Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Pháp luật về hợp đồng nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại hợp tác xã CN Quyết Tiến.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.96 KB, 58 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể khẳng định rằng nền kinh tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới và
chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước đã và đang khẳng định được bước đi đúng hướng, đồng thời cũng tạo ra một môi
trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện cả về nhân tố cấu thành cũng như hành lang
pháp lý. Mặt khác, có thể nói rằng sự giao lưu giữa các nước trên thế giới ngày càng
được mở rộng theo xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Việt
Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó, điển hình là việc Việt Nam vừa gia nhập
tổ chức thương mại thế giới WTO.
Nếu một quốc gia chỉ đóng của không giao lưu với nền kinh tế khác và thực hiện
cơ chế tự cung tự cấp thì quốc gia đó không thể nào phát triển được. Mà để có một nền
kinh tế phát triển thì quốc gia đó phải tăng cường giao lưu hợp tác, thúc đẩy giao lưu,
hội nhập với nền kinh tế bên ngoài để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc
gia.Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam càng có nhiều cơ hội
để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nhìn vào thực trạng hiện nay, chúng ta thấy rằng Việt Nam vẫn là một nước được
xếp vào nhóm đang phát triển, vẫn dựa vào nông nghiệp là chính, công nghiệp cũng
chưa phát triển mạnh nhưng bù lại chúng ta có rất nhiều tiềm năng. Do đó, để đảm bảo
cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước, thì phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Một
trong những biện pháp đó là phát triển kinh tế ngoại thương, mở rộng sự hợp tác với các
nền kinh tế trên thế giới là một yêu cầu cấp bách.
Điều này đã được Đảng ta khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI
năm 1986 đã chỉ rõ: “Trong toàn bộ công tác kinh tế đối ngoại, khâu quan trọng nhất là
đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu”. Còn tại Đại hội lần thứ VII năm
1991 cũng như Đại hội lần thứ VIII năm 1996, Đảng ta cũng chỉ ra quan điểm: “Phát
triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự phát triển của kinh tế,
xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Và cho đến Đại hội lần thứ IX
năm 2000, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh
mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh nhập khẩu hàng hóa và dịch
- Trang 1 -


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
vụ… Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng nhập khẩu”. Như vậy càng
khẳng định rằng xuất nhập khẩu có vai trò cần thiết và quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, đặc biệt trong việc phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhằm phù hợp với sự phát triển trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước cho phép các
loại hinh doanh nghiệp được thực hiện kinh doanh theo phương thức đa phương hóa, đa
dạng hóa nghành, xóa bỏ dần sự khác biệt giữa các loại hinh doanh nghiệp. Trước tình
hình đó, hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến cũng đã không ngừng đổi mới, phát triển
nhiều ngành, nghề sản xuất để cho phù hợp với xu thế chung. Và xuất nhập khẩu cũng là
một trong các hoạt động chính của hợp tác xã. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Pháp luật về
hợp đồng nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến”.
Đề tài chỉ đề cập và nghiên cứu một phần nhỏ trong chế độ pháp lý ngoại thương, cụ thể
ở đây là nghiên cứu về thực tiễn ký kết hợp đồng nhập khẩu và thực trạng tại hợp tác xã
Công nghiệp Quyết Tiến để từ đó có thể đưa ra các kiến nghị và các giải pháp nhằm giúp
cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu tại hợp tác xã nói riêng và tại các
doanh nghiệp nói chung hiện nay ngày càng hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Kết cấu chính của đề tài này như sau: Ngoài các mục Lời nói đầu, phần Kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài được chia làm ba chương chính nhu sau:
Chương I: Cơ sở pháp lý của việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu nguyên vật liệu
nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến.
Chương III: Kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả của hợp đồng nhập
khẩu nguyên vật liệu nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Hữu Mạnh và
thầy giáo Đinh Hoài Nam, các thầy giáo trong khoa Luật Kinh tế và các bộ xã viên của
hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến đã hết sức giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
Hà Nội, ngày tháng năm 2007
SINH VIÊN THỰC HIỆN
Đới Ích Vũ

