Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Khóa luận tốt nghiệp tổng quan về cuộc cmcn 4 0 và bối cảnh của đầu tư việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.42 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu................................................................................................................. 2
I. TỔNG QUAN VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ BỐI CẢNH
CỦA ĐẦU TƯ VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................................3
1. 1. Các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử..................................................3
1.2. Cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0........................................................................4
1.3. Tình hình Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0................5
II. CƠ HỘI CHO ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM TRONG CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0...................................................................................................... 9
2.1. Nguồn lực.......................................................................................................... 10
2.2. Nguồn vốn........................................................................................................ 13
2.3. Cơ hội khác.......................................................................................................14
III. THÁCH THỨC CHO ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM TRONG CUỘC CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0.......................................................................................17
3.1. Nguồn lực.......................................................................................................... 18
3.2. Công nghệ áp dụng............................................................................................22
3.3. Đổi mới sáng tạo...............................................................................................25
3.4. Doanh nghiệp và chính phủ, người dân.............................................................31
IV. DỰ BÁO CHO ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM........................................................37

Kết luận..................................................................................................................... 40


Lời mở đầu
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) với nền tảng công nghệ là dữ
liệu lớn, điện tốn đám mây và kết nối internet tồn diện đang trở thành mối quan
tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng, Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế này. Với lợi thế nước đi
sau, Việt Nam có thể hình thành và phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, thu hẹp
khoảng cách và đuổi kịp những nước đi trước trong khu vực và thế giới thông qua
việc tiếp thu, làm chủ và ứng dụng nhanh vào sản xuất - kinh doanh, quản lý


những tiến bộ, thành tựu công nghệ (kể cả phương thức sản xuất, quản lý). Một
trong những khía cạnh được dự báo sẽ có những ảnh hưởng lớn do CMCN 4.0
chính là đầu tư phát triển. Việt Nam có khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài và đầu tư trong nước vào các lĩnh vực sản xuất và lắp ráp thiết bị, linh kiện
kỹ thuật số phục vụ cho sự kết hợp kỹ thuật số vào các ngành công nghiệp, cho
phép Việt Nam trực tiếp tham gia vào cuộc CMCN 4.0. Nhưng bên cạnh đó,
CMCN 4.0 cũng tạo ra khơng ít thách thức đối với Việt Nam nói chung và lĩnh
vực đầu tư nói riêng. Để làm rõ hơn vấn đề này, nhóm chúng em nghiên cứu đề
tài: Nhận diện cơ hội và thách thức cho đầu tư của Việt Nam trong bối cảnh cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0


I. TỔNG QUAN VỀ CUỘC CMCN 4.0 VÀ BỐI CẢNH CỦA ĐẦU
TƯ VIỆT NAM HIỆN NAY
1. 1. Các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử

“Cuộc cách mạng” ở đây dùng để chỉ một sự thay đổi mang tính đột biến và triệt
để. Nhiều cuộc cách mạng đã diễn ra trong suốt lịch sử thế giới khi các công nghệ mới và
phương pháp mới nhận thức thế giới tạo ra một sự thay đổi sâu sắc trong các hệ thống
kinh tế và kết cấu xã hội.
Cuộc CMCN lần thứ nhất trải dài từ năm 1760 đến khoảng năm 1840, đánh dấu
bằng việc sử dụng nước và năng lượng từ hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Sau đó là sử
dụng động cơ đốt trong, nhiên liệu than đá và xây dựng các tuyến đường sắt mở rộng
giao thương. Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ
khí.
Cuộc CMCN lần thứ hai bắt đầu từ nửa sau thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20.
Cuộc cách mạng này có đặc điểm nổi bật là sử dụng điện năng để phục vụ sản xuất công
nghiệp. Đây là thời kỳ phát minh ra máy phát điện, đèn điện, động cơ điện.
Cuộc CMCN lần thứ ba bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ 20. Đây là thời kỳ mà
con người đã phát minh ra máy tính để thực hiện các cơng việc về trí óc thay cho con

người. Ở cuộc CMCN lần thứ hai, con người mới chỉ phát minh ra các loại máy móc thay


thế lao động cơ bắp. Việc phát minh ra chất bán dẫn vào thập kỷ 60 đã giúp con người tạo
ra máy tính cá nhân vào những năm 70 và 80, và mạng Internet vào thập kỷ 90. Cuộc
CMCN lần thứ ba đã giúp cho máy tính, phần cứng, phần mềm và mạng tồn cầu phát
triển mạnh mẽ. Nó làm biến đổi mọi mặt đời sống kinh tế và xã hội toàn cầu, tạo tiền đề
cho sự ra đời một cuộc CMCN mới.
Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. FIR đã bắt đầu vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ này và xây dựng dựa trên cuộc
cách mạng số, đặc trưng bởi Internet ngày càng phổ biến và di động, bởi các cảm biến
nhỏ và mạnh mẽ hơn với giá thành rẻ hơn, bởi trí tuệ nhân tạo và “học máy”.
Các cơng nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên
ngày càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và vì vậy đang làm biến đổi xã hội và
nền kinh tế tồn cầu.

1.2. Cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0
1.2.1 Khái niệm
Theo Gartner, CMCN 4.0 xuất phát từ khái niệm " Industrie 4.0" tron một báo cáo
của chính phủ Đức năm 2013. Industrie 4.0 kết nối các hẹ thống nhúng và cơ sở sản xuất
thông minh để tạo ra hội tụ kỹ thuật số giữa CN, kinh doanh, chức năng và quy trình bên
trong.
CMCN lần thứ 4 này nảy nở từ cuộc CMCN lần thứ 3,nó kết hợp các cơng nghệ
lại với nhau, làm mở ranh giới giữa kỹ thuật số, vật lý và sinh học.
1.2.2. Cách thức tiến hành
Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh
học, Kỹ thuật số và Vật lý.
- Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo
(AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).
- Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào

nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế
biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu.
- Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật
liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano.


