Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

LUẬN VĂN: LÃI SUẤT, NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT ĐẾN NỀN KINH TẾ VIÊT NAM. doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 39 trang )









LUẬN VĂN


LÃI SUẤT, NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT
ĐẾN NỀN KINH TẾ VIÊT NAM





























Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 2 -
BIỂU ĐỒ LÃI SUẤT
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1/1/2007
1/4/2007
1/7/2007
1/10/2007
1/1/2008
1/4/2008
1/7/2008

1/10/2008
1/1/2009
1/4/2009
1/7/2009
NGÀY
GIÁ TRỊ (%)
LS cơ bản
LS chiết khấu
LS tái cấp vốn
LỜI NÓI ĐẦU
s
 Lãi suất là một trong những biến số quan trọng trong nền kinh tế
vĩ mô, được theo dõi một cách chặt chẽ bởi các chủ thể trong nền kinh tế từ
các hộ gia đình, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, đến các ngân hàng vì nó
trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của chúng ta và có những hệ
quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế . Nó tác động đến những
quyết định cá nhân như chi tiêu hay để dành ,mua nhà hay mua trái phiếu
hay giửi vốn vào một tài khoản tiết kiệm. Lãi suất cũng tác động đến những
chỉ số của nền kinh tế vĩ mô như CPI , cán cân xuất nhập khẩu, tỷ giá hối
đoái và GDP…
 Cùng với mục tiêu theo đuổi chính sách tự do lãi suất của chính
phủ, lãi suất không còn là 1 công cụ mang tính mệnh lệnh hành chính, cứng
nhắc. Ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ tác
động đến nhóm các mục tiêu trung gian, từ đó cho phép lãi suất biến động
đáp ứng được những thay đổi của tiêu dùng và đầu tư nhằm đạt được các
mục tiêu cuối cùng trong chính sách tiền tệ như ổn định giá cả , tăng trưởng
bền vững.
 Với nhũng lý do trên việc phân tích những tác động của chính
sách tiền tệ đến lãi suất, và những nguyên nhân làm thay đổi lãi suất trong
từng thời kỳ của nền kinh tế là hết sức quan trọng. đồng thời nắm được

những tác động của lãi suất đến các chủ thể kinh tế, đến nền kinh tế vĩ mô
cũng giúp chúng ta lựa chon cho mình những phương án đầu tư hay chi tiêu
tốt nhất.
 Bài luận tập trung phân tích những thay đổi của nền kinh tế
cũng như chính sách tiền tệ đã ảnh hưởng thế nào đến lãi suất. Đồng thời
đánh giá những ảnh hưởng của lãi suất đến các chủ thể của nền kinh tế
cùng với những chỉ số của nền kinh tế vĩ mô. Lấy bối cảnh nền kinh tế từ
những tháng cuối năm 2007 đến nửa đầu của năm 2009, thời kỳ lãi suất
biến động mạnh, tăng và giảm nhanh
chóng trong 1 thời gian ngắn do sự
biến động của nền kinh tế cũng như
chính sách tiền tệ của NHTW hứa
hẹn sẽ là một đề tài rất hấp dẫn và sẽ
minh họa một cách sinh động chủ đề
của bài luận. Bài luận không chỉ giúp
người đọc có một cái nhìn tổng quát
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 3 -
về nền kinh tế việt nam trong một giai đoạn đầy biến động mà còn hệ thống
một cách chân thực những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất cũng như những
ảnh hưởng của lãi suất đến nền kinh tế.
 Lãi suất là 1 biến số kinh tế phức tạp không những về kỹ thuật
tính toán, mà đặc biệt là về vấn đề xác định các nhân tố ảnh hưởng, dự báo
và hoạch định. Vì vậy trong bài luận không thể tránh khỏi những nhận định
mang tính chủ quan, rất mong được sự hướng dẫn và chỉ dạy của thầy. Một
lần nữa nhóm làm tiểu luận xin chân thành cảm ơn thầy đã cung cấp cho
nhóm những hiểu biết đầu tiên về bộ môn tài chính để giúp nhóm có thể
hoàn thành bài tiểu luận này.
Trân trọng cảm ơn.



TÓM TẮT BÀI TIỂU LUẬN


Để giúp người đọc dễ hiểu, cũng như nắm bắt được các ý chính.
Nhóm làm tiểu luận xin trình bày bài thành 3 phần chính, bao gồm :

Phần I : Những hiểu biết chung về lãi suất.
Phần II : Nội dung lãi suất.
 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất đồng thời đánh giá
những tác động của lãi suất đến nền kinh tế.
 Kinh tế việt nam giai đoạn 2007-2009
Phần III : Gải pháp và định hướng cơ chế lãi suất tại Việt Nam trong
tương lai.

Sau đây là những ý chính trong từng phần :

 Phần I :





 Phần II :
 Những yếu tố tác động và những ảnh hưởng của lãi suất (trang 13 đến
19)

Những hiểu biết chung nhất về lãi suất: (trang 5 đến trang 8)
 Khái niệm và phân lọai lãi suất. (5-7)
 Nguyên tắc xác định lãi suất . (8)

Cơ chế và chính sách lãi suất trong các giai đoạn ở Việt Nam. (8-12)
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất: (12-16)
 Nhóm yếu tố thuộc lực lượng thị trường. (13-14)
 Nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ. (14-16)
Tác động của lãi suất: (16-19)
 Tác động của lãi suất đến các chủ thể kinh tế. (16-18)
 Tác động của lãi suất đến tổng quan nền kinh tế vĩ mô. (19)
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 4 -
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
GIÁ TRỊ (%)
2004 2005 2006 2007 2008
NĂM
TĂNG TRƯỞNG GDP CÁC NĂM
GDP
Tỷ lệ lạm phát
0
5
10
15
20

25
30
1/1/2008
1/3/2008
1/5/2008
1/7/2008
1/9/2008
1/11/2008
1/1/2009
1/3/2009
1/5/2009
1/7/2009
Tỷ lệ lạm phát





 Như chúng ta đã biết trong năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với 2
cuộc khủng hoảng diễn ra liên tiếp. Đó là lạm phát kỷ lục trong giai đoạn 9
tháng đầu năm 2008, và khi vấn đề lạm phát bắt đầu hạ nhiệt thì Việt Nam
tiếp tục phải hứng chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ vào
tháng 9 năm 2008. Trong cùng một năm Việt Nam đã phải hai lần thay đổi
mục tiêu ưu tiên với những chính sách phù hợp.




