- Trang 2 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
Chương I
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
NHẬP KHẨU
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
Trong Điều kiện quốc tế hóa đời sống ngày càng cao, sự phân công lao động
quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tham gia vào quá
trình liên kết và hợp tác kinh tế. Bởi vì quá trình đó không thể diễn ra ở một quốc gia mà
phải tiến hành trên bình diện quốc tế. Đặc biệt, muốn phát triển nhanh thì mỗi quốc gia
không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng tất cả các thành
tựu khoa học, kỹ thuật, kinh tế mà loài người đã đạt được để thông thương, buôn bán
trao đổi lẫn nhau. Vì thế mỗi quốc gia sẽ phải mua về những thứ không tự sản xuất được
từ những nước khác, đồng thời bán những sản phẩm tự sản xuất được cho những nước
có nhu cầu. Hoạt động này được gọi là hoạt động thương mại quốc tế..
Nhu cầu hoạt động ngoại thương thực chất là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ giữa các quốc gia trên thế giới. Nếu xem kinh tế ngoại thương là một tổng thể
thì xuất nhập khẩu chính là cốt lõi của tổng thể đó. Vì thế hoạt động ngoại thương ra đời
và phát triển cùng với sự phát triển về nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Mặt
khác, nhập khẩu là một trong những phương thức tiếp thu những thành tựu khoa học và
công nghệ của thế giới một cách nhanh chóng nhất và tạo ra cơ sở cho sự phát triển công
nghệ hạ tầng và là một trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách thương mại.
1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu có một vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển nền kinh
tế của một đất nước. Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu tạo ra một lượng ngoại tệ rất lớn
nhằm giúp cho việc nhập khẩu các mặt hàng cần thiết để phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bởi vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất
yếu để phát triển nền kinh tế của nước nhà. Để có thể thực hiện được công cuộc này, cần
thiết phải có công nghệ khoa học kỹ thuật, thiết bị máy móc tiên tiến. Một phương pháp
nhanh nhất để có những công nghệ máy móc này là nhập khẩu từ các nền công nghiệp

- Trang 3 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
tiên tiến. Có nhiều nguồn lực để có thể nhập khẩu các phương tiện máy móc kỹ thuật và
một trong những nguồn lực quan trọng nhất đó chính là kết quả thu được từ hoạt động
xuất khẩu. Thứ hai, hoạt động xuất khẩu sẽ giúp cho hàng hoá trong nước có cơ hội gia
nhập thị trường thế giới, tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển. Thứ ba, hoạt động xuất khẩu có tác động tích cực đến việc
giải quyết công việc, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.Bởi vì, việc sản xuất các
mặt hàng xuất khẩu sẽ thu hút rất nhiều lao động đến làm việc, làm giảm bớt tình trạng
thất nghiệp, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và tạo ra thu nhập không nhỏ cho
người dân. Mặt khác, xuất khẩu mặt hàng này sẽ tạo ra nguồn lực để nhập khẩu mặt
hàng khác mở rộng và đáp ứng ngày một phong phú nhu cầu tiêu dung của người dân.
Thứ tư, hoạt động xuất khẩu là cơ sở, tiền đề mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
của một quốc gia. Bởi vì xuất khẩu và quan hệ kinh tế đối ngoại tác động qua lại và phụ
thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy các quan hệ khác
mở rộng và phát triển như quan hệ về tín dụng, đầu tư, bảo hiểm quốc tế, …
Có thể thấy rằng hoạt động xuất khẩu là một vấn đề kinh tế mang tính chiến lược
để phát triển nền kinh tế của một quốc gia.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Khi đề cập đến vai trò của hoạt động xuất khẩu, không thể không nói đến hoạt
động nhập khẩu. Vai trò của hoạt động nhập khẩu là vô cùng quan trọng. Thứ nhất, hoạt
động nhập khẩu sẽ làm tăng số lượng và chất lượng của các mặt hàng trên thị trường
trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Thứ hai, nhập
khẩu để mang lại cho người tiêu dùng những mặt hàng trong nước không thể sản xuất ra
được, các mặt hàng mà khi nhập khẩu sẽ có lợi hơn khi sản xuất ra ở trong nước cũng
như các mặt hàng mà trong nước sản xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng
phong phú và đa dạng của người tiêu dùng. Thứ ba, hoạt động nhập khẩu mang lại cho
một quốc gia một công nghệ khoa học hiện đại, tiên tiến phục vụ tốt cho quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thứ tư, hoạt động xuất khẩu giúp cho việc sản xuất ở
trong nước ngày càng phát triển, không ngừng nâng cao mẫu mã và chất lượng sản phẩm