Hiện Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ,
Châu Âu, một phần Châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, cách mạng công nghiệp 4.0
cũng đặt ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt.
1.2.3. Những cơ hội và rủi ro cho thế giới nói chung
- Cơ hội:
+ Làm tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân toàn cầu
+ Tạo ra phép màu cho dịch vụ cung ứng, cải thiện về năng suất và hiệu suất lâu dài
+ Giảm các chi phí thương mai, chi phí vận chuyển thông tin và liên lạc.Các dịch vụ
hậu cần và chuỗi cung ứng tòn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn, Một thị trường mới sẽ được mở
ra và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Rủi ro:
+ Mang lại sự bất bình đẳng lớn hơn, phá vỡ thị trường lao động
+ Bất ổn về chính trị nếu khơng hiểu rõ và chuẩn bị đầy đủ cho làn sóng của cuộc
CMCN 4.0

1.3. Tình hình Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0
1.3.1. Tình hình kinh tế Việt Nam nói chung hiện nay:
Có nhiều tín hiệu tích cực:
+ Tình hình hoạt động doanh nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực: Tình hình
đăng ký DN trong năm 2016 cũng có nhiều cải thiện. Số doanh nghiệp đăng ký hoạt động
mới đạt 110,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,2% so với năm 2015, với 891,1 nghìn tỷ đồng
vốn đăng ký, tăng 48,1%. Số vốn đăng ký trung bình trên một doanh nghiệp tăng 27,5%
và đạt 8,1 tỷ đồng/DN.
+ Mức tăng trưởng khá ổn định: Tăng trưởng kinh tế của 2 quý đầu năm 2016 lần

lượt là 5,48% và 5,78% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù, được phục hồi trong nửa cuối
năm nhưng tăng trưởng kinh tế cả năm chỉ đạt 6,21%, thấp hơn mức 6,68% năm 2015 và
mục tiêu 6,3% mà Chính phủ đặt ra trong phiên họp thường kỳ tháng 9/2016.


+ Xuất khẩu tăng mạnh: xuất siêu 2,68 tỷ USD. Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu
năm 2016 ước đạt 175,9 tỷ USD, tăng 8,6% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế
trong nước đạt 50 tỷ USD, tăng 4,8%. Khu vực FDI (kể cả dầu thô) đạt 125,9%, tăng
10,2%.

Bảng tình hình xuất - nhập khẩu qua các năm
+ Thị trường tiền tệ, tài chính ổn định: Thặng dư trên cán cân thanh tốn ổn định
góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho NHNN mua ròng ngoại tệ, để bổ sung dự trữ ngoại
hối. Thông tin tại phiên họp thường kỳ tháng 12/2016, Chính phủ cho biết, dự trữ ngoại
hối trong tính đến cuối năm đạt 41 tỷ USD, con số cao nhất từ trước tới nay.
Trên thị trường ngoại hối, sau khi cơ chế xác định tỷ giá tham chiếu mới được
thực hiện, diễn biến tỷ giá tương đối ổn định trong năm 2016. Tính tới 29/12/2016, tỷ giá


tham chiếu do NHNN công bố ở mức 22.162 VND/1 USD, tăng 1,21% so với đầu năm.
Trong khi đó, tỷ giá bán ra tại ngân hàng Vietcombank cũng chỉ tăng 1,11% lên mức
22.790 VND/1USD.
+ CPI tăng và tiếp tục có nguy cơ tăng trong năm 2017: CPI cả năm 2016 tăng
4,74%: CPI tháng 12/2016 tăng 4,74% so với tháng 12/2015, bình quân mỗi tháng tăng
0,4%. CPI bình quân năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015.

+ FDI tăng mạnh với số vốn đăng ký đạt hơn 9.2 tỉ USD


1.3.2. Thực trạng đầu tư Việt Nam hiện nay:

a, Tích cực:
- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt
1.485 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015 và bằng 33% GDP, bao gồm: Vốn khu
vực Nhà nước đạt 557,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng vốn và tăng 7,2%; vốn khu
vực ngồi Nhà nước đạt 579,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 39% và tăng 9,7%; vốn khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi đạt 347,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,4%. Như
vậy, mục tiêu này bước đầu đạt được so với mục tiêu năm 2020, khu vực tư nhân đóng
góp khoảng 49% tổng vốn đầu tư tồn xã hội.
- Tính riêng trong q I/2017 (đến ngày 20/3), cả nước có 493 dự án mới được
cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 2,917 tỉ USD, tăng 6,5% so với
cùng kỳ năm 2016; có 223 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng
thêm là 3,94 tỉ USD, tăng 206,4 % so với cùng kỳ năm 2016 và 1.077 lượt góp vốn, mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngồi với tổng giá trị góp vốn là 852,86 triệu USD, tăng
171,5% so với cùng kỳ 2016. Tính chung tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp
vốn mua cổ phần là 7,71 tỉ USD, tăng 77,6% so với cùng kỳ năm 2016.
- Cũng trong quý 1/2017, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực,
trong đó lĩnh vực cơng nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan
tâm của nhà đầu tư nước ngoài với tổng số vốn là 6,54 tỉ USD, chiếm đến 84,9% tổng
vốn đầu tư đăng ký trong Quý I. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng
vốn đầu tư là 343,69 triệu USD, chiếm 4,4% tổng vốn đầu tư. Đứng thứ 3 là lĩnh vực bán
buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký là 296,8 triệu USD, chiếm 3,85% tổng vốn đầu
tư đăng ký.
- Về hoạt động của khu vực FDI, Cục Đầu tư nước ngoài cho biết: trong 6 tháng
năm 2017, khu vực đầu tư nước ngồi xuất siêu 10,22 tỷ USD kể cả dầu thơ và xuất siêu
8,66 tỷ USD không kể dầu thô. Tổng vốn FDI đạt trên 306 tỷ USD. Với hoạt động thu
hút FDI trong 6 tháng đầu năm như vậy, lũy kế đến ngày 20/6/2017, cả nước có 23.594
dự án cịn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 306,3 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế ước đạt
162,57 tỷ USD, bằng 53% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.



