Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Mối quan hệ giữa Quốc hộ và Chính phủ theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.22 KB, 9 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU.
Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ là mối quan hệ quan trọng
nhất trong tất cả các mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Mối
quan hệ này quyết định chính thể của mỗi nhà nước.Bộ máy nhà nước ta là
hệ thống các cơ quan từ trung ương tới điạ phương được xây dựng theo
nguyên tắc phân quyền.Tuy nhiên “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Trong đó, Chính phủ và Quốc hội là
hai cơ quan hàng đầu trong bộ máy nhà nước ta, nắm giữ những quyền hạn
và nhiệm vụ quan trọng trong việc điều hành đất nước, chúng không tồn tại
độc lập với nhau mà luôn kiềm chế đồng thời cũng hỗ trợ lẫn nhau tạo nên
mối liên hệ bền vững. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn vấn đề trên cho nên
em xin chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa Quốc hộ và Chính phủ theo pháp luật
hiện hành” làm bài tập lớn học kỳ lần này. Bài viết được hoàn thành trong
khoảng thời gian có hạn, với nguồn tiếp cận tài liệu còn hạn chế cho nên
không tránh khỏi những thiếu xót ,rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô
để em có thể hoàn thiện được kiến thức của mình.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Một số nét khái quát về Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật
hiện hành
1.1. Quốc hội
Điều 83 trong Hiến pháp 1992 đã nêu lên một cách khái quát nhất
những đặc điểm cơ bản của Quốc hội bao gồm cả vị trí, tính chất, chức
năng: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp.Quốc hội quyết định những chính sách
cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt đọng của bộ máy
Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt đọng của công dân, Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt đọng của Nhà nước.
Như vậy,trong bộ máy Nhà nước ta Quốc hội chiếm một vị trí đặc biệt


quan trọng, đảm nhiệm những quyền hạn và nhiệm vụ hết sức to lớn, toàn
diện trên nhiều lĩnh vực với cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hình thức hoạt đọng
1
riêng biệt. Những điều này đã được ghi nhận cụ thể trong hiến pháp và luật
tổ chức Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành.
1.2. Chính phủ
Việc thành lập và hoàn thiện các quy định pháp luật về Chính phủ là
mối quan tâm của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.Về cơ bản, các quy
định pháp luật về Chính phủ ở nước ta khá toàn diện.Điều 109 Hiến pháp
1992 đã xác định rõ: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ
quan hành chính cao nhất của nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thông nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước, đảm bảo
hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, đảm bảo việc tôn
trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo ổn định và
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Chính phủ chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Chủ tịch nước.
Cũng giống như Quốc hội, Chính phủ cũng Qmang có vị trí và mang
những quyền hạn, nhiệm vụ, cơ cấu, hình thức hoạt động nhất định trong bộ
máy Nhà nước.Điều này cũng được quy định cụ thể trong Hiến pháp và luật
tổ chức Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành.
2. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật
hiện hành
2.1. Trong tổ chức bộ máy Nhà nước
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và quy trình thành lập
của Chính phủ có sự chỉ đạo của Quốc hội.Quốc hội là cơ quan thành lập ra
Chính phủ, cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm Bộ và cơ quan ngang
Bộ(Điều 22 luật tổ chức Chính phủ năm 1992). Số lượng các Bộ, việc thành
lập, giải tán các Bộ do Quốc hội quyết định. Quốc hội bầu ra Thủ tướng