Để người đọc dễ dàng tiếp cận, có thể thấy rõ các yếu tố tác động đến
lãi suất, cũng như thấy được tác động của lãi suất trong từng giai đoạn của
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 5 -
nền kinh tế tương ứng với 2 cuộc khủng hoảng trong năm 2008, trong phần
này nhóm tiểu luận chia ra thành 3 vấn đề chính, bao gồm :




 Trong mỗi giai đoạn nhóm tiểu luận đều phân tích
một cách rõ ràng những nhân tố kinh tế đã gây đến những thay đổi trong
chính sách tiền tệ của NHTW, những ảnh hưởng của chính sách đó tới vấn
đề lãi suất. Rồi phân tích đánh giá những ảnh hưởng của lãi suất đến :

 Các cá nhân nhà đầu tư.
 Các doanh nghiệp.
 Các ngân hàng.
 Thị trường tài chính.
 Các chỉ số của nền kinh tế vĩ mô.

 Và ở cuối mỗi giai đoạn nhóm sẽ tổng kết các vấn đề
về lãi suất để giúp người đọc có cái nhìn về cơ cấu tác động cũng như ảnh
hưởng của lãi suất trên phương diện lý thuyết.

 Phần III : Phần này nhóm tập trung đánh giá chính sách lãi suất của
NHTW trong giai đoạn biến động trên của nền kinh tế. Đồng thời là những
giải pháp cho vấn đề lãi suất ở Việt Nam. (23-35)

 Phân tích những dấu hiệu cho thấy chính phủ đang theo đuổi cơ
chế tự do hóa lãi suất.
 Những ưu điểm của cơ chế tự do hóa lãi suất.
 Những bất cập trong quá trình tiến tới tự do hóa lãi suất.



PHẦN I : NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ LÃI SUẤT
Những nhân tố gây ra tình trạng lạm phát những tháng đầu năm 2008. (19-21)
Giai đoạn lạm phát cao. (21-26)


Giai đoạn suy thoái kinh tế. (27- 32)

Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 6 -

Lãi suất – một biến số kinh tế vĩ mô phức tạp, phức tạp cả về vấn đề
tính toán, về xác định nhân tố ảnh hưởng cũng như hoạch định. Nhưng biến
số kinh tế này lại có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế của 1 quốc gia,
ảnh hưởng trực tiếp đến các chủ thể trong nền kinh tế đó. Lãi suất – công cụ
của chính sách tiền tệ mỗi quốc gia do NHTW nắm giữ, và sử dụng nhằm
điều chỉnh và can thiệp vào thị trường giúp hạn chế và khắc phục những yếu
kém của nền kinh tế.

A. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI LÃI SUẤT.
I. Khái niệm lãi suất:

Có thể định nghĩa về lãi suất trên 2 phương diện : Thứ nhất trên phương diện
thị trường thì lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn. Thứ hai trên phương
diện nhà nước thì lãi suất là công cụ để nhà nước can thiệp và điều chỉnh thị
trường.
Lãi suất là giá của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn.

Trong nền kinh tế luôn có những chủ thể tạm thời dư thừa vốn, cùng lúc đó
có những người có cơ hội đầu tư sinh lợi, cần vốn song lại thiếu vốn, thị
trường tài chính ra đời làm thông suốt quá trình chuyển vốn từ người thừa
vốn sang người cần vốn, các chủ thể qua quan hệ vay mượn tín dụng hoặc
mua bán các công cụ nợ đều đạt được mục đích của mình; người thừa vốn
thu được tiền lãi, còn người thiếu vốn có đủ vốn để hoạt động đầu tư. Từ thị
trường đó, lãi suất được hình thành như giá cả của một loại hàng hoá đặc
biệt (ở đây là vốn), nó là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho vay

để được quyền sử dụng vốn, nó vận động tuân theo quy luật cung cầu, xác
định trên cơ sở cân bằng giữa nhu cầu về vốn và cung về vốn trên thị trường.
Như vậy, lãi suất chính là tín hiệu thị trường tham gia vào việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý.

Lãi suất – công cụ của chính sách tiền tệ

Ở trên là khái niệm lãi suất theo nguyên tắc thị trường, song lãi suất còn
được hiểu là công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia, nó do
ngân hàng trung ương - cơ quan thay mặt nhà nước thực thi chính sách tài
chính tiền tệ - nắm giữ, và sử dụng nhằm điều chỉnh và can thiệp vào thị
trường giúp hạn chế và khắc phục những yếu kém của nền kinh tế.

II. Phân biệt lãi suất và 1 số khái niệm khác
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 7 -

Lãi suất và tỷ suất lợi tức :
 Như ta đã biết, lãi suất phản ánh mức sinh lời của người đầu tư
(người cho vay). Nhưng có một vấn đề đặt ra, nếu thời gian nắm giữ ngắn
hơn thời hạn của công cụ nợ thì mức sinh lợi của người đầu tư là bao nhiêu.
Từ đó hình thành nên khái niệm tỷ suất lợi tức : Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ %
giữa thu nhập mà người đầu tư nhận được từ một khoản đầu tư so với giá trị
của khoản vốn đầu tư ban đầu.
 Chẳng hạn đối với 1 khoản cho vay thông thường thì thu nhập
của người cho vay chỉ là tiền lãi của khoản cho vay, nhưng nếu đầu tư vào
trái khoán thì thu nhập của nhà đầu tư không chỉ là tiền lãi thu được trong
thời gian lưu giữ trái khoán mà còn cộng với sự thay đổi giá của trái khoán.
 Cho dù có sự khác nhau về bản chất nhưng lãi suất và tỷ suất lợi
tức có sự tương quan. Sự tương quan đó thể hiện qua sự tác động của lãi suất

đối với giá của các công cụ nợ. Một sự tăng lên của lãi suất thị trường sẽ
khiến các nhà đầu tư đòi hỏi lãi suất hòa vốn của trái phiếu tăng lên tương
ứng, nhưng do thù nhập từ trái phiếu cố định nên giá của trái phiếu sẽ phải
giảm xuống. Vậy có thể thấy, sự thay đổi trong giá các công cụ nợ do lãi
suất thị trường thay đổi sẽ làm thay đổi tỷ suất lợi tức của các nhà đầu tư.