b, Tiêu cực
- Đầu tư của khu vực có vốn Nhà nước cịn kém hiệu quả, tình trạng lạm phátm
tham nhũng thương xuyên xảy ra ảnh hưởng đến chất lượng cũng như tiến độ của các dự
án đầu tư. Cơ cấu vốn đâu ftu vào khu vực này đang có xu hướng giảm, tuy nhiên, đây
vẫn là khu vực được rót vốn đầu tư vào nhiều nhất
- Thị trường và đối tác FDI của Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, các nước châu Á. Đầu tư từ Hoa Kỳ, EU và những nước OECD khác vào Việt Nam
còn rất khiêm tốn (so với FDI của các nước đó vào Thái Lan, Inđơnêxia, Xinhgapo,
Malaixia); máy móc, thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu tiêu hao nhiều năng lượng, gây ơ
nhiễm mơi trường, khơng đảm bảo an tồn lao động; việc chuyển giao công nghệ, sáng
chế phát minh, giải pháp kỹ thuật từ doanh nghiệp FDI vào Việt Nam chưa tương xứng
với vốn đầu tư, nhất là trong những ngành công nghệ cao như: công nghiệp điện tử, ô tô,
xe máy.
- Tình trạng chuyển giá đã được phát hiện trong những năm gần đây gây thất thu
cho ngân sách nhà nước. Hiện tượng “lỗ giả, lãi thực” còn phổ biến, khơng ít doanh
nghiệp tuy cơng bố lỗ trong nhiều năm nhưng vẫn tái đầu tư, mở rộng sản xuất.


II. CƠ HỘI CHO ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM TRONG CUỘC
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
2.1. Nguồn lực
2.1.1. Nguồn nhân lực
Được nói đến là một thế mạnh bấy lâu của nước ta là nguồn lao động dồi dào, đất
nước đang nằm trong thời kì vàng của dân số. Khi Việt Nam đang ghi nhận tỉ số dân số
trẻ cao nhất trong lịch sử. Nhóm tuổi từ 10-24 tuổi chiếm gần 40% dân số. Đây chắc
chắn mở ra cơ hội lớn của chúng ta khi bước vào cuộc cách mạng 4.0. Tiềm năng thị
trường với sự tăng trưởng của người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thị trường đầy
hứa hẹn cho sự phát triển cơng nghệ cao
Khi có thể tận dụng tốt những lợi thế sẵn có của đất nước thì cơ hội cho phát triển
đất nước sau cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Kinh tế Việt Nam cũng sẽ có được các cơ

hội tương tự với nền kinh tế tồn cầu khi bước vào cách mạng cơng nghệ 4.0 nhờ dân số
trẻ, năng động với sự nhanh nhạy trong ứng dụng cơng nghệ thơng tin (CNTT). Nguồn
lao động có trình độ chun mơn CNTT đã phát triển mạnh mẽ, có tính đột phá trong
những năm qua. Lợi thế về ngành CNTT khi được áp dụng mạnh mẽ trong các ngành
khác là cơ hội cho lực lượng lao động Việt Nam tham gia vào những phân khúc tạo giá trị
gia tăng cao.
Việt Nam đã có những yếu tố quan trọng là nền tảng cho cuộc cách mạng lần này,
đó là tỷ lệ dân số và doanh nghiệp sử dụng Internet cao (khoảng 54% dân số vào năm
2016, đứng thứ 5 ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương); tỉ lệ dân số sử dụng điện thoại
thông minh đạt 55%; ngành công nghệ thơng tin đang có sự phát triển mạnh mẽ với tốc
độ tăng trưởng lên đến 16%; Việt Nam cũng đứng trong top 5 nước tăng trưởng công
nghệ thông tin nhanh nhất thế giới….
Cuộc CMCN 4.0 có thể tạo ra lợi thế cho những nước đi sau như Việt Nam, hình
thành và phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, thu hẹp khoảng cách và đuổi kịp những
nước đi trước trong khu vực và thế giới thông qua việc tiếp thu, làm chủ và ứng dụng
nhanh vào sản xuất kinh doanh, quản lý những tiến bộ, thành tựu công nghệ (kể cả
phương thức sản xuất, quản lý).


