Lời nói đầu
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trờng, các tranh chấp xuất hiện
ngày càng nhiều với quy mô lớn và tính chất phức tạp. Tranh chấp kinh tế phát
sinh đòi hỏi phải đợc giải quyết thoả đáng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm trật tự và kinh doanh. Ơ nớcta hiện nay,
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà các tranh chấp kinh tế chủ yếu đợc giải
quyết tại toà án.
Để giải quyết kinh tế nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật ngời thẩm
phán phải có kỹ năng nghề nghiệp thành thục, kiến thức sâu rộng về pháp luật,
nội dung và tố tụng, hiểu biết về thực tiễn kinh doanh.Và thủ tục giải quyết
tuyên bố phá sản doanh nghiệp cũng là một trong vấn đề rất quan trọng trong
hoạt động kinh doanh tuy đây không phải là tranh chấp kinh tế.
1
Chơng I
Pháp luật phá sản Doanh nghiệp
I. Nội dung cơ bản của luật phá sản doanh nghiệp:
1. Khái niệm phá sản:
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là căn cứ để Toà án ra quyết
định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với nó (mở thủ tục
phá sản). Quyết định này của toà án gây ra những hậu quả xấu vè nhiều mặt
cho nhiều đối tợng, nhất là các chủ doanh nghiệp. Ví dụ, quyết định mở thủ
tục phá sản ảnh hởng xấu đến thanh danh, uy tín của nhà doanh nghiệp, đồng
thời hạn chế quyền quản lý tài sản và quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh của họ (thể hiện qua hệ quả pháp lý của quyết định mở thủ tục phá
sản). Nh vậy, quan niệm sai, không khoa học, không phù hợp với thực tế
khách quan sẽ gây thiệt hại không những cho từng nhà doanh nghiệp mà còn
cho cả nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, Nhà nớc nào cũng dành sự quan
tâm đặc biệt đối với vấn đề này.
Theo Luật Phá sản doanh nghiệp nớc ta thì tình trạng phá sản là tình
trạng một doanh nghiệp ngừng trả nợ. Bằng chứng của việc ngừng trả nợ là
việc doanh nghiệp không thanh toán đợc các món nợ đến hạn. Tuy nhiên, việc
không thanh toán đợc nợ đến hạn lại có mức độ khác nhau: có khi đó chỉ là
một hiện tợng tạm thời có thể khắc phục đợc, nhng có khi đó lại là một hiện t-
ợng trầm trọng, thuộc về bản chất và vô phơng cứu chữa.
Toà án sẽ căn cứ vào chứng cứ do chủ nợ và con nợ cung cấp mà đa ra
nhận định của mình về tính chất của tình trạng không thanh toán đợc đến hạn
và trên cơ sở đó mà quyết định mở thủ tục phá sản đối với từng doanh nghiệp
cụ thể. Chính trên quan điểm nh vậy mà điều 2 Luật Phá sản doanh nghiệp nớc
ta quy định Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp
2
khó hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện
pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
Nh vậy tình trạng phá sản chỉ phát sinh khi:
- Chủ thể kinh doanh của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp đó đã mất khả năng thanh toán các món nợ thơng mại
đến hạn.
- Tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn không còn là hiện tợng
tạm thời, có thể khắc phục đợc mà đã trở thành trầm trọng, vô phơng cứu chữa.
2. Đối tợng có thể bị tuyên bố phá sản:
Theo thông lệ trên thế giới thì bất cứ ai (thể nhân hay pháp nhân) miễn
là thơng gia thì đều có thể bị toà án tuyên bố phá sản.
ở Việt Nam chỉ có cơ sở sản xuất kinh doanh nào đợc pháp luật gọi là
doanh nghiệp thì mới có thể bị toá án tuyên bố phá sản. Chính vì vậy, luật phá
sản của ta gọi là luật phá sản doanh nghiệp.
Tuy nhiên xuất phát từ vai trò đặc biệt của doanh nghiệp này mà Nhà n-
ớc phải có sự đối xử khác so với các doanh nghiệp khác. Cụ thể là, khi doanh
nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng
lâm vào tình trạng phá sản thì:
- Ngời quản lý doanh nghiệp phải báo cáo ngay bằng văn bản cho cơ
quan quản lý cấp trên về tình hình tài chính của mình.
- Cơ quan cấp trên trực tiếp phải có biện pháp giúp đỡ, đồng thời báo
caó thủ tớng chính phủ biết để xem xét quyết định để cứu hay không cứu
doanh nghiệp khỏi bị tuyên bố phá sản.
-Toà án chỉ ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp khi nhận đợc ý kiến bằng văn bản của cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền về việc không áp dụng các biện pháp tài chính để vực doanh
nghiệp.
