Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Hệ thống luật Dân sự và nguồn của luật Dân sự.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.91 KB, 26 trang )

Lời mở đầu
Để quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng nâng cao tính thực thi của
các văn bản pháp luật, tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nớc
ta chủ trơng xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh với đầy đủ
các ngành luật phản ánh tốt hơn đờng lối của Đảng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay. Với mục tiêu, động ực chính của sự phát
triển là vì con ngời, do con ngời, đặt con ngời vào vị trí trung tâm, giải phóng
sức sản xuất, khơi dậy mọitiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và
của cả cộng đồng dân tộc; động viên và tạo mọi điều kiện cho mọi ngời Việt
Nam phát huy ý chí tự lực, tự cờng, cần kiệm xây dựng tổ quốc, ra sức làm giàu
cho mình và cho đất nớc. Trong đó, mọi ngời đợc tự do kinh doanh theo pháp
luật, đợc bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Hệ thống pháp luật của Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm
nhiều ngành luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Trong đó,
mỗi ngành luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Những nhóm
quan hệ xã hội do một ngành luật điều chỉnh đợc gọi là đối tợng điều chỉnh của
ngành luật đó. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội, Nhà nớc sử dụng các biện
pháp tác động khác nhau hớng cho các quan hệ xã hội đó phát sinh, thay đổi
chấm dứt phù hợp với ý chí của Nhà nớc. Phơng pháp tác động của Nhà nớc lên
các quan hệ xã hội có những đặc thù khác nhau phụ thuộc vào các quan hệ xã
hội cần điều chỉnh bằng pháp luật. Luật dân sự là một ngành luật đợc hình
thành từ rất sớm trong lịch sử phát triển của Nhà nớc và pháp luật. Các nhà nớc
luôn luôn chú trọng hoàn thiện luật dân sự vì tính phổ biến và vai trò quan trọng
của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Với t cách là một ngành luật
độc lập trong hệ thống pháp luật của Nhà nớc ta, luật dân sự có đối tợng điều
chỉnh là những nhóm quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Tạo cơ sở và hành
lang pháp lý nhằm tiếp tục giải phóng mọi năng lực sản xuất, bảo đảm dân chủ
và công bằng xã hội. Bộ luật dân sự quy định các chuẩn mực pháp lý cho cách
1
ứng xử của các chủ thể trong giao lu dân sự nhằm bảo đảm sự ổn định, lành
mạnh các quan hệ dân sự trong điều kiện phát triển phát triển kinh tế hàng hóa.


Với t cách là một đạo luật lớn nhất, kết luận của Bộ Chính trị khẳng định:
Việc ban hành Bộ luật Dân sự là một bớc đổi mới chính trị quan trọng. Sau Hiến
pháp, Bộ luật Dân sự là đạo luật có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật
của nớc ta, có liên quan mật thiết đến mọi mặt của đời sống thờng ngày của
của ngời dân thì giá trị pháp lý cần đợc xác định nh thế nào. Theo thông lệ và
tập quán quốc tế thì Bộ luật Dân sự phải đợc u tiên áp dụng để giải quyết tranh
chấp, dù trong hệ thống pháp thực định còn có những quy định tơng tự nhng
hiệu lực pháp lý thấp hơn. Đây cũng là yêu cầu quan trọng của pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
2
Chơng I: Hệ thống luật Dân sự và nguồn của luật Dân sự.
A.Hệ thống của luật Dân sự.
Luật Dân sự là hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh các quan
hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Các quy phạm pháp luật này hợp thành những
nhóm quan hệ tơng đối đồng nhất đó đợc gọi là chế định trong luật dân sự.
Những chế định lớn( quyền sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng, thừa kế ) đ ợc phân
chia thành các chế định nhỏ hơn. Các chế định đều phải tuân theo các quy định
ở phần chung và mỗi chế định của phần riêng có những quy định chung xuyên
suốt phần riêng đó.
Căn cứ vào cách sắp xếp truyền thống và đợc thể hiện trong Bộ luật Dân sự,
khoa học luật dân sự sắp xếp luật dân sự thành hai phần lớn: Phần chung và
phần riêng.
Phần chung: Bao gồm những quy phạm chung nhất xuyên suốt toàn bộ hệ
thống pháp luật dân sự, quy định những nguyên tắc, nhiệm vụ của luật dân sự,
chủ thể, địa vị pháp lý của chủ thể, các căn cứ xác lập, thay đổi , chấm dứt
quyền dân sự, thời hạn, thời hiệu.
Phần riêng: Dựa theo các nhóm quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh, căn cứ vào
khách thể của quan hệ dân sự- luật dân sự đợc chia thành các chế định lớn tơng
ứng. Trong các chế định lớn này có phần chung và chỉ áp dụng cho riêng phần
đó. Hiện nay, luật dân sự Việt Nam hình thành các chế định lớn sau đây:

+ Chế định quyền sở hữu: Đây là chế định trung tâm, quan trọng nhất không
chỉ riêng cho luật dân sự mà cho cả hệ thống pháp luật nói chung. Trong đó,
quy định các hình thức sở hữu; đối tợng của quyền sở hữu; các căn cứ phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu; nội dung quyền sở hữu và các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu, đồng thời cũng quy định những hạn chế đối với chủ sở hữu
trong việc thực hiện các quyền năng quyền sở hữu.
+Chế định nghĩa vụ và hợp đồng: Đây là chế định lớn nhất trong luật dân sự-
là chế định dẫn xuất của chế định quyền sở hữu gồm các quy định liên quan đến
3
nghĩa vụ và các căn cứ phát sinh nghĩa vụ quân sự- chế định lớn này đợc chia
thành các chế định nhỏ: Những quy định chung về nghĩa vụ dân sự, căn cứ phát
sinh nghĩa vụ nghĩa vụ dân sự, thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự và các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; Hợp đồng dân sự thông
dụng( mua bán, thuê tài sản ); Chế định thực hiện công việc không có uỷ
quyền; Chế định đợc lợi về tài sản không có căn cứ hợp pháp; Chế định trách
nhiệm dân sự do gây thiệt hại quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm do gây
thiệt hại và một số trờng hợp riêng biệt của trách nhiệm do gây thiệt hại.
+Chế định quyền thừa kế: Bao gồm các quy định về trình tự dịch chuyển di
sản của ngời chết cho những ngời còn sống, việc dịch chuyển di sản theo di
chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
+Chế định chuyển quyền sử dụng đất: Quy định trình tự, điều kiện dịch
chuyển quyền sử dụng đất.
+Chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ: Quy định về việc
xác lập quyền của mỗi cá nhân đối với kết quả sáng tạo tinh thần nh: tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, các đối tợng của sở hữu công nghiệp và
việc chuyển giao các đối tợng đó.
B.Nguồn của luật dân sự .
Nguồn của pháp luật nói chung đã đợc nghiên cứu kỹ, chi tiết trong chơng
trình lý luận chung về Nhà nớc và pháp luật. Về mặt xã hội học, nguồn của
pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị đa lên thành luật mà nội dung đợc xác

định bởi các điều kiện chính trị, kinh tế tồn tại trong xã hội cần thiết phải điều
chỉnh bằng pháp luật và với phơng thức nào là do giai cấp thống trị, thông qua
hoạt động lập pháp của Nhà nớc quyết định.
Mỗi ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định các cách thức xử
sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị. Trong điều kiện của chúng ta hiện nay-Đảng là lực lợng lãnh đạo
Nhà nớc và xã hội
(1)
là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân
(1)
Điều 4 Hiến Pháp 1992.
4
lao động, của dân tộc thì pháp luật là sự thể chế hoá đờng lối của Đảng trong
từng giai đoạn cách mạng. Đờng lối, chủ trơng của Đảng đợc các cơ quan nhà
nớc có thẩm quyền thể chế hóa bằng quá trình lập pháp. Bởi vậy, chấn
chỉnh bộ máy theo hớng tinh, gọn, có đủ năng lực thể chế hoá của Đảng thành
pháp luật là nhiệm vụ cấp bách của quá trình lập pháp của nớc ta để đảm bảo
quản lý nhà nớc bằng pháp luật mà không chỉ bằng đạo lý. Nguồn của luật dân
sự hiểu theo nghĩa hẹp là những văn bản pháp luật( hình thức của pháp luật) do
cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản
và quan hệ và các quan hệ nhân thân. Một văn bản đợc coi là nguồn của luật
dân sự phải đáp ứng đợc những yêu cầu sau: Văn bản do cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền ban hành; Chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự; Phải ban
hành theo trình tự, thủ tục do luật quy định.
*áp dụng luật dân sự.
Luật dân sự là hệ thống các quy phạm. Các quy phạm này là những hình mẫu
để các chủ thể khi hành xử phải tuân theo. Đó là các chuẩn mực ứng xử của
chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự. Nhng việc thực thi pháp luật; việc tuân
theo các chuẩn mực ứng xử đó khi tham gia vào các quan hệ dân sự phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau: Vào bản thân nội dung các quy phạm pháp luật đó.