để có thể cạnh tranh với các mặt hàng nhập khẩu. Như vậy, hoạt động nhập khẩu nếu
- Trang 4 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
được Điều chỉnh hợp lý sẽ góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển của một nền kinh tế,
tăng thu nhâp cho người dân, sử dụng có hiệu quả khả năng sản xuất trong nước, giải
quyết tốt chính sách lao động xã hội, …
II. HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU
1. Khái niệm
Trong hợp đồng mua bán nói chung, luôn luôn có ít nhất hai chủ thể, đó là người
mua và người bán. Theo khoản 8 Điều 3 của luật Thương mại năm 2005 thì “mua bán
hàng hoá” là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận.
Cũng theo Điều 28 của luật Thương mại 2005 thì: “xuất khẩu hàng hoá” là việc
hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên
lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật. Còn
“nhập khẩu hàng hoá” là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài
hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng
theo qui định của pháp luật.
Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hoá chính là hợp đồng mua bán hàng hoá.
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hoá, do
đó nó mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hoá. Ngoài hợp đồng này
còn có thêm yếu tố quốc tế - là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia nên nó còn
phải thoả mãn một số yêu cầu do yếu tố này đòi hỏi. Một số công ước quốc tế đã định
nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hoá có yếu tố quốc tế như sau:
Theo Điều 1 - Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế những động sản
hữu hình: “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hoá trong
đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được chuyển từ
nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết
được thiết lập ở các nước khác nhau”.

Theo Điều 1 - Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế:
- Trang 5 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
“Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các
bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”.
Như vậy, có thể thấy những biểu hiện chủ yếu của yếu tố nước ngoài trong hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế là:
•Các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các thương nhân
có quốc tịch khác nhau và có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau;
•Hàng hoá - đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới quốc gia hoặc
giai đoạn chào hàng và chấp thuận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác
nhau;
•Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền sở hữu và nghĩa vụ phát sinh từ việc
chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác
nhau;
•Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải là ngoại tệ
đối với ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng;
•Luật Điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các Điều ước quốc tế và các tập quán
quốc tế khác về thương mại và hàng hải.
2. Đặc điểm
So với hợp đồng mua bán trong nước, hợp đồng xuất nhập khẩu có nhiều điểm
khác biệt đặc trưng. Điều làm nên sự khác biệt đó chính là tính quốc tế của hợp đồng
xuất nhập khẩu. Điểm khác biệt như sau:
2.1. Chủ thể
Chủ thể tham gia hợp đồng xuất nhập khẩu có thể khác nhau theo các định nghĩa
khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Theo công ước Viên: “Chủ thể tham gia hợp
đồng là những bên tham gia ký kết hợp đồng có trụ sở thương mại hay có nơi cư trú
thường xuyên ở các nước khác nhau”. Theo luật Thương mại Việt Nam năm 2005:
“Chủ thể tham gia hợp đồng là những thương nhân mang quốc tịch khác nhau”. Thương
nhân theo luật Thương mại Việt Nam được qui định trong Điều 6 của luật này là “ cá

nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại
- Trang 6 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
một cách độc lập, thường xuyên”
2.2. Đối tượng hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu là hàng hoá. Đối tượng của hợp đồng
được qui định khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Khoản 2 Điều 3 luật Thương
mại Việt Nam 2005: “a. Hàng hoá là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành
trong tương lai. b. Hàng hoá còn là những vật gắn liền với đất đai”. Có thể thấy luật
Thương mại Việt Nam 2005 Điều chỉnh không chỉ bó hẹp ở các động sản mà còn cả các
động sản. Còn các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển
hàng hoá, thanh toán, bảo hiểm, … thì không thuộc phạm vi Điều chỉnh của luật này.
Đây cũng là một hạn chế khiến cho Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi hội nhập WTO.
Hàng hoá, đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể được di chuyển ra khỏi
biên giới của một quốc gia. Thực tế thì Điều kiện này cũng cho thấy sự khác biệt giữa
hợp đồng xuất nhập khẩu với một hợp đồng kinh tế nói chung, ví dụ như hợp đồng mua
bán ký kết giữa một xí nghiệp trong khu chế xuất với một xí nghiệp ngoài khu chế xuất
được pháp luật coi là hợp đồng xuất nhập khẩu, nhưng hàng hoá của hợp đồng đó không
di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
2.3. Đồng tiền thanh toán
Đối với hợp đồng mua bán trong nước thì đồng tiền thanh toán thường là nội tệ.
Trong hợp đồng xuất nhập khẩu các bên có thể lựa chọn đồng tiền thanh toán theo thoả
thuận của các bên ghi trong hợp đồng, có thể là đồng tiền của nước xuất khẩu, của nước
nhập khẩu hoặc nước thứ ba. Tuy nhiên từ lúc ký kết đến khi thanh lý hợp đồng thường
là một quãng thời gian khá dài, vì vậy có thể phát sinh tranh chấp trong việc thanh toán
do chênh lệch tỷ giá hối đoái.
2.4. Luật áp dụng
Nguồn luật Điều chỉnh đối với hợp đồng xuất nhập khẩu có thể là luật của bên
bán, luật của bên mua, cũng có thể là luật của nước thứ bat rung gian hoặc là áp dụng
một công ước quốc tế như công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá

quốc tế. Ngoài ra hợp đồng xuất nhập khẩu còn chịu sự Điều chỉnh của tập quán thương
- Trang 7 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
mại quốc tế và thậm chí là án lệ quốc tế (tiền lệ pháp). Để tránh hiện tượng “xung đột
pháp luật” - là hiện tượng có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể cùng tham gia
Điều chỉnh một quan hệ pháp luật - thì các bên phải thống nhất dẫn chiếu một nguồn luật
Điều chỉnh cụ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng.
3. Nguồn luật Điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu
Trước khi giao kết một hợp đồng xuất nhập khẩu, các chủ thể luôn phải tìm hiểu
trong hoàn cảnh đó hợp đồng qui định họ có những quyền và nghĩa vụ gì, như thế nào?
Nếu một hợp đồng xuất nhập khẩu không chặt chẽ thì khả năng xảy ra tranh chấp là rất
lớn, các bên dễ vi phạm hợp đồng. Trên thực tế, một hợp đồng xuất nhập khẩu dù được
soạn thảo hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu cũng không tiên liệu trước được mọi tình huống
có thể phát sinh trong quá trình thực hiện. Khi đó, những vấn đề phát sinh sẽ dựa vào cơ
sở nào để giải quyết nếu như trong hợp đồng không qui định hoặc qui định không đầy
đủ. Nếu là hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thì thông thường luật quốc gia là cơ
sở. Nhưng nếu là hợp đồng xuất nhập khẩu thì không đơn giản. Để giải quyết vấn đề
này, theo sự thoả thuận của các bên tham gia hợp đồng, nguồn luật Điều chỉnh có thể là
luật quốc gia, luật quốc tế, tập quán thương mại quốc tế hay tiền lệ pháp (án lệ) về
thương mại.
3.1. Luật quốc gia
Luật quốc gia ở đây được hiểu là toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia. Ví
dụ: Nếu pháp luật Việt Nam được áp dụng thì không chỉ áp dụng luật Thương mại mà là
toàn bộ pháp luật Thương mại, rộng hơn nữa là toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng xuất nhập khẩu trong các trường hợp:
•Nếu Điều ước quốc tế mà quốc gia của chủ thể tham gia ký kết hoặc thừa nhận có
qui định về Điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng mua bán ngoại thương, thì luật đó
đương nhiên được áp dụng mà không phụ thuộc vào sự đàm phán và thoả thuận của các
chủ thể.
•Các bên thoả thuận trong hợp đồng xuất nhập khẩu cho phép áp dụng luật quốc

