài vào Ai Cập sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới khi
các doanh nghiệp nhà nước ở Ai Cập dần được tư nhân hóa, chủ yếu trong các
lĩnh vực như bảo hiểm, giao nhận hàng hóa bằng container và bốc dỡ hàng
hóa.
Năm 2001, Ai Cập đầu tư ra nước ngoài 27,3 triệu USD, tập trung ở một số
nước láng giềng như Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE), Kenya
Tính đến cuối năm 2007, tổng vốn đầu tư của Ai Cập ra nước ngoài hiện là
1,295 tỷ USD
4. Cơ sở hạ tầng kinh tế
(Số liệu năm 2007) (Nguồn: CIA Factbook - www.cia.gov)
Truyền thông - thông tin
 Số thuê bao điện thoại: 11.229 triệu

 Số thuê bao Internet: 8,62 triệu
 Số thuê bao di động: 30.065 triệu
Giao thông - Vận tải
 Đường sắt: 5,063 km
17

 Đường thuỷ:3,500 km
 Đường cao tốc: 64,000 km
 Đường ống: dẫn gas: 6,115 km ; dẫn dầu: 5,032 km
 Cảng hàng không: 87
 Bến cảng, kho bãi: Alexandria, Al Ghardaqah, Aswan, Asyut, Bur Safajah,
Damietta, Marsa Matruh, Port Said, Suez.
5. Một số chỉ số kinh tế thương mại và đầu tư cơ bản
(Số liệu năm 2007)
 GDP thực tế: 127,9 tỷ USD
 GDP bình quân đầu người: 1.600 USD
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế: 7,1%
 GDP đóng góp theo ngành: nông nghiệp: 13,8%, công nghiệp: 38,1%, dịch
vụ: 48%
 Tỷ lệ lạm phát: 9,5%
 Tỷ lệ thất nghiệp: 9,1%
 Lực lượng lao động: 22,1 triệu người
 Thu chi ngân sách: Thu 35,05 tỷ USD, Chi 44,83 tỷ USD
 Các sản phẩm nông nghiệp chủ đạo: bông, gạo, ngô, lúa mỳ, đậu, rau quả,
gia súc
 Các sản phẩm công nghiệp chủ đạo: thực phẩm, hàng dệt may, hoá chất,
dược phẩm, vật liệu xây dựng, sản phẩm công nghiệp nhẹ
 Tốc độ phát triển sản xuất công nghiệp: 7,5%
 Nợ công: 105.8% of GDP
 Nợ nước ngoài: 29,2 tỷ USD

 Dự trữ ngoại hối và vàng: 31,37 tỷ USD
 Tổng số vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Ai Cập hiện thời: 48,46 tỷ
USD
 Tổng số vốn đầu tư trực tiếp từ Ai Cập ra nước ngoài hiện thời: 1,295 tỷ
USD.
6.Quan hệ quốc tế
Những năm qua, Chính phủ Ai Cập đã có nhiều nỗ lực hợp tác với các nước
và khu vực trên thế giới.
Tháng 6/2001, Ai Cập đã ký Hiệp định hợp tác song phương với EU, trong
khuôn khổ chương trình hợp tác EU - Địa Trung Hải (MEDA). Tháng 6/004,
Thỏa thuận hợp tác EU-Ai Cập bắt đầu có hiệu lực. Thỏa thuận bao gồm
những điều khoản tạo thuận lợi cho thương mại tự do giữa EU và Ai Cập.
Thỏa thuận cũng bao gồm hợp tác trên nhiều lĩnh vực như đối thoại chính trị
18

định kỳ đều đặn về những vấn đề liên quan đến quyền con người, các quy định
của luật dân chủ. EU đã hoàn tất đàm phán với Ai Cập về Kế hoạch Hành
động về Chính sách Láng giềng EU, đây là bước tiếp theo trong việc phát triển
quan hệ giữa EU với Ai Cập.
Ai Cập luôn chủ trương đẩy mạnh quan hệ trên mọi lĩnh vực với Mỹ. Ai Cập
đã tranh thủ được từ Mỹ nguồn viện trợ, vốn vay và đầu tư quan trọng. Mỹ
hiện là đối tác thương mại hàng đầu của Ai Cập, với thị phần xuất nhập khẩu
chiếm trên 11% trong năm 2007.
Ai Cập có quan hệ gần gũi với các nước Ả rập, và có tiếng nói quan trọng
trong cộng đồng các quốc gia Ả rập. Tháng 1/1998, Ai Cập cùng các nước
thành viên của Liên đoàn Ả rập nhất trí giảm dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn
thuế quan trong buôn bán giữa các nước thành viên trong giai đoạn 10 năm.
Với Châu Phi, quan hệ kinh tế thương mại chủ yếu tập trung vào Khối thị
trường chung Đông Nam Phi (COMESA) mà Ai Cập chính thức gia nhập từ
tháng 6/1998. Ai Cập đã giảm thuế suất với các thành viên COMESA tới 90%

vào năm 1999 và cam kết loại bỏ thuế suất hoàn toàn với các nước này năm
2004.
Quan hệ kinh tế thương mại của Ai Cập với các nước Châu Á trong những
năm gần đây (2003-2008) khá phát triển. Đặc biệt, nếu sản phẩm Ai Cập vẫn
chưa có nhiều ở các nước Châu Á thì sản phẩm Châu Á đang thâm nhập thị
trường nước này ngày càng mạnh. Các bạn hàng Châu Á lớn nhất của Ai Cập
là Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Hiện nay Ai Cập là thành viên của các tổ chức quốc tế và khu vực sau:
ABEDA, ACCT, AfDB, AFESD, AMF, AU, BSEC (quan sát viên), CAEU,
COMESA, EBRD, FAO, G-15, G-24, G-77, IAEA, IBRD, ICAO, ICC, ICCt
(thành viên ký kết), ICRM, IDA, IDB, IFAD, IFC, IFRCS, IHO, ILO, IMF,
IMO, IMSO, Interpol, IOC, IOM, IPU, ISO, ITSO, ITU, LAS, MIGA,
MINURCAT, MINURSO, MONUC, NAM, OAPEC, OAS (quan sát viên),
OIC, OIF, OSCE (đối tác), PCA, UN, UNAMID, UNCTAD, UNESCO,
UNHCR, UNIDO, UNMIL, UNMIS, UNOMIG, UNRWA, UNWTO, UPU,
WCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WTO.



×