Chính phủ trong số các đại biểu Quốc hội của mình, các thành viên khác
trong Chính phủ do Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Thủ
tướng Chính phủ và được Quốc hội phê chuẩn (Điều 84 Hiến pháp 1992 và
điều 2 luật tổ chức Chính phủ năm 1992) và sau này là quy định tại điều 2
luật tổ chức Chính phủ năm 2001.Quốc hội còn có quyền quyết định thành
lập hoặc bãi bỏ các Bộ và cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng
Chính phủ. Tuy Chính phủ do Quốc hội thành lập nhưng trong việc lựa chọn
danh sách các thành phần Chính phủ đã khẳng định được vị trí tương đối độc
2
lập của mình. Hơn nữa thành viên của Chính phủ, ngoài Thủ tướng ra thì
không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Đây chính là quy định khác so
với Hiến pháp 1980. Theo Hiến pháp 1980 thì có quyền bầu và bãi miễn
toàn bộ các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên của Chính
phủ chủ yếu phải là đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, việc thay đổi này không
làm thay đổi bản chất mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ. Theo TS.
Ngô Đức Tuấn: “Sở dĩ các nhà làm luật nước ta chấp nhận điều này là do
thực tiễn quản lý năng động với cơ chế giám sát trách nhiệm, mặt nào đấy
bảo đảm nguyên tắc: “Bất khả kiêm nhiệm” giữa hành pháp và lập pháp”.
Ở nước ta, Quốc hội vừa có quyền lập hiến vừa có quyền lập pháp nên
Quốc hội không chỉ có quyền lập ra Chính phủ mà với việc ban hành ra Luật
tổ chức Chính phủ Quốc hội còn có quyền quyết định cơ cấu và những
nguyên tắc hoạt động của cơ quan này cũng như chế độ làm việc của Chính
phủ. Cùng với thẩm quyền thành lập ra Chính phủ thì Quốc hội cũng có
quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm các thành viên của Chính phủ. Khoản 7 điều 2
luật tổ chức Quốc hội quyết định rõ: “Quốc hội có quyền : Bầu, bãi nhiệm,
miễn nhiệm Chủ tịch nước, phó chủ tịch, chủ tịch Quốc hội, các phó chủ tịch
Quốc hội và các ủy viên UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ, chánh án
TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, phê chuẩn đề nghi của Thủ tướng
Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức phó thủ tướng, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ….”Rõ ràng trong việc bầu, bãi

miễn thành viên chính phủ có sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ. Đây
cũng là điểm khác biệt của Hiến pháp 1992( sửa đổi, bổ sung năm 2001).
2.2. Trong hoat động của bộ máy Nhà nước
2.2.1. Trong hoạt động xây dựng pháp luật
Hoạt động Lập pháp của Quốc hội ngày càng có chất lượng hơn nhờ
sự phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ. Xuất phát từ chức năng
của Quốc hội và Chính phủ trong bộ máy Nhà nước, thông qua mối quan hệ
giữa hai hoạt động hành pháp và lập pháp ở Việt Nam, Chính phủ xem như
chủ thể chính trong việc soạn thảo, trình các dự án luật, pháp lệnh trước
Quốc hội, UBTVQH, hay nói cách khác, sáng kiến lập pháp hiện nay chủ
yếu từ phía Chính phủ. Điều đó khẳng định một tư tưởng : Trong điều kiện
một Đảng cầm quyền ở Việt Nam, việc hoạch định chính sách cũng như xây
xựng, ban hành các dự án luật, pháp lệnh không phải chỉ có một cơ quan duy
nhất mà là sản phẩm của mối quan hệ mang tính cộng đồng trách nhiệm giữa
3
các chủ thể trình (trong đó có Chính phủ và chủ thể ban hành là Quốc hội,
UBTVQH)
Chính phủ ngoài sáng quyền lập phápđối với các đạo luật thường còn
có thể sử dụng sáng quyền lập pháp đối với các đạo luật về ngân sách bởi
Chính phủ thống nhất quản lí việc xây dựng, phất triển kinh tế Quốc dân,
thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia. Tuy trong Hiến pháp 1992 không ấn
định rõ cơ quan nào có thẩm quyền sáng quyền lập pháp về ngân sách nhưng
trong luật ngân sách Nhà nước cũng khẳng định Chính phủ có quyền lập và
trình Quốc hội dự toán ngân sách Nhà nước, dự toán điều chỉnh ngân sách
Nhà nước trong trường hợp cần thiết. Sáng quyền về các đạo luật nói chung
và luật ngân sách nói riêng là biểu hiện của sự tương quan giữa quyền lập
pháp và hành pháp.
2.2.2. Trong hoạt động giám sát
Việc kiểm tra giám sát đối với hoạt động của Chính phủ là một hoạt
động đặc thủ của Quốc hội. Ở Hiến pháp 1946 quyền giám sát của Chính