Khảo sát mới nhất về tiền lương vào tháng 3/2017, cho thấy 33% lao động phải chi
tiêu tằn tiện, sống kham khổ; 12% thu nhập và tiền lương không đủ sống, phải làm thêm.
Chỉ 16% có thu nhập dơi dư nằm trong nhóm cơng nhân mỏ, khai khống. Một khi cuộc
cách mạng cơng nghiệp 4.0 thì chúng ta phải đứng trước áp lực là phải nâng cao chất
lượng lao động để vận hành được máy móc, cơng nghệ hiện đại. Thời kì cơng nghệ mở ra
thì những nhân lực khơng có tay nghề dễ bị đào thải khỏi thị trường. Tạo ra động lực cho
mỗi cá nhân phải phát triển mình. Tạo ra cơ hội lớn cho Việt Nam có thể nâng cao chất
lượng lao động- một điểm yếu bấy lâu của nước ta. Chắc chắn rằng khi đó, mức thu nhập
mà người lao động được nhận lại sẽ cao gấp nhiều lần
Nhân lực trẻ với sự thông minh, năng động, sớm hòa nhập với thế giới là một
trong những yếu tố tuyệt vời khi bước vào cuộc cách mạng cơng nghiệp. Dễ đón đầu các

thành tựu của thế giới, tận dụng sự mở cửa thị trường, thì người trẻ đang đứng trước cơ
hội khởi nghiệp mở ra những start-up cho riêng mình, cịn nhà nước thì đứng trước cơ hội
mở ra thời kì kinh tế đỉnh cao với rất nhiều cơng ty mới sáng lập. Nhờ đó khu vực kinh tế
ngồi nhà nước sẽ có cơ hội ngày một lớn mạnh. Việt Nam đang trở thành một quốc gia
khởi nghiêp với những con số hết sức ấn tượng về cả số lượng và mật độ start-up. Hiện
chúng ta đang có khoảng 1 500 start up, nếu tính theo đầu người thì con số này cịn lớn
hơn các nước như Trung Quốc ( 2300 start up nhưng với dân số lớn hơn nhiều lần) hay
Ấn Độ (7 500 start up). Điểm đáng chú ý là trong số đó nhiều startup chọn cho mình
hướng đi cơng nghệ. Điều này đang tạo ra cơ hội rất lớn cho Việt Nam có thể đuổi kịp
công nghệ của các quốc gia đi trước trên thế giới.
2.1.2. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý chiến lược: Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm của khu vực Đông Nam
Á khiến nước này trở thành điểm đến hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Là một nền
kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 6% trong năm năm qua,
Việt Nam đã nổi lên như là trung tâm sản xuất mới của khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương. Điều này là do ảnh hưởng kỳ vọng từ TPP sẽ là làm giảm lợi thế của Trung Quốc
trong lĩnh vực sản xuất.
Trải dài trên nhiều vĩ độ, Việt Nam mang trong mình nhiều kiểu hình thời tiết khác
nhau. Cơ hội mở ra chun mơn hóa theo vùng sản xuất rất lớn. Cơng thêm sự đổi mới,
phát triển của cơng nghệ thì các ngành công nghiệp, nông nghiệp đều cơ cơ hội rất lớn.


2.1.3. Đường lối chính sách
Cách mạng cơng nghiệp 4.0 (cơng nghiệp 4.0) đang trong giai đoạn khởi phát và
sẽ tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đồng thời thay đổi hoàn toàn hệ thống sản
xuất và quản trị hiện nay. Cơng nghiệp 4.0 có thể mang lại cho kinh tế Việt Nam một cơ
hội hiếm để bứt phá và Việt Nam đang có sự chuẩn bị tích cực cho cơ hội này.
Việt Nam đang có sự tiếp cận rất nhanh chóng về cơng nghiệp 4.0 khi hàng loạt
các cuộc thảo luận, nghiên cứu cho nội dung này đã được thực hiện. Nhưng điều đáng nói
hơn cả là sự tích cực và chủ động từ Chính phủ và các bộ ngành với quyết tâm “đi tắt đón

đầu” cuộc cách mạnh công nghiệp lần này.
Việt Nam là quốc gia đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế sâu rộng. Cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ 4 được dự đốn sẽ tạo ra
nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ cơng nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh
tranh trong chuỗi sản phẩm, tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn và đầy tiềm năng trong lĩnh vực
công nghệ số, Internet. Đồng thời cũng là cơ hội hệ thống các chính sách ưu đãi về thuế
đã được hình thành đồng bộ, phù hợp với các nguyên tắc của thương mại và thơng lệ
quốc tế nhằm thu hút vốn, khuyến khích đầu tư cho các lĩnh vực như: (i) 3 ngành công
nghiệp mũi nhọn gồm có cơ khí chế tạo (ơ tơ, đóng tàu, thiết bị tồn bộ, máy nơng
nghiệp, cơ điện tử); thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; sản phẩm từ công
nghệ mới (năng lượng mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp phần mềm, nội dung số); và
7 ngành công nghiệp ưu tiên phát triển là dệt may, da giày, nhựa, chế biến nông lâm thủy
sản, khai thác chế biến bauxit nhơm, thép, hóa chất; ngành năng lượng (dầu khí, than,
điện); ngành cơ khí trọng điểm và ngành cơng nghiệp hỗ trợ (cơ khí chế tạo, điện tử - tin
học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt may, da giày, và các ngành công nghệ cao…); (ii) Các
vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; (iii) Thúc đẩy phát
triển ngành công nghiệp hỗ trợ; (iv) Hỗ trợ phát triển DN vừa và nhỏ, DN khởi nghiệp
(start up), bao gồm thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng…
nhằm hỗ trợ thúc đẩy phát triển công nghiệp, các lĩnh vực, địa bàn ưu tiên phát triển cơng
nghiệp hội lớn cho sản xuất cơng nghiệp với trình độ khoa học và cơng nghệ tiên tiến.
Chính sách tài chính cho phát triển KHCN được thể hiện ở việc khuyến khích cá
nhân, DN đầu tư vào KHCN; Cơ chế lập dự toán nhiệm vụ KHCN; Cơ chế khoán sử
dụng kinh phí; cơ chế quản lý kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN; Cơ chế định giá kết
quả nghiên cứu khoa học; Cơ chế quản lý tài chính đối với hệ thống các Chương trình
quốc gia về KHCN; Cơ chế quản lý tài chính đối với các Quỹ KHCN quốc gia (Quỹ đổi
mới công nghệ quốc gia và Quỹ phát triển KHCN quốc gia)...