Nó thực sự phù hợp và phản ánh đúng các điều kiện kinh tế trong xã hội đó hay
không; Vào ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia, vào các ý thức pháp luật
của xã hội nói chung; Vào việc áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền. Tự bản thân các quy phạm không thể sống nếu không đợc áp dụng
trong thực tế cuộc sống. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật dân sự trong cuộc sống
là hết sức quan trọng để biến các quy phạm pháp luật trở thành công cụ thực sự,
tích cực điều chỉnh các quan hệ xã hội. áp dụng luật dân sự là những hoạt động
cụ thể của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền căn cứ vào những sự kiện thực tế đó
để đa ra quyết định phù hợp với thực tế và những quy phạm của pháp luật.
Những quyết định đợc cơ quan có thẩm quyền đa ra có thể là: Công nhận hay
bác bỏ một quyền dân sự nào đó đối với một chủ thể( quyền sở hữu, quyền thừa
5
kế, quyền đòi nợ ); Xác lập một nghĩa vụ cho một chủ thể nhất định ( bồi th -
ờng thiệt hại, trả nợ, giao vật, trả tiền, chấm dứt hành vi vi phạm ); áp dụng
các biên pháp cỡng chế cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể khác,
của Nhà nớc(tịch thu tài sản, phạt vi phạm, quyết định bán đấu giá ).
6
Chơng II: Nhìn nhận về Bộ luật dân sự trên thực tế.
I.Một số vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.
1.Thực trạng tổ chức và thi hành án dân sự.
Về hệ thống pháp luật, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật về thi hành án nói chung, hệ thống các văn bản pháp luật về thi hành án dân
sự đã đợc xây dựng tơng đối hoàn chỉnh, tạo cơ sở vững chắc cho việc quản lý
cũng nh tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự( điển hình là Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 1993, hệ thống các Nghị định và văn bản hớng dẫn thi
hành)
Về cơ chế quản lý, đã xây dựng đợc một cơ chế quản lý thống nhất đối với các
công tác thi hành án dân sự, tạo điều kiện tơng đối thuận lợi cho việc tổ chức và
hoạt động cũng nh quan hệ với cơ quan hữu quan, giúp cho việc tập trung đến
mức tối đa đầu t cơ sở vật chất phơng tiện làm việc và cả con ngời cho hoạt