Lãi suất – giá cả của hàng hóa đặc biệt (quyền sử dụng vốn)
Khác với giá cả của các hàng hóa thông thường giá cả biểu hiện giá trị của
hàng hóa trên thị trường, lãi suất là giá cả biểu hiện giá trị sử dụng của
khoản vốn cho vay. Rõ ràng khi lợi nhuận dự tính của người vay cao tức là
giá trị sử dụng của vốn vay lớn thì họ sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất
cao và ngược lại.

III. Phân loại lãi suất :

Lãi suất có thể phân thành những loại chính sau:

Căn cứ vào tính chất của khoản vay









Lãi suất chiết khấu : áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới
hình thức chiết khấu giấy tờ có giá trị chưa đến hạn thanh toán của khách hàng (
bằng tỷ lệ % mệnh giá giấy tờ và khấu trừ ngay khi đưa tiền vay cho khách

hàng)

Lãi suất tiền gửi ngân hàng : là lãi suất ngân hàng trả
cho các kho
ản tiền gửi v
ào ngân hàng

Lãi suất tín dụng ngân hàng : là lãi suất người đi vay
tr
ả cho ngân h
àng

Với các NHTM 2 lãi
suất này hình thành
khoản thu nhập và chi
phí chủ yếu của ngân
hàng
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 8 -




























Căn cứ giá trị tiền lãi














Lãi suất liên ngân hàng : là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng cho nhau
vay trên thị trường liên ngân hàng
 Được hình thành qua quân hệ cung – cầu vốn vay trên thị trường liên
ngân hàng
 Chịu sự chi phối bỏi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của
NHTW
 Mức độ chịu sự chi phối phụ thuộc vào :
 Sự phát triển của hoạt động thị trường mở
 Tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW của các ngân hàng trung gian ( rõ
ràng là nếu tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW cao thì các ngân hàng
trung gian sẽ phụ thuộc lớn vào lãi suất mà NHTW cho các ngân hàng
này vay)


Lãi suất tái chiết khấu : là lãi suất NHTW cho các NHTM vay dưới hình
thức tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến kỳ thanh toán mà các
NHTM đã chiêt khấu
 Lãi suất tái chiết khấu do NHTW ấn định, vì hoạt động cung ứng vốn
cho các NHTM nên thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu (cung ứng tiền mặt)
 Nhưng trong các trương hợp cần hạn chế khả năng mở rộng tín dụng
của ngân hàng tức giảm tiền mặt trong lưu thông ( đẩy lùi lạm phát )
NHTW có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu lớn hơn lãi suất chiết khấu
Lãi suất cơ bản : đối với VN lẫi suất cơ bản do NHTW ấn định và từ đó các NHTM
ấn định lãi suất cho ngân hàng mình với biên độ dao động do NHTW ấn định
Lãi suất danh nghĩa : là lãi suất trên hợp đồng và là lãi suất chưa loại trừ gộp lãi và tỷ
lệ lạm phát


Lãi suất thực trả : là con số đã tính đến yếu tố lãi mẹ đẻ lãi con nhưng
chưa tính đến tỷ lệ lạm phát

 Vd : cho vay 100 triệu , lãi suất 10% ( lãi suất danh nghĩa) , hạn 3 năm trả
lãi 6 tháng 1 lần
 Lãi suất thực trả là : %25,101
2
1,0
111
2















n
e
n
i
i

 Số tiền trả thực : 134
2

1,0
11001
32
0















tn
t
n
i
pp

Lãi suất thực:
 Là lãi suất đã tính đến tỷ lệ lạm phát
 Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lam phát
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 9 -



Kết luận :
 Như vậy đối với người cho vay , khi lãi suất thực nhỏ hơn 0 thì
cho vay sẽ bất lợi , họ sẽ tìm phương án đầu tư khác có lãi suất ít nhất bù
được sự mất giá của đồng tiền
 Con đối với người vay khi mà lãi suất thực nhỏ hơn 0 ( lãi suất
tăng nhưng ko bằng sụ tăng của tỷ lệ lạm phát ) họ có thể yên tâm đi vay
để sản xuất


IV. Các nguyên tắc xác định lãi suất:




















B. CƠ CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT QUA CÁC
GIAI ĐOẠN Ở VIỆT NAM

1. Trước tháng 3/1989:
Là thời kì điều hành theo cơ chế lãi suất âm
Tuy từng thời gian ngân hàng nhà nước có điều chỉnh lãi suất, nhưng do
lạm phát phi mã, lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là:
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
Căn cứ cơ chế thị trường :
 Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất tín dụng
 Lãi suất tín dụng nhỏ hơn lợi nhuận bình quân
 Lãi suất phi kinh tế (không kích thích sản xuất, tăng trưởng kinh tế)
 lãi suất tín dụng cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân
 lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân

Theo luật định:
 Đối với lãi suất tiền gửi
 Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn nhỏ hơn lãi suất có kỳ hạn
 Lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế nhỏ hơn lãi suất tiền gửi
các khu vực dân cư
 Với lãi suất tín dụng:
 Lãi suất cho vay ngắn hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay dài hạn
 Lãi suất cho vay với các ngành kinh doanh nhỏ hơn các ngành
d
ịch vụ

Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 10 -
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.


Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực :
- Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho
ngân hàng, ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế
thị trường.
- Không có tác dụng khuyến khích khu vực dân cư gửi tiền tiết kiệm vào hệ
thống ngân hàng, họ tăng nắm giữ vàng bạc và ngoại tệ. Ngân hàng thiếu
vốn, lợi nhuận thấp nên không có khả năng cho vay ra nền kinh tế.