Bên cạnh đó, bố trí chi ngân sách nhà nước cho phát triển hoạt động KHCN cơ
bản đảm bảo được mục tiêu của Nghị quyết Trung ương, đạt mức 2% tổng chi ngân sách

nhà nước (tương đương 0,5-0,6% GDP). Đến nay, NSNN vẫn là nguồn lực chủ đạo,
chiếm tới 65%-70% tổng mức đầu tư toàn xã hội cho hoạt động KHCN. Đặc biệt, tổng
chi NSNN cho KHCN giai đoạn 2011-2015 (khơng tính chi trong an ninh, quốc phịng và
chi từ nguồn ưu đãi thu nhập tính thuế của các DN theo quy định) cao gấp 1,73 lần so với
giai đoạn 2005-2010. Quỹ phát triển KHCN đã được hình thành. Kinh phí từ xã hội, DN
được huy động; DN được khuyến khích tạo điều kiện đổi mới cơng nghệ, đa dạng hóa
nguồn kinh phí ngồi ngân sách cho hoạt động KHCN, đặc biệt ưu tiên đổi mới KHCN
trong những ngành công nghiệp mũi nhọn.
Chính sách tài chính cho phát triển nguồn nhân lực công nghiệp cũng được thực
hiện. Việc đảm bảo nguồn vốn cho yêu cầu phát triển nhân lực ngành công nghiệp những
năm qua cũng đã đặc biệt được chú trọng, bao gồm cả nguồn lực từ NSNN, từ nguồn vốn
nước ngồi và từ nguồn đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động đào tạo nhân lực.
Ngồi ra, chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng ưu đãi cũng đang được áp dụng
cho các dự án thuộc ngành công nghiệp ưu tiên, các ngành công nghiệp mũi nhọn; khu
kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; các dự án đầu tư thuộc vùng kinh tế trọng điểm;
công nghiệp hỗ trợ.
Ngồi ra, CMCN 4.0 cũng có thể tác động lên thị trường tài chính Việt Nam thơng
qua sự thay đổi về cơ cấu lao động trong ngành Tài chính; tạo thuận lợi cho toàn bộ các
giao dịch hiện nay tại Việt Nam trong tương lai, theo đó có thể sẽ làm tăng tính thanh
khoản trên thị trường tài chính tiền tệ. Thương mại điện tử sẽ tăng trưởng mạnh; thương
mại dịch vụ có xu hướng tăng nhanh, do đó địi hỏi phải có giải pháp quản lý nhà nước về
thuế đối với giao dịch qua biên giới, giá chuyển nhượng, chuyển nhượng gián tiếp phải
đổi mới kịp thời với điều kiện mới. Ngoài ra, CMCN 4.0 cũng sẽ tác động làn thay đổi
các phương thức về an ninh quốc phòng, chính sách an sinh xã hội…Bên cạnh đó, về chi
ngân sách nhà nước (NSNN), CMCN 4.0 vừa góp phần giảm chi NSNN ở một số nội
dung như (chi bảo vệ mơi trường, chi cho bộ máy hành chính nhà nước).

2.2. Nguồn vốn
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng. Đặc biệt, Việt
Nam đã thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài lớn như AEON, Intel và Samsung…



Các nhà đầu tư nước ngoài tầm cỡ này chọn Việt Nam khơng chỉ đóng góp vào GDP của
Việt Nam, mà còn tạo nên niềm tin kinh doanh với nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp. Hiện
nay Việt Nam là một trong những quốc gia thu hút được lượng vốn FDI lớn nhất trong
khu vực, và được coi là điểm đến đầu tư ưa thích của các nhà đầu tư nước ngồi.
Việt Nam có khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước
vào các lĩnh vực sản xuất và lắp ráp thiết bị, linh kiện kỹ thuật số phục vụ cho sự kết hợp
kỹ thuật số vào các ngành công nghiệp, cho phép Việt Nam trực tiếp tham gia vào cuộc
CMCN 4.0. Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng có thể gây ra những yếu tố bất lợi trong thu hút
đầu tư của Việt Nam, đó là chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều hạn chế,
năng suất lao động đang ở mức thấp so với nhiều nước trong khu vực như Singapore,
Thái Lan, Indonesia. Nhưng khi bước vào cuộc cách mạng 4.0 như đã đề cập rằng nguồn
nhân lực của chúng ta được kì vọng sẽ nâng cao chất lượng. Vậy cơ hội cho chúng ta sẽ
lớn hơn khi thu hút vốn đầu tư.
Không thể khơng kể đến nguồn vốn ODA, nó là một nguồn vốn quan trọng để đầu
tư cho xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng, Chỉ khi những điều kiện ấy phát triển thì nền
kinh tế mới có điều kiện tốt để phát triển
Có thể nói vì những cơ hội khi bước vào cuộc cách mạng công nghiệp như: hệ
thống pháp luật nới lỏng, nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao chất lượng, hệ thống
pháp luật thì ngày càng mở cửa lại tiếp tục mở ra cơ hội cho Việt Nam để thu hút lượng
vốn đầu tư trong và ngồi nước. Hiện Việt Nam đang đứng trong tình trạng chung của
nhiều nước là thiếu vốn nhưng thừa nguồn lực, vậy chắc chắc các nhà đầu tư sẽ không bỏ
qua cơ hội để đầu tư.