phủ thuộc về UBTVQH thì Hiến pháp 1959, 1980,1992 đều chính thức ghi
nhận quyền này do Quốc hội trực tiếp thực thi. Thực hiện hoạt động giám sát
Quốc mong muốn Hiến pháp cùng các đạo luật khác được tuân thủ một
cách triệt để nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN.
Theo Hiến pháp 1992 hình thức giám sát quan trọng nhất của Quốc
hội là trong các kỳ họp Quốc hội xem xét thảo luận, báo cáo công tác của
mình trước Quốc hội ít nhất một lần.Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo
của Thủ tướng Chính phủ tại các kỳ họp cuối năm. Để Quốc hội có cơ sở
vững chắc khi xem xét báo cáo, theo quy định của chủ tịch Quốc hội hoặc
người điều khiển phiên họp,báo cáo của Chính phủ có thể chuyển cho các ủy
ban hữu quan của Quốc hội để thẩm tra, nghiên cứu trước. Khi thấy những
vấn đề cần thiết cần có điều tra để kết luận, Quốc hội có thể thành lập ủy
ban điiều tra đặc biệt( gồm các đại biểu Quốc hội và các chuyên viên thuộc
lĩnh vực điều tra), sau khi kiểm tra các ủy ban sẽ báo kết quả trước Quốc hội.
Hình thức giám sát thứ hai của Quốc hội đối với Chính phủ là thông
qua vai trò chất vấn của các đại biều Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền
chấn vấn bất kỳ vấn đề gì thuộc thẩm quyền của Quốc hội không phụ thuộc
vào vấn đề đó có nêu ra trong chương trình kỳ họp hay không. Do vậy, việc
giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ được đảm bảo một
cách toàn diện và hữu hiệu hơn.
4
Hình thức giám sát thứ ba của Quốc hội là đối với các văn bản của
Chính phủ. Khoản 9 điều 84 Hiến pháp 1992 quy định : “ Quốc hội có quyền
bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, UBTVQH,Chính phủ ,Thủ tướng
Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, khác với Hiến pháp, luật ,Nghị quyết
của Quốc hội ”. Trước đây thẩm quyền này thuộc về UBTVQH hoặc Hội
đồng Nhà nước (điều 53 Hiến pháp 1959, điều 100 Hiến pháp 1980) nhưng
theo Hiến pháp 1992 thì UBTVQH chỉ có quyền đình chỉ các văn bản của
Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị định của Quốc hội và trình Quốc
hội hủy bỏ các văn bản đó.Điều này nhấn mạnh tính quyền lực tối cao của

Quốc hội nước ta.
Ngoài các hình thức giám sát nêu trên hoạt động giám sát của Quốc
hội đối với Chính phurcon do các cơ quan của Quốc hội đảm nhiệm đó là
UBTVQH, hội đồng dân tộc và các ủy ban khác của Quốc hội.Hội đồng dân
tộc và mỗi ủy ban của Quốc hội có quyền dám sát về những lĩnh vực mà
mình phụ trách. Vấn đề này được quy định rõ trong các điều 30, 31,32,33
luật tổ chức Quốc hội 2001.
2.2.3. Trong hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng khác
của đất nước
Tất cả những vấn đề quan trọng của đất nước như kinh tế,quốc phòng,
an ninh....Hiến pháp 1992 cũng kế thừa những quy định ấy và đưa vào nội
dung Hiến pháp một số điều như 83, 84 cũng như luật tổ chức Quốc hội
1992, 2001. Cụ thể trong hoạt động đối nội của Quốc hội vấn đề then chốt
hiện nay là hoạt động kinh tế - xã hội trong đó có lĩnh vực tài chính – ngân
sách. Đây là vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia, mặt khác việc thông qua
ngân sách là một trong những chức năng quan trọng nhất thể hiện rõ nét nhất
và trực tiếp nhất quyền lực nhà nước của Quốc hội. Quyền thông qua ngân
sách còn là cơ chế kiểm soát quyền lực quan trọng của Quốc hội với cơ
quan hành pháp. Theo quy định tại khoản 4 điều 84 Hiến pháp 1992, Quốc
hội có quyền quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách nhà
nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, còn Chính phủ sẽ thực hiện
chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. Đây cũng chính là một điểm mới của
Hiến pháp 1992. Việc quyết định cụ thể quyền về ngân sách nhà nước giúp
Quốc hội thực hiện hoạt động quản lý, giám sát việc chi tiêu của Chính phủ
cũng như của Chính quyền địa phương nhằm đẩy mạnh hoạt động chống
tham nhũng – một nguy cơ lớn mà Đảng luôn nhấn mạnh.
5

×