2. Từ tháng 3/1989:
Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi
suất âm qua lãi suất dương.
Để thu hút tiền trong lưu thông và kiềm chế được lạm phát, tránh bao cấp
qua lãi suất, ngân hàng nhà nước đã nâng lãi suất huy động lên một mức rất
cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kì hạn 9%/tháng – tức
là 109%/năm ; Lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng – túc là 144%/năm).

Hạn chế
- Hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và tiền vay:
- Mức thực dương phi thực tế (năm 1991 – lãi suất thực 25,6% ; năm 1992 –
17,9%) đã kích thích nạn đầu cơ tiền tệ, khan hiếm tiền mặt trong lưu thông
và làm tê liệt hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.

3. Từ 1/10/1993:
Ngân hàng nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi
suất thoả thuận.
a) Trần : Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8%/tháng ; Kinh tế ngoài quốc
doanh 2,1%/tháng.
b) Thoả thuận : Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay
theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được

áp dụng lãi suất thoả thuận.

Hạn chế
Thời kì cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đạt được mức
chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao, phổ biến là từ 0,7 –
1%/tháng, cho nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận
cao trong khi các doanh nghiệp và hộ nông dân lại gặp khó khăn về tài
chính. Từ thực trạng này, quốc hội khoá IX, kì họp thứ 8 tháng 10/1995 đã
thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 11 -
thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động
0,35%/tháng.

4. Từ 01/01/1996:
a) Ngân hàng nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo
trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân hàng
thương mại chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng thay cho việc quy định
các mức lãi suất tiền gửi cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho vay thoả thuận.

Ưu điểm:
- Việc quy định chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào
cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ. Thay vì sự quy định từng loại lãi suất cụ
thể như trước đây, ngân hàng nhà nước chỉ khống chế mức chênh lệch giữa
lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân, các tổ chức tín
dụng được tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất huy động cụ thể.

Hạn chế:
- Việc ấn định mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng gây khó khăn cho hoạt
động của ngân hàng và các biện pháp để giám sát sự thực hiện quy định này

là hầu như không có.
- Trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị tạo động lực cho các
ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động song lại bị cản trở trong việc thực
hiện chính sách ưu đãi nông nghiệp, khuyến khích nông nghiệp phát triển.

b) Từ 21/01/1998 đến 08/2000:
Tại kì họp thứ hai, tháng 12/1997 quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức
chênh lệch 0,35%/tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất
cho vay giữa thành thị và nông thôn, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần và
khoảng cách giữa các trần cũng không còn xa nhau như trước.
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25%/tháng.
- Trần lãi suất cho vay quỹ tín dụng cho vay các thành viên 1,5%/tháng.

Việc quản lý lãi suất theo trên có những ưu điểm sau:
- Trong phạm vi trần, các tổ chức tín dụng được tự do hoá ấn định mức lãi
suất cho vay tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh.
- Lãi suất tiền gửi được hoàn toàn tự do.

Nhược điểm
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 12 -
Nó ít linh hoạt, không được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu vốn và điều
kiện khó khăn thuận lợi của từng vùng.

5. Từ 8/2000 đến nay :
Đang thực hiện điều hành chính sách lãi suất bằng công cụ lãi suất cơ
bản.
 Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố làm
cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định làm lãi suất kinh doanh.

 Việc chuyển hướng này có nhiều lí do, song về cơ bản là bởi lãi
suất trần đã trở thành một công cụ chỉ còn tính hình thức, xơ cứng mất hết
tác dụng đối với nền kinh tế. Nền tảng kinh tế vĩ mô trong nước chưa cho
phép thực hiện tự do hoá lãi suất, do vậy thực hiện chính sách lãi suất theo
lãi suất cơ bản là bước chuyển giao từ việc điều hành hành chính sang việc
để thị trường xác định và nhà nước chỉ tác động qua các công cụ kinh tế.

Nội dung chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất mới :
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng
với bước đi thích hợp thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị
trường tiền tệ, xử lý lãi suất đồng Việt Nam trong mối quan hệ với lãi suất
ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối. Cụ thể là:

Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam : Ngân hàng nhà nước bãi
bỏ quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng,
chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ biên độ %.
Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản.
Theo đó lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản
+ tỷ lệ %. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố hàng tháng, trường hợp
cần thiết ngân hàng nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.

Đối với lãi suất cho vay bằng đồng ngoại tệ :
- Cho vay bằng đồng đô la Mỹ : Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của
ngân hàng thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh
hoạt phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn còn sự kiểm soát của nhà
nước.

Như vậy, so với cơ chế trần lãi suất tín dụng, cơ chế lãi suất cơ
bản có một số ưu việt sau:
- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể

thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi có điều chỉnh, có
lợi cho các bên khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn và cho
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 13 -
vay trung và dài hạn.
- Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND – tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh hoạt
hơn, phản ánh được chính xác hơn cung – cầu vốn, ngoại tệ tạo cơ sở cho
ngân hàng nhà nước khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường.

 Đánh giá :
Gần 15 năm đổi mới hoạt động ngân hàng, chính sách lãi suất đối với nền
kinh tế đã có nhiều đổi mới tiến dần đến một chính sách lãi suất theo thị
trường, cụ thể:
- Chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất.
- Thực hiện lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn
hạn theo thông lệ quốc tế và phù hợp với rủi ro do thời hạn.
- Rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ
phù hợp chính sách quản lý ngoại hối và lãi suất trên thị trường quốc tế.
- Từ việc quy định lãi suất cụ thể, ngân hàng nhà nước với việc công bố trần
lãi suất và tiếp tục áp dụng lãi suất cơ bản đã thực hiện ở một mức độ nhất
định sự tự do hoá lãi suất tiền gửi và tiền vay.
Lãi suất không còn mang tính chất là công cụ hành chính mệnh lệnh
cứng nhắc, với việc thông qua các công cụ trực tiếp và gián tiếp của chính
sách tiền tệ, nhà nước tác động đến lãi suất từ đó thực hiện các chính sách
của mình. Cùng với việc ngân hàng nhà nước công bố lãi suất cơ bản, lãi
suất tái cấp vốn để từ đó các tổ chức tài chính tự quyết định mức lãi suất
kinh doanh tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính cạnh tranh, bắt kịp nhu
cầu vay tín dụng và tiền gửi. Từ đó lãi suất bám sát tình hình cung cầu vốn
thị trường, nhà nước vẫn có thể sử dụng lãi suất như một công cụ của chính
sách tiền tệ, đồng thời tránh được sự mất cân đối giữa lãi suất và cung cầu

thị trường.