2.3. Cơ hội khác
2.3.1. Ứng dụng công nghệ mới trong các ngành sản xuất
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tập trung chủ yếu vào sản xuất thông
minh dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ như: Công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ nano,... với nền tảng là các đột phá của công nghệ số.



Cuộc cách mạng 4.0 sẽ biến đổi cách sống, làm việc của toàn nhân loại theo cách
hoàn toàn mới dựa trên sự phát triển của khoa học, công nghệ, đặc biệt là internet, điện
tốn đám mây…
Đối với nơng nghiệp, chính là áp dụng thành tựu công nghệ, thay đổi phương thức
sản xuất, làm việc trên cánh đồng bằng điều khiển từ xa… để tối ưu hóa q trình sản
xuất, nâng cao chất lượng nông sản, cải thiện đời sống và làm giàu cho nông dân. “Phát
triển nông nghiệp 4.0 là xu hướng tất yếu trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa ngày càng
sâu rộng. Việt Nam khơng thể đứng ngồi làn sóng này”, Phó Thủ tướng Vương Đình
Huệ nhấn mạnh trong bài phát biểu ở Diễn đàn Nông dân Việt Nam lần thứ hai ngày
14/10/2017. Từ đây đặt ra một cơ hội lớn cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào các thiết bị
thông minh ứng dụng trong nông nghiệp. Là sự kết hợp đồng bộ giữa công nghệ về
giống; cơng nghệ chăm sóc gieo trồng, chăn ni; công nghệ tưới tiêu; công nghệ thu
hoạch và bảo quản sản; công nghệ chế biến… Tất cả các công nghệ đó được tích hợp và
điều khiển bởi cơng nghệ thơng minh với cá ứng dụng trên nền tảng internet…
Đối với công nghiệp, CMCN 4.0 được đánh giá sẽ vượt ra khỏi quy mô công
xưởng, nhà máy, doanh nghiệp khi vạn vật được kết nối bởi internet. Khái niệm “nhà
máy thông minh” hay “nhà máy số” đang dần phổ biến hơn. Cụ thể, khơng những tất cả
máy móc thiết bị trong công xưởng được kết nối với nhau thông qua internet, rất nhiều
cảm biến cũng đồng thời được lắp đặt để thu thập dữ liệu. Cách làm này giúp máy móc
có thể “giao tiếp” với nhau mà khơng cần sự có mặt của con người, hay dây chuyền sản


xuất sẽ được vận hành tự động một cách thích hợp ứng với lượng tồn kho. Ngoài ra, các
doanh nghiệp sản xuất chi tiết cũng sẽ được kết nối với nơi lắp ráp, đơn vị vận chuyển,
cửa hàng phân phối và tiêu thụ để thành một thể thống nhất. Đây vừa là cơ hội vừa là
thách thức cho các nhà đầu tư Việt Nam khi mạnh tay đầu tư vào các ứng dụng cơng
nghệ cao này, vì nó sẽ tạo ra những thay đổi vượt bậc trong sản xuất, tạo ra những giá trị
mới cho nền kinh tế tuy nhiên cũng mang đầy rủi ro vì cơ sở hạ tầng và nguồn nhân công

của chúng ta chưa thực sự tốt.
Đối với dịch vụ, ranh giới giữa công nghiệp sản xuất và dịch vụ thu hẹp dần, vai
trò của robot ngày càng cao, biên giới giữa các quốc gia cũng mờ đi. Thành phố thông
minh với các thành tố điều khiển học, điện toán, internet, robot sẽ dần chiếm ưu thế. “Lợi
nhuận từ các ý tưởng sáng tạo sẽ là động lực chính tạo nên giá trị gia tăng của sản phẩm.
Đây sẽ là cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư nước ngồi, dịng chảy chất xám và tạo đà phát
triển cho công nghiệp, dịch vụ”, PGS.TS. Nguyễn Văn Thành, Thứ trưởng Bộ Công an,
nhà nghiên cứu lâu năm về kinh tế và khoa học hệ thống chia sẻ.
2.3.2. Ứng dụng CMCN 4.0 vào quân sự
Quân sự và quốc phòng là lĩnh vực đặc thù, với cách mạng công nghiệp 4.0, chúng
ta cũng sẽ phải nhìn nhận một cách thấu đáo những yếu tố tác động. Thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, Quân đội đang trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân cách
mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có các lực lượng tiến thẳng lên
hiện đại. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, quân đội được đầu tư trang bị nhiều
loại vũ khí trang bị, phương tiện hiện đại, cơng nghệ cao để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới. Với những thành tựu của cách mạng cơng nghiệp 4.0, chúng ta có
thể nâng cao năng lực làm chủ trong nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật, hiện
đại hóa, khai thác làm chủ vũ khí công nghệ cao. Với khả năng của công nghệ số, sự phát
triển của trí tuệ nhân tạo, việc chỉ huy, quản lý, điều hành sẽ có những thay đổi rất lớn,
người chỉ huy sẽ được hỗ trợ tối đa trong việc ra quyết định, nhanh chóng hơn, chính xác
hơn.
Có thể nói tất cả các hoạt động qn sự, quốc phịng đều hưởng lợi từ những thành
tựu cách mạng công nghiệp 4.0.
2.3.3. Thị trường xuất nhập khẩu
Xuất nhập khẩu là một hoạt động quan trọng, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế
nói chung và sự lớn mạnh của cộng đồng doanh nghiệp nói riêng. Với một nền kinh tế
hội nhập sâu rộng và có độ mở lớn như Việt Nam, phát triển xuất khẩu bền vững là


nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay. Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 hứa hẹn sẽ

mở ra con đường mới giúp doanh nghiệp XNK có những bước tiến xa hơn nữa nếu biết
nắm bắt cơ hội.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã có
những tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm vừa qua, đạt tốc độ tăng bình quân là
17,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Năm 2016, xuất khẩu của cả nước đạt 176,6 tỷ
USD và theo thống kê của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam xếp thứ 26
trong các nền kinh tế có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Năm 2017, dự kiến kim ngạch
xuất khẩu sẽ vượt mốc 200 tỷ USD.
CMCN 4.0 giúp doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có cơ hội tiếp cận hoặc thay
đổi vượt bậc về công nghệ khai thác, sản xuất và chế biến sản phẩm. Với những cơng
nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, người máy, internet của vạn vật, công nghệ nano, công
nghệ sinh học phân tử, công nghệ di truyền… CMCN 4.0 có thể giúp nâng cao năng suất,
chất lượng, giá trị sản phẩm xuất khẩu và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường – vốn
là những điểm yếu của DN xuất khẩu của Việt Nam hiện nay.
Cuộc cách mạng này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các “nhà máy
thông minh” hay “nhà máy số”, mà ở đó các thiết bị máy móc thơng minh giao tiếp với
nhau bằng hệ thống mạng; Tạo ra chuỗi cung ứng sản xuất đạt hiệu quả cao nhất về thời
gian xử lý, thời gian lưu kho, nâng cao năng suất… đưa lĩnh vực xuất khẩu có những thay
đổi mang tính đột phá.
Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp XNK cần phải có bước chuẩn bị về tâm thế
cũng như đầu tư về nguồn lực tài chính và nhân sự chất lượng cao đáp ứng nhu cầu và đòi
hỏi của xu hướng xuất khẩu mới.

III. THÁCH THỨC CHO ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM TRONG
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư này là xu thế tất yếu để đáp ứng chính
xác nhu cầu của từng khách hàng, làm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ, giảm
tiêu hao nguyên nhiên liệu, chi phí sản xuất và vận hành. Đồng thời với việc bảo vệ môi
trường sống,CMCN 4.0 tạo ra năng lực mới, nhu cầu mới, phương thức mới, gắn với
năng lực sáng tạo vô tận của trí não (khơng phải năng lực hữu hạn của cơ bắp) con người,

từ đó mở ra khơng gian phát triển vô tận. Đồng thời, cuộc CMCN này cũng làm thay đổi


căn bản cách con người sống, làm việc và quan hệ với nhau; hình thành một hệ phát triển
với logic mới - khác "Cơ hội là vô tận, năng lực cá thể là hữu hạn, do đó thách thức lớn
chưa từng thấy". Để thực hiện được các mục tiêu đặt ra của CMCN4 cũng có nhiều thách
thức lớn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì phải đối mặt với
rất nhiều thách thức:

3.1. Về nguồn lực
3.1.1. Cơ sở hạ tầng
Rào cản về đầu tư hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin. Trong những năm
qua, dù cộng đồng DN đã nỗ lực đầu tư hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động sản xuất kinh doanh, song thực tế vẫn chưa được như kỳ vọng. Khảo sát năm
2016 của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin tại các DN xuất nhập khẩu cho
thấy, mới chỉ có 32% DN đã thiết lập quan hệ kinh doanh với đối tác nước ngoài qua
kênh trực tuyến, 11% tham gia các sàn thương mại điện tử và 49% có website (Báo cáo
chỉ số thương mại điện tử 2017, Bộ Công Thương).
Đầu tư cho KH&CN chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Chưa có cơ chế, chính sách
đủ mạnh để huy động được nguồn lực xã hội, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp
cho phát triển KH&CN vì vậy tổng đầu tư cho KH&CN còn ở mức thấp.
Bên cạnh đó, hệ thống dịch vụ KH&CN, bao gồm thơng tin KH&CN, tư vấn
chuyển giao cơng nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng chưa được trang bị
đủ cơ sở vật chất, do đó, năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và
quốc tế cịn nhiều hạn chế. Việc hình thành các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ
mới ở giai đoạn khởi đầu. Doanh nghiệp trong nước thường có ít kinh nghiệm thương
thảo trong các giao dịch chuyển giao, mua công nghệ, nên nhiều trường hợp phải chấp
nhận những điều kiện bất lợi và giá cao.
Thị trường KH&CN phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Hoạt
động mua, bán công nghệ và chuyển giao kết quả nghiên cứu cịn hạn chế, thiếu các tổ

chức trung gian, mơi giới, thiếu các quy định pháp lý cần thiết về đánh giá, định giá cơng
nghệ, định giá tài sản trí tuệ và giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu có nguồn gốc ngân
sách nhà nước cho các tổ chức và cá nhân.
Báo cáo cũng khẳng định, các tổ chức KH&CN trong nước chỉ đáp ứng được một
phần nhỏ nhu cầu công nghệ của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu của các tổ chức
KH&CN trong nước được áp dụng vào sản xuất kinh doanh khơng cao, khơng có nhiều
đề tài đăng ký được văn bằng sáng chế; có nghĩa là các đề tài nghiên cứu dẫn đến công