3. Ngời có quyền yêu cầu toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
a. Chủ nợ: Chế độ pháp luật quy định về phá sản đợc đặt ra trớc hết là nhằm
bảo vệ các quyền về tài sản của chủ nợ. Do vậy, đối tợng đầu tiên đợc pháp luật
3
quy định có quyền này là chủ nợ. Tuy nhiên, chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ đợc
quyền bán tài sản thế chấp, cầm cố để thu lại các khoản tiền mà mình đã cho
con nợ vay, cho nên, không đợc quyền làm đơn yêu cầu toà án tuyên bố phá
sản doanh nghiệp. Vì vậy theo điều 7 Luật phá sản doanh nghiệp, thì chỉ có chủ
nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền này.
b.Doanh nghiệp mắc nợ: Theo khoản 1 Điều 9 Luật Phá sản doanh nghiệp thì
sau khi phát hiện mình đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và mặc
dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn không thoát khỏi tình trạng đó
thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn
yêu cầu toà án tuyên bố phá sản. Nh vậy, so với các chủ nợ thì làm đơn yêu
cầu toà án tuyên bố phá sản là nghĩa vụ chứ không phải là quyền của doanh
nghiệp mắc nợ.
c. Ngời lao động: Chủ thể thứ ba có quyền và lợi ích liên quan đến việc phá
sản doanh nghiệp là ngời lao động. Do đó, Luật phá sản doanh nghiệp đã cho
phép họ quyền đợc làm đơn yêu cầu toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp nơi
họ đang làm việc với điều kiện doanh nghiệp không trả đợc lơng ngời lao
động trong ba tháng liên tiếp (Điều 8). Nh vậy, điều kiện để ngời làm công đ-
ợc làm đơn là :
- Tính chất nợ là nợ lơng
- Thời gian nợ là 3 tháng lơng liên tiếp;
- Có văn bản thể hiện ý chí chung của tập thể ngời lao động về việc đa
doanh nghiệp ra toà án để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản ( Nghị quyết
của công đoàn chẳng hạn)
Ngoài các chủ thể kể trên, không ai đợc quyền này, kể cả toà án ( Điều 10
Luật phá sản doanh nghiệp) hay Viện kiểm sát.
II. Vai trò của pháp luật về phá sản trong nền kinh tế thị trờng :
Bảo vê một cách có hiệu quả lợi ích chính đáng của các chủ nợ:
Có hai phơng pháp đòi nợ: Đòi nợ bằng biện pháp thông thờng và đòi nợ bằng
một cơ chế đặc biệt (thông qua thủ tục phá sản). Thủ tục phá sản là một thủ
tục đòi nợ đặc biệt. Tính đặc biệt của thủ tục này thể hiện ở chỗ, Toà án phải
4
ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp mắc nợ bị phá sản để rồi nhân việc đó mà
bán toàn bộ tài sản của nó để thanh toán cho các chủ nợ.
Chính nhờ thủ tục phá sản mà nhà nớc tạo ra cho các chủ nợ một phơng
cách hữu hiệu nhất để bảo vệ lợi ích của mình, hạn chế tình trạng chây ỳ, dây
da trong việc thanh toán công nợ, suy cho cùng là tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà kinh doanh làm ăn.
1.Bảo vệ lợi ích của chính bản thân doanh nghiệp mắc nợ:
Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt vấn đề bảo vệ lợi ích
cho các con nợ. Ngời ta cho rằng, phá sản là tội phạm và chủ doanh nghiệp
phá sản là phạm nhân, do đó họ không những không đợc bảo vệ mà còn bị
trừng phạt, kể cả hình phạt tù.
Ngày nay, không còn quan niệm nh vậy nữa. Tuyệt đại đa số các nớc
đều cho rằng kinh doanh là việc khó, đầy rủi ro, vì vậy pháp luật cần phải đối
xử nhân đạo với các nhà doanh nghiệp. Chính vì vậy mà nhà nớc đã:
- Không bắt tù họ
- Ngăn cấm các chủ nợ có hành vi xúc phạm thể xác và tinh thần của
con nợ
- Bằng mọi cách tạo điều kiện cho doanh nghiệp mắc nợ khó khắc phục
khó khăn để khôi phục lại sản xuất mà không tuyên bố phá sản ngay.
2.Bảo vệ lợi ích của ngời lao động:
- Ngời lao động đợc quyền làm đơn yêu cầu toà án tuyên bố phá sản
doanh nghiệp hoặc phản đối yêu cầu tuyên bố phá sản của các chủ nợ khác đối
với doanh nghiệp mà trong đó mình đang làm việc
- Ngời lao động đợc quyền đại diện tham gia tổ chức quản lý tài sản
- Đợc tham gia hội nghị chủ nợ
3.Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội:
Pháp luật về phá sản doanh nghiệp sẽ đa vấn đề phân chia tài sản của
con nợ vào nề nếp, công bằng trật tự bằng cách qui định rõ ai có quyền làm
đơn yêu cầu toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp; điều kiện và thủ tục tuyên
5
bố phá sản doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; nghĩa vụ hoà giải giữa
chủ nợ và con nợ và đặc biệt là thứ tự u tiên thanh toán tài sản còn lại của
doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ nợ Làm đ ợc điều này là pháp luật về phá
sản doanh nghiệp đã góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
6