PHẦN II : NỘI DUNG LÃI SUẤT

A. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
LÃI SUẤT

I. Các nhóm yếu tố tác động
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 14 -

Căn cứ vào cơ chế lãi suất từ tháng 8/2000 đến nay của nhà nước, điều
hành chính sách lãi suất bằng lãi suất cơ bản, lãi suất được hình thành trên
cơ sở cung – cầu thị trường dưới sự điều hành của nhà nước. Ta có thể chia
những nhân tố tác động đến lãi suất thành hai nhóm chính bao gồm : Nhóm
yếu tố thuộc lực lượng thị trường và nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ.

1. Nhóm yếu tố thuộc lực lượng thị trường :
Như đã biết lãi suất cũng là một loại giá cả, lãi suất được xác định do tình
hình cung cầu thị trường, trong bài này xin nêu ảnh hưởng của cung cầu vốn
vay đối với lãi suất.
 Các nhân tố ảnh hưởng cung vốn
Tăng Ảnh hưởng
cung vốn
Lý do
Tài sản và
thu nhập
Tăng Trong giai đoạn đang tăng trưởng kinh tế, tìa sản của các

chủ thể kinh tế tăng lên và từ đó tăng khả năng cung vốn.
Lợi tức dự
tính
Tăng Lợi tức dự tính của các công cụ nợ không chỉ phụ thuộc lãi
suất mà còn phụ thuộc biến động giá thị trường của công
cụ đó , lợi tức dự tính tăng làm tăng cầu về các công cụ đó
do đó làm tăng cung vốn vay.
Tính lỏng Tăng Nếu các công cụ nợ có thể mua bán dễ dàng sẽ tăng nhu
cầu đầu tư vào chúng vì vậy cung vốn sẽ tăng lên.
Rủi ro Giảm Nếu rủi ro tăng lên, làm cho đầu tư vào các công cụ nợ
kém hấp dẫn, kết quả là cung vốn giảm xuống.

 Các nhân tố ảnh hưởng cầu vốn
Tăng ảnh hưởng
tới cầu vốn
Lý do
Khả năng sinh
lợi dự tính
tăng Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế, càng có
nhiều cơ hội đầu tư sẽ làm tăng nhu cầu vay
vốn để đầu tư.
Có vốn cho vay
 Các gia đình
(chủ yếu)
 Các công ty
 Chính phủ
 Nước ngoài
Cần vốn đi vay
 Các công ty
(chủ yếu)

 Chính
phủ(chủ yếu
 Các gia đình



ớc ngo
ài

NHTM
LÃI SUẤT
NHTW
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 15 -
Lạm phát dự
tính
Tăng Như ta đã biết, chi phí thực của việc vay tiền
được đo một cách chính xác hơn bằng lãi
suất thực là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm
phát dự tính. Do đó một lãi suất cho trước,
khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực
hiện việc vay tiền giảm xuống nên cầu tiền
vốn vay tăng lên.
Ngân sách
chính phủ
Tăng Chính phủ đi vay bù vào thâm hụt ngân sách
lớn, làm tăng cầu về vốn vay.

 Phân tích mô hình:



Khi lạm phát dự tính tăng







Khi kinh tế phát triển






Nhưng thường trong thời kỳ kinh tế phát triển thì cầu luôn lớn hơn cung.

2. Nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ:
Thành phần: Duy nhất là NHTƯ. Cơ quan có nhiệm vụ phát hành
tiền, quản lý hành chính hệ thống ngân hàng, vai trò người cho vay cuối
cùng, xâydựng chính sách tiền tệ. Nó tác động đến lãi suất bằng các công cụ
mang tính quyền lực nhà nước hoặc các công cụ mang tính thị trường để từ
đó thực hiện các mục đích cuối cùng của chính sách tiền tệ như:
 Ổn định tiền tệ.
 Tạo việc làm.
 Tăng trưởng kinh tế.

Làm cho lãi suất thực giảm , tăng cầu về
v

ốn

Làm lợi tích dự tính từ việc cho vay so
với các phương án đầu tư khác giảm , làm
cung vốn giảm

i tăng
lên
Khả năng sinh lời
tăng ,dẫn đến cầu
tăng
Tài sản tăng , dẫn
đến cung tăng
Nếu cung tăng ít
hơn cầu thì , I tăng
Nếu cung tăng nhiều
hơn cầu thì , I giảm
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 16 -
Các học thuyết , nghiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất chỉ ra rằng,
NHTƯ có thể trực tiếp (sử dụng các công cụ manh tính mệnh lệnh hành
chính) hoặc gián tiếp tác động (thông qua sử dụng các công cụ thị trường)
lên lãi suất.
Với cơ chế lãi suất ở Việt Nam từ tháng 8/2000 đến nay, sử dụng công
cụ lãi suất cơ bản để điều hành lãi suất, nhà nước chủ yếu tác động một cách
gián tiếp đến lãi suất. Phần này chủ yếu sẽ phân tích ảnh hưởng của các công
cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ ảnh hưởng thế nào đến lãi suất.
Cơ chế tác động gián tiếp: NHTƯ sử dụng công cụ gián tiếp- mang
tính thị trường- của chính sách tiền tệ để tác động đến lãi suất thông qua
hành vi của hệ thống ngân hàng.