nghệ mới rất ít. Nhìn chung trình độ cơng nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc
hậu khoảng 2-3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực…
Về mặt hạ tầng cơng nghệ, hiện chỉ có các ngân hàng có tiềm lực tài chính và tiên
phong trong đầu tư cơ sở hạ tầng và ứng dụng mạnh mẽ cơng nghệ tin. Trong khi đó,
phần lớn các DN có quy mơ vừa và nhỏ nên chưa thực sự quan tâm.
3.1.2. Nguồn nhân lực
a, Năng suất lao động thấp
Đánh giá này được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) làm rõ hơn qua một báo cáo
cho thấy năng suất lao động của nước ta thuộc nhóm thấp nhất trong các quốc gia của khu
vực châu Á – Thái Bình Dương. Nguyên nhân được ILO đưa ra là do nước ta chỉ có
khoảng gần 20% lao động được đào tạo bài bản, đa số khơng có đủ chất lượng chun
mơn, kỹ năng để đáp ứng u cầu, địi hỏi của thị trường. Và nếu so sánh tương quan
năng suất lao động và giá nhân công một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á sẽ thấy
lao động giá rẻ khơng cịn là một lợi thế của Việt Nam mà nếu khơng cải thiện được tình
trạng trên, chúng ta khó có khả năng thu hút được nguồn vốn FDI chất lượng tốt.
Điều này buộc các doanh nghiệp cần thay đổi tư duy để có thể cạnh tranh với các
quốc gia khu vực, thay vì bằng cách sử dụng lao động giá rẻ như trước đây, nay cần chú
trọng đổi mới công nghệ, quản trị và tuyển chọn nhân tài, đáp ứng thời kỳ công nghiệp
4.0.
Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy nhanh tiến trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và thu hẹp khoảng cách phát triển trong quá trình hội nhập quốc

tế. Đặc biệt, nguồn lao động trẻ dồi dào là lợi thế lớn của Việt Nam, bởi đây là lực lượng
có khả năng hấp thụ tốt nhất về khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, trong nền công nghiệp
4.0 với sự mở rộng ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin, điều khiển, tự động
hóa, thì Việt Nam đứng trước nhiều vấn đề về chất lượng nguồn nhân lực. Cụ thể:
Một là, trình độ chun mơn kỹ thuật của lao động còn thấp: Hiện nay, ở nước ta
đang tồn tại hai cách tính khác nhau về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Theo
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật, bao
gồm từ đào tạo dưới 1 năm và từ trình độ sơ cấp trở lên. Trong khi đó, theo cách tính của
Tổng cục Thống kê, lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật là lao động có chun
mơn và có chứng chỉ trở lên.


Với cách tính của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, năm 2015 cả nước có
28,05 triệu người có trình độ chun mơn kỹ thuật, chiếm 51,64% tổng lực lượng lao
động. Trong khi theo cách tính của Tổng cục Thống kê, số người có trình độ chun mơn
kỹ thuật chỉ có 10,56 triệu người, chiếm tỷ lệ thấp người Philippines hay Indonesia cũng
vẫn bằng hơn 02 người Việt Nam.
Bên cạnh đó, theo Báo cáo năng lực cạnh tranh tồn cầu 2015-2016, Việt Nam
được xếp hạng chung là 56, nhưng các chỉ số cấu phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại
thấp hơn nhiều. Cụ thể: Năng lực hấp thụ công nghệ xếp hạng 121; Mức độ phức tạp của
quy trình sản xuất: 101; Chất lượng của các tổ chức nghiên cứu khoa học: 95; Giáo dục
và đào tạo ở cấp sau phổ thông: 95.
Hai là, năng suất lao động thấp: Theo Báo cáo Năng suất lao động Việt Nam năm
2015, năng suất lao động của Việt Nam theo giá hiện hành đạt 3.660 USD, chỉ bằng 4,4%
của Singapore; 17,4% của Malaysia; 35,2% của Thái Lan; 48,5% của Phillippines và
48,8% của Indonesia. Nói cách khác, năm 2015, một người Singapore có năng suất làm
việc bằng gần 23 người Việt Nam, một người Malaysia bằng gần 06 người Việt Nam,
một người Thái Lan bằng gần 03 người Việt Nam và một người Philippines hay
Indonesia cũng vẫn bằng hơn 02 người Việt Nam.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2005-2015, mặc dù lao động

làm việc trong lĩnh vực nơng nghiệp có giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất. Cụ thể,
nông nghiệp giảm từ 55,09% năm 2005, xuống 45,19% năm 2015; lần lượt công nghiệp
tăng từ 17,59 lên 21,78%; dịch vụ tăng từ 27,32% lên 33,03%. Cơ cấu này phản ánh cấu
trúc “nông nghiệp” của nền kinh tế Việt Nam.
Ba là, tay nghề và các kỹ năng mềm khác còn yếu: Theo số liệu của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, tính đến quý IV/2016, cả nước có 1.110.000 người trong độ tuổi
lao động thất nghiệp, trong đó có 471.000 người có chun mơn kỹ thuật (chiếm
42,43%). Riêng tại 64 trung tâm dịch vụ việc làm do ngành Lao động - Thương binh và
Xã hội đã quản lý tổ chức được 336 phiên giao dịch việc làm với 780.000 lượt người
được tư vấn, giới thiệu việc làm, nhưng mới có 242.000 lượt người nhận được việc làm.
Một phần nguyên nhân là do cơ cấu cung – cầu của thị trường lao động bất hợp lý
nhưng một phần không nhỏ cũng là do lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà
tuyển dụng. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra bảng xếp hạng chỉ số năng suất
sáng tạo năm 2014 của lao động ở 24 nước châu Á, trong đó Việt Nam xếp thứ 16/24,



×