động thi hành án dân sự. Cơ chế quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh
thổ, có sự phân cấp quản lý rõ ràng cùng cơ chế phối hợp quản lý đã hình thành
một cơ chế quản lý chung tơng đối hiệu quả và phù hợp, giúp cho hoạt động thi
hành án dân sự đợc triển khai đồng bộ, thống nhất trong cả nớc, đồng thời, góp
phần tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng địa phơng. Việc giao cho Bộ
t pháp giúp Chính phủ quản lý thống nhất về mặt tổ chức và nghiệp vụ thi hành
án đã giúp cho việc quản lý đội ngũ chấp hành viên và cán bộ thi hành án đợc
chặt chẽ hơn từ khâu tuyển dụng cán bộ đến việc theo dõi quá trình công tác, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức chấp hành viên, tạo ra một quy chế thống
nhất, khách quan.
Về cơ cấu tổ chức cơ quan thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân sự
đợc thành lập từ Trung ơng đến địa phơng. ở Bộ t pháp có Cục quản lý thi hành
án dân sự. ở cấp tỉnh có Phòng thi hành án dân sự thuộc Sở T pháp bao gồm
chấp hành viên trởng( trởng phòng), các chấp hành viên cấp phòng, các cán bộ
làm công tác thi hành án. ở cấp huyện có Đội thi hành án thuộc Phòng T Pháp
7
cũng bao gồm chấp hành viên trởng ( đội trởng), các chấp hành viên cấp Đội và
các cán bộ làm công tác thi hành án. Cơ quan thi hành án trong quân đội là các
Phòng thi hành án các quân khu và các cấp tơng đơng. Việc tổ chức các cơ quan
thi hành án theo đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc quản lý nhà nớc đối với công tác thi hành án, đồng thời cũng luôn
gắn với sự chỉ đạo kịp thời của cấp uỷ đảng chính quyền địa phơng, sự phối hợp
của các cơ quan cùng cấp trong việc tổ chức thi hành án. Kết quả hoạt động thi
hành án dân sự trong 10 năm qua đã chứng minh tính u điểm của cơ chế tổ chức
và quản lý hoạt động vào việc khôi phục và bảo vệ quyền lợi của Nhà nớc, các
cơ quan, tổ chức và công dân, tăng cờng pháp chế xã hôi chủ nghĩa. Tuy nhiên
cũng phải nhìn nhận rằng: công tác thi hành án dân sự hiện nay cha đáp ứng đợc
quá trình phát triển kinh tế- xã hội đất nớc khi các quan hệ xã hội phát sinh
trong điều kiện kinh tế thị trờng ngày càng mở rộng, phong phú và đa dạng.
2.Những hạn chế trong công tác thi hành án dân sự hiện nay.

Thứ nhất, các quy định pháp luật thi hành án dân sự: Pháp lệnh Thi hành án
dân sự đợc ban hành từ năm 1993 đến nay đã bộc lộ khá nhiều điểm hạn chế
cần bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện, điển hình là về phạm vi áp dụng, các quy
định về thủ tục thi hành án, nh chủ động thi hành theo đơn yêu cầu thi hành án,
quy định về trả lại đơn yêu cầu, về chế định uỷ thác trong thi hành án; về các
biện pháp cỡng chế trong thi hành án; các biện pháp kê biên, xử lý tài sản của
cơ quan, tổ chức, các quyền sở hữu trí tuệ, về xác minh tài sản và thời hạn xác
minh để thi hành án, các quy định về bán đấu giá, các quy định về hoãn , tạm
đình chỉ , đình chỉ, quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, về kháng nghị trong
thi hành án, về thi hành án có yếu tố nớc ngoài Đặc biệt pháp luật thi hành án
hiện hành cha quy định rõ trách nhiệm của cơ quan hữu quan trong việc giúp
đỡ, tạo điều kiện và thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi hành án, các chấp
hành viên; hình thức, chế tài trong trờng hợp họ không thực hiện. Những bất cập
trong các quy định pháp luật về thi hành án và các quy định pháp luật về nội
8
dung có liên quan đến thi hành án đã ảnh hởng không nhỏ đến thi hành án dân
sự.
Thứ hai, về cơ chế quản lý thi hành án dân sự: xét cả về lý luận và thực tiễn,
hoạt động thi hành án dân sự mang nhiều nét đặc thù riêng, mặc dù có những
nét nổi trội của hoạt động hành chính t pháp, song về cơ bản nó bị chi phối
mạnh mẽ của quá trình xét xử và các bớc tố tụng. Không ít các trờng hợp do
bản án quyết định không rõ ràng hoặc sự can thiệp, chi phối, thiếu căn cứ của
các bớc tố tụng nh tạm hoãn, kháng nghị, quyết định của cấp giám đốc lật ngợc
lại bản án, quyết định theo chiều ngợc lại đã làm ảnh hởng đến việc tổ chức thi
hành án. Hơn nữa, việc thi hành án dân sự còn liên quan đến hoạt động của
nhiều ngành nh Công an, Kiểm sát, Địa chính- Nhà đất, Xây dựng, Tài chính-
Vật giá Bởi vậy, nếu không có cơ chế thích hợp sẽ không tạo đ ợc điều kiện
thuận lợi nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.
Cơ chế quản lý thi hành án dân sự hiện nay còn nhiều bất cập. Cục quản lý thi
hành án dân sự thuộc Bộ T pháp có chức năng giúp Bộ trởng Bộ t pháp, giúp