Các công cụ đó là:

Dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ.
Các ngân hàng thương mại được yêu cầu phải giữ lại một tỉ lệ phần trăm các
khoản tiền gửi của họ dưới dạng dự trữ hoặc là bằng tiền mặt tại quỹ hoặc là
bằng tiền gửi tại quỹ dự trữ của NHTƯ. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có
tác động mạnh mẽ lên khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng và cho cả
hệ thống tài chính.
Sự thay đổi về khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM ảnh hưởng
lớn đến tình hình cung vốn của thị trường, và từ đó sẽ làm thay đổi lãi suất
trên thị trường.
Khi NHTƯ muốn kiềm chế lạm phát, họ có thể nâng tỉ lệ dự trữ bắt
buộc, hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của cá tổ chức tín dụng và buộc
các ngân hàng thương mại phải nâng lãi suất cho vay. Ngược lại, khi NHTƯ
muốn đẩy mạnh tăng trưởng, họ giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc do đó các tổ chức
tín dụng có thể mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho vay.

Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất NHTƯ cho
các tổ chức tín dụng vay trên cơ sở những chứng từ có giá của ngân hàng
thương mại.Việc ấn định lãi suất tái chiết khấu cao hay thấp có tác động đến
khả năng cho vay của các NHTM và từ đó làm thay đổi lãi suất trên thị
trường.
Việc NHTƯ nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương
mại phải tăng dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời ngân hàng
thương mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp những chi phí cho
những khoản tăng thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trường tăng lên. Ngược
lại, việc giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho phép các ngân hàng
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 17 -

thương mại giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị
trường.

Nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua
bán chứng khoán (thường là chứng khoán nhà nước) trên thị trường tiền tệ
ngắn hạn. NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, mở rộng tín dụng, bằng cách
mua vào các chứng khoán có giá làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới
làm giảm lãi suất.
Ngược lại, khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách bán ra các
chứng khoán có giá làm cho cung tiền tệ giảm xuống dẫn tới tăng lãi suất
trên thị trường tiền tệ.

Hợp đồng mua lại: hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng
khoán, trong đó người bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một
thời điểm trong tương lai với mức giá được xác định trước trong hợp đồng.
Như vậy, thực chất hợp đồng mua bán lại là hợp đồng cho vay có thế chấp,
trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi mua thế chấp (tức cho vay
), NHTƯ bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy làm giảm lãi suất
ngắn hạn.
Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình NHTƯ rút tiền ra khỏi thị
trường tiền tệ và do đó tạo ra sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn.


II. Các tác động của lãi suất

Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ
nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày
trên báo chí vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi
người chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền
kinh tế.

Nó tác động to lớn đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu
thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn,
kích thích hay cản trở đầu tư, tạo lợi nhuận hay khó khăn cho hoạt động
ngân hàng.
Tóm lại, lãi suất là một phạm trù phức tạp có liên quan và tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp tới nhiều yếu tố của nền kinh tế vĩ mô.

Chúng ta sẽ lần lượt xem xét tác động của lãi suất lên các chủ thể
kinh tế, và các chỉ số của nền kinh tế vĩ mô như thế nào.

Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 18 -
1. Lãi Suất với quá trình huy động vốn.
Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ
và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc xây dựng đất
nước. Chính sách lãi suất có tác động trực tiếp tới tình hình cung – cầu vốn
trên thị trường, vì vậy một lãi suất hiệu quả sẽ thúc đẩy vốn từ nơi nhàn rỗi
đến nơi thiếu. Nâng cao hiệu quả và tận dụng đựơc hết giá trị vủa vốn.
Lượng cầu về hãng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, để một dự án đầu tư
có lãi, lợi nhuận thu được phải cao hơn chi phí. Vì lãi suất phản ánh chi phí
vốn để tài trợ cho đầu tư, việc tăng lãi suất làm giảm số lượng dự án đầu tư
có lãi, bởi vậy nhu cầu về hãng đầu tư giảm do đó đầu tư tỷ lệ nghịch với lãi
suất.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc:
 Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi
nhuận bình quân.
 Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền
vay)
Nếu nguyên tắc này bị phá vỡ sẽ dẫn đến những đổ vỡ trong nền
kinh tế, lãi suất thực âm khiến cung vốn giảm, làm hạn chế khả năng mở

rộng sản xuất do thiếu vốn, lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân làm
cầu vốn giảm dẫn đến đình đốn sản xuất, sụt giảm kinh tế.

2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện
khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi
phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các
hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong
môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì
chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho
việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán khi
lãi suất có xu hướng giảm hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và
xuống giá, có dấu hiệu thiếu vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất
vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư,
sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô
đầu tư.

3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm:
Theo lý thuyết tài chính chúng ta có thể đưa ra phương trình về thu
nhập như sau :
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 19 -
Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn
đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm, trong đó
lãi suất có tác dụng phân chia tỷ lệ tiêu dùng và tiết kiệm.
Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều
cho việc tiêu dùng hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Khi lãi suất cao
đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm,

do đó tiết kiệm tăng.

4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ.
 Lãi suất tiền gửi nội tệ :
Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực
không đổi) thì tỷ giá giảm.
Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát
không đổi) thì tỷ giá tăng.
Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình Xuất Nhập Khẩu: khi lãi
suất thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. tỷ giá hối đoái cao hơn
làm hàng hoá của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn lên và hàng hoá
nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng.
 Lãi suất tiền gửi ngoại tệ
Khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của
đồng ngoại tệ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái.
Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng: Lãi suất tiền gửi
bằng ngaọi tệ tăng dẫn đến hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với các quốc
gia khác, khuyến khích xuất khẩu.

5. Lãi suất vai trò của nó đối với Ngân Hàng Thương mại
NHTM với hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình
là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của các
NHTM.
Với phương châm “đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát triển kinh tế
và các nhu cầu tiêu dùng khác của nhân dân.
Nếu lãi suất thấp, sẽ không khuyến khích các chủ thể kinh tế gửi tiền
vào NHTM, dẫn tới giảm huy động vốn của các ngân hàng, làm giảm khả
năng mở rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các tổ chức sản xuất

kinh doanh. Mặt khác lãi suất thấp khuyến khích vay vốn để đầu tư máy móc
trang bị sản xuất kinh doanh. Điều này làm cung cầu vốn trên thị trường mất
cân bằng, các ngân hàng không thể đạt được hiệu quả cao nhất.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 20 -
Ngựợc lại, khi lãi suất tăng cao sẽ khuyến khích gửi tiền vào ngân
hàng nhưng lại giảm cầu về vốn, làm tăng dư nợ của các ngân hàng, làm
tăng chi phí của ngân hàng từ những khoản trả lãi cho những khoản huy
động vốn, làm giảm lợi nhuận ngân hàng.
Do vậy, các NHTM phải xác định được một mức lãi suất phù hợp dựa
trên lãi suất cơ bản mà NHTW công bố để có thể kinh doanh một cách tốt
nhất

6. Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất
và lạm phát. Fishes chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do
đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát. Cụ thể tăng lãi suất, thu hẹp
được lượng tiền trong lưu thông, lạm phát được kìm chế.
Tuy nhiên, dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài
vì nó sẽ làm giảm đầu tư, tổng cầu, sản lượng. Do vậy phải kết hợp nó với
các công cụ khác.

7. Lãi suất với tăng trưởng kinh tế
Trong bối cảnh kinh tế sụt giảm, NHTW giảm lãi suất cơ bản, sử dụng
các công cụ chính sách tiền tệ làm giảm lãi suất trên thị trường, khuyến
khích vay vốn để đầu tư, sản xuất mở rộng kinh doanh.
Tuy nhiên, lãi suất giảm khiến luồng tiền huy động được của các
NHTM giảm, vì vậy nhà nước thường kết hợp nó với các công cụ khác.



B. LÃI SUẤT VÀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
(GIAI ĐOẠN 2007 – 2008)
I. 2007 và những nhân tố gây ra tình hình lạm phát những
tháng đầu năm 2008
Hình 1: Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI)

Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 21 -
Nguồn: IMF, International Financial Statistics
Trong các báo cáo, Chính phủ đã chỉ ra được hầu hết những nguyên
nhân gây ra những yếu kém kinh tế trong thời kỳ này. Cụ thể là, "cơ cấu
kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn
chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, giá trị gia tăng sản
xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả
thấp kéo dài, chậm được khắc phục. Quản lý tài chính, tiền tệ, thị trường,
giá cả, xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ.
Các phân tích dưới đây sẽ chỉ ra rằng những nhược điểm của một chế
độ tỷ giá neo với đồng USD và mất cân đối cơ cấu kinh tế gây ra tình trạng
"thắt cổ chai" là nguyên nhân cơ bản của lạm phát. Lạm phát trong kinh tế
học được hiểu là sự tăng giá chung trong một thời gian dài. Lạm phát thường
có nguyên nhân từ tiền tệ do ngân hàng nhà nước cung ứng quá nhiều tiền
trong lưu thông. Lạm phát cũng có thể có nguyên nhân từ việc tăng giá do
cầu tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng sản xuất của nền kinh tế tạo ra lạm
phát do cầu kéo. Chi phí sản xuất gia tăng cũng đẩy giá hàng hóa lên cao tạo
ra lạm phát do chi phí đẩy. Có thể nói lạm phát ở Việt Nam hiện nay hội tụ
đủ các nguyên nhân do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy và tiền tệ.
Nhóm nguyên nhân thứ nhất có nguồn gốc từ các yếu tố bên
trong của nền kinh tế. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư
nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư của

toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43%. Tổng chi
ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự
toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 4,95% GDP.
Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch
xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. Tổng cầu tăng nóng vượt
quá khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề "thắt cổ chai" liên
quan tới hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát.
Nhóm nguyên nhân thứ hai có nguồn gốc từ các yếu tố bên
ngoài, đó là giá cả các loại hàng hóa trên thế giới đã tăng nhanh, tỷ lệ nghịch
với sự mất giá danh nghĩa của đồng USD đẩy mặt bằng giá nguyên nhiên vật
liệu đầu vào, đặc biệt là dầu thô, lên cao gấp 2 đến 3 lần so với năm 2003.
Giá dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1-2007 lên 89,4 USD/thùng
tháng 12-2007, và đạt đỉnh mới 125,96 USD/thùng vào ngày 9-5-2008. Tốc
độ tăng giá năng lượng, đặc biệt là giá lương thực trong nửa cuối năm 2007
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 22 -
và đầu năm 2008 là nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát trên diện rộng ở
tất cả các nước trên thế giới.
Nhóm nguyên nhân thuộc yếu tố tiền tệ với tốc độ tăng trưởng
tín dụng của Việt Nam tăng quá nhanh trong những năm vừa qua. Trong ba
năm từ 2005 đến 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%. Tốc
độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp
đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương
tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31-12-2006. Tổng dư nợ cho vay của nền
kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006.
Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997 - 2007 (%)
Năm
1997

1998


1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

GDP 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,44
NLTS
4,33 3,53 5,53 4,63 2,89 4,17 3,62 4,36 4,02 3,3 3,0
CNXD

12,62

8,33 7,68 10,07

10,39


9,48 10,48

10,22

10,69

10,37

10,4
DV 7,14 5,08 2,25 5,32 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,29 8,5
Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006, tr 69)
Tốc độ tăng truởng kinh tế tăng cao, đồng nghĩa với nhu cầu vốn ngày
càng lớn, đòi hỏi một sự gia tăng về phương tiện thanh toán để đảm bảo tính
thanh khoản cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng tăng lên rất cao, từ 25,4%
(năm 2006) lên hơn 50% tính đến tháng 11 năm 2007. Trong giai đoạn mà
tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu của quốc gia, để đáp ứng được nhu
cầu của thị trường, nhà nước phải tăng lượng cung ứng tiền trong một thời
gian dài. Đây là một trong những nhân tố gây đến tình trạng bất ổn của nền
kinh tế, nguyên nhân cơ bản của lạm phát.