Chính phủ thực hiện việc quản lý thống nhất đối với công tác thi hành án dân sự
trong cả nớc, quản lý, hớng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ công tác thi hành án dân sự;
thực hiện một số nội dung của quản lý Nhà nớc khác; chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết
công tác quản lý công tác thi hành án dân sự ở địa phơng. Tuy nhiên, việc quản
lý Nhà nớc về tổ chức cũng nh nghiệp vụ gặp nhiều vớng mắc và chồng chéo.
Cũng do tổ chức của ngành T pháp không theo nguyên tắc tập trung thống nhất,
nên thực hiện sự quản lý xuống các địa phơng cần phải có sự kết hợp với các
chủ thể quản lý ở địa phơng là Sở T pháp, Phòng T pháp. Các cơ quan này lại
thuộc uỷ ban nhân dân cùng cấp, hởng ngân sách từ địa phơng. Do vậy, cơ chế
phối hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đôi khi thiếu hiệu quả, nhiều đầu
mối, tầng nấc, ảnh hởng không nhỏ đến hoạt động tác nghiệp thi hành án. ở các
địa phơng chủ thể quản lý là cơ quan chuyên môn thuộc chính quyền địa phơng,
song đối tợng quản lý là các phòng, các đội thi hành án lại đợc tổ chức theo
ngành dọc, hởng ngân sách từ Trung ơng cả về tổ chức, biên chế và kinh phí
9
hoạt động. Do vậy, không ít trờng hợp các cơ quan thi hành án qua mặtcơ
quan quản lý. Nhiều nơi, Phòng T pháp chỉ có hai biên chế , ngoài việc phải
thực hiện một số hoạt động của công tác t pháp khác, lại còn phải thực hiện
quản lý nhà nớc của đội thi hành án có tổ chức và biên chế chặt chẽ và chuyên
nghiệp từ 7 đến 10 ngời, gần đây một số Phòng T pháp còn bị sát nhập vào văn
phòng UBND cấp huyện, nên việc thực hiện quản lý Nhà nớc càng khó khăn
hơn. Có thể nói, cơ chế quản lý tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự hiện
nay cha phù hợp và hiệu quả, cha xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan,
dẫn đến chồng chéo, giảm hiệu lực quản lý nhà nớc. Các nội dung quản lý thể
hiện ở mối quan hệ gữa cơ quan quản lý và cơ quan thi hành án còn nhiều điểm
gây khó khăn, vớng mắc cho hoạt động thi hành án, cha đảm bảo tính chủ động,
độc lập, hiệu quả của các cơ quan thi hành án; cha quy định rõ trách nhiệm của
các cơ quan hữu quan các cấp trong phối hợp tổ chức thi hành án. Điều này đã
hạn chế rất lớn đến hiệu lực, hiệu quả của cơ chế thi hành án và hoạt động thi
hành án dân sự.

Thứ ba, về cơ cấu tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự: về cơ cấu tổ chức
các cơ quan thi hành án dân sự theo đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện nh hiện
nay phần nào đã tạo đợc một số thuận lợi trong quản lý nhà nớc, có sự quan tâm
chỉ đạo kịp thời của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phơng đối với cơ quan thi
hành án thuộc địa phơng mình. Tuy nhiên, một số địa phơng đặc biệt là cấp
huyện ở vùng xa, vùng sâu số lợng án phải thi hành hàng năm rất ít, nhng về tổ
chức vẫn phải thành lập Đội thi hành án với đủ biên chế theo quy định. Trong
khi đó, tại các quận huyện, tại các thành phố lớn, số lợng án phải thi hành
nhiều, nhng số không tăng so với quy định dẫn đến tình trạng quá tải, tạo ra sự
mất cân đối giữa các cơ quan thi hành án cùng cấp trong các vùng miền đất nớc
về sự thừa, thiếu cán bộ. Thiết nghĩ, chúng ta cần nghiên cú tới phơng án tổ
chức cơ quan thi hành án theo khu vực, căn cứ theo nhu cầu thực tế công việc và
sự tiện lợi cho nhân dân mà ấn định số lợng biên chế các cán bộ, chứ không
nhất thiết phải tạo ra một khuôn mẫu chung cho tất cả các đơn vị theo địa giới
hành chính.
10

×