II. Giai đoạn lạm phát cao
Với những nguyên nhân như trên, nền kinh tế Việt Nam bước vào năm
2008 với những khó khăn to lớn. Bài toán lạm phát trở lên nhức nhối hơn
bao giờ hết với mức lạm phát kỷ lục trong vòng những năm trở lại đây. Lạm
phát tiếp tục trở thành chủ đề nóng bỏng trong tình hình kinh tế vĩ mô. Theo
Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 3/2008 so với tháng 12/2007 đã
tăng tới 9,19%. Chính phủ đã phải điều chỉnh lại mục tiêu lạm phát cho năm
2008 ở mức không cao hơn năm 2007 (12,6%). Tính bình quân 3 tháng đầu
năm 2008 so với cùng kỳ năm trước chỉ số giá tiêu dùng cũng đã tăng tới
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4

- 23 -
16,37%. Tình trạng lạm phát cao tác động xấu đến cán cân thương mại, Xuất
khẩu ước đạt 29,7 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước. Kim
ngạch nhập khẩu ước đạt 44,5 tỷ USD, tăng 60,3% so với vùng kỳ năm
trước. Nhập siêu hàng hoá lên tới 14,8 tỷ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất
khẩu, gần gấp 3 lần mức nhập siêu cùng kỳ năm 2007.
Trước tình hình đó chính phủ tập trung vào giải quyết vấn đề bài toán
lạm phát, chuyển đổi ưu tiên ngắn hạn từ tăng trưởng kinh tế sang thực hiện
kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả.

1) Những chính sách của NHTW trong việc giải quyết lạm phát:
Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, Chính phủ thực hiện một cách đồng bộ
chính sách thắt chặt tiền tệ cụ thể như sau:

Nghiệp vụ thị trường mở: Ngày 13/2/2008, NHNN thông báo
phát hành tín phiếu bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng với tổng giá
trị là 20.300 tỷ, ngày hiệu lực 17/3/2008.
Dự trữ bắt buộc: Trong tháng 2 và tháng 3, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi
phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn (trước đây chỉ có tiền gửi dưới
24 tháng phải dự trữ bắt buộc)
Bảng 2: Diễn biến Dự trữ bắt buộc năm 2007-2008 Đơn vị %

Tỷ lệ Năm
DTBB
(%tổng số dư tiền
gửi phải DTBB)
2007 2008

Lần 1 Lần 2

- Không kỳ hạn và dưới 12
tháng

+ VND 10 11 10
+ Ngoại tệ 10 11 9
- Từ 12 -24 tháng
+ VND 4 5 4
+ Ngoại tệ 4 5 3

Biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu: Bắt đầu từ tháng 2/2008,
NHTW nâng mức lãi suất chiết khấu từ mức 6% năm lên đến 13%
năm.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 24 -
2) Tác động của chính sách tiền tệ đối với lãi suất:

Với việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTW đã tác động
một cách gián tiếp đến lãi suất, trong đó có việc đảm bảo lãi suất thực
dương, nhằm đảm bảo lợi ích của các thành viên của thị trường tiền tệ (ngân
hàng, người gửi tiền, người vay tiền).
 Yếu tố thị trường : việc thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ của
NHTW thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc đã
tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động kinh doanh của các
NHTM, theo hướng làm giảm quy mô nguồn vốn; giảm khả năng cho vay.
Quá trình này tác động làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay
của các NHTM và trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM trong thời gian
này.
 Yếu tố chủ quan: Lãi suất tăng nhanh và tăng cao ngoài yếu tố
mang tính khách quan, còn do yếu tố chủ quan đó là quá trình khai thác và
sử dụng nguồn vốn của các NHTM chưa hợp lý. Trong đó việc tăng trưởng

tín dụng quá nóng, vượt khả năng nguồn vốn của một số NHTM cổ phần đã
tạo ra áp lực về thanh khoản rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn bị thu hẹp (do
phải tăng dự trữ bắt buộc, mua tín phiếu NHNN bắt buộc) càng làm cho một
số NHTM cổ phần khó khăn về vốn trong thanh khoản – diễn biến này đã
đẩy lãi suất huy động tăng cao và tăng nhanh nhằm thu hút nguồn tiền gửi từ
dân cư để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.Cùng với quá trình “hút” tiền về của
NHTW, quá trình này đã tác động hiệu ứng đến toàn hệ thống và làm xuất
hiện cuộc đua lãi suất trong khoảng thời gian cuối tháng 2 và nửa đầu tháng
3/2008.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 25 -
Lượng cung vốn bị hạn chế do tác động của chính sách tiền tệ và
trong bối cảnh lạm phát cao, cá nhân không mặn mà với việc đầu tư mà
chuyển sang nắm giữ ngọai tệ và vàng. Điều này đã làm giảm lượng vốn
cung cấp cho nền kinh tế. Trong khi đó cầu về vốn cho đầu tư sản xuất lớn
khiến cho lãi suất tăng cao trong những tháng đầu năm 2008.
3) Tác động của mức lãi suất cao đến các chủ thể trong nền kinh tế:
Tiêu dùng và tiết kiệm : Trong bối cảnh lạm phát, giá cả các mặt
hàng chung đều tăng, lẽ dĩ nhiên là các cá nhân sẽ hạn chế tiêu dùng, và
chuyển sang tiết kiệm để đầu tư thu lời. Với việc NHTW thực hiện chính
sách lãi suất thực dương, lãi suất huy động cao đã phần nào thu hút được
khoản tiết kiệm của xã hội cho thị trường tài chính, qua đó cải thiện được
tính thanh khoản trong bối cảnh nhà nước thực thi chính sách thắt chặt tiền
tệ để kiềm chế lạm phát. Đối với cá nhân, lãi suất thực dương góp phần tạo
ra cơ hội đầu tư trong khi mức độ rủi ro của các khoản đầu tư vào kênh bất
động sản hay USD cao.
Các ngân hàng thương mại: Sau khi Ngân hàng Nhà nước ( NHNN
) điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm, đã xuất hiện cuộc chạy đua lãi suất
giữa các NHTM, mà mở đầu là các NHTM cổ phần nhỏ, buộc các NHTM
lớn cũng phải đ iều chỉnh để níu kéo khách hàng, kéo theo một lượng vốn

nhất định. Lãi suất huy động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới
nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng
sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục
“treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân
cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm.

Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng

×