gia.
- Trang 8 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
•Nếu các bên không đạt được bất kỳ một thoả thuận nào về luật áp dụng thì cơ
quan thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ tự mình lựa chọn luật áp dụng căn cứ vào qui
phạm xung đột của nước mình.
•Trường hợp do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau mà các bên
có thể thoả thuận lựa chọn luật áp dụng sau khi ký hợp đồng hoặc thậm chí sau khi đã
phát sinh tranh chấp (khi đó các bên vẫn có quyền thoả thuận đưa tranh chấp ra xét xử
theo trình tự trọng tài và quyết định áp dụng luật quốc gia nào để giải quyết tranh chấp
mà hợp đồng chưa qui định về cơ quan giải quyết tranh chấp).
•Có một vấn đề cần lưu ý là là tất cả các nước trên thế giới đều không cho phép áp
dụng pháp luật nước ngoài khi có lý do phải bảo vệ trật tự công cộng nước mình dù qui
phạm xác định dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
Luật quốc gia được các bên lựa chọn có thể là luật nước người bán, nước người
mua, luật của nước thứ ba hoặc luật của bất kỳ nước nào khác có quan hệ với hợp đồng,
chẳng hạn như luật của nơi ký hợp đồng, nơi thực hiện nghĩa vụ, …
Khi lựa chọn pháp luật của một nước thứ ba, phải có hiểu biết về luật pháp của
nước đó. Cần phải biết luật đó bảo vệ quyền lợi của người bán, người mua, luật đó có
trái với chế độ chính trị hay vi phạm quyền lợi của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng hay
không.
Ở Việt Nam, luật quốc gia có liên quan đến hợp đồng ngoại thương nói chung và
hợp đồng xuất nhập khẩu nói riêng là luật Thương mại 2005, bộ luật Hàng hải, bộ luật
Dân sự 2005, luật thuế xuất nhập khẩu, … Ngoài ra còn hàng loạt các nghị định, nghị
quyết, qui định, thông tư như NĐ số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 1 năm 2006, NĐ số
19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 2 năm 2006, NĐ số 72/2006/NĐ-CP ngày 25/7/2006
nhằm qui định hoặc chi tiết hoá hướng dẫn việc thi hành các bộ luật này.
3.2. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là sự thoả thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế mà chủ yếu là
giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập những qui tắc pháp lý

bắt buộc để ấn định, thay đổi hoặc hoặc từ bỏ quyền và nghĩa vụ với nhau. Điều ước
- Trang 9 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
quốc tế về thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong việc ký kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế, nó là cơ sở pháp lý quan trọng đối với hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế được thiết lập giữa các doanh nghiệp của các quốc gia đó, là cơ sở
để tăng cường mối quan hệ thương mại trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể mà các quốc
gia tham gia vì mục đích tăng cường hợp tác thúc đẩy phát triển kinh tế.
Mặc dù vậy, trong tư pháp quốc tế, Điều ước quốc tế không phải là nguồn luật
chủ yếu chiếm ưu thế, vì để ký kết một Điều ước quốc tế cần có những điểm tương đồng
về lợi ích trên cơ sở tương quan lực lượng giữa các quốc gia và còn những trở ngại về
phong tục tập quán, nhưng đây là cách hữu hiệu nhất để giải quyết xung đột pháp luật,
chúng có tác động chủ đạo và trực tiếp đối với hoạt động ngoại thương.
Điều ước quốc tế có thể phân chia thành Điều ước song phương và Điều ước đa
phương hoặc cũng có thể phân chia thành Điều ước quốc tế Điều chỉnh trực tiếp và Điều
ước quốc tế Điều chỉnh gián tiếp.
Đối với Điều ước quốc tế không Điều chỉnh trực tiếp hợp đồng mua bán ngoại
thương không qui định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng mà chỉ Điều
chỉnh ở tầm vĩ mô nhưng cũng là cơ sở để ký kết. Bao gồm các hiệp định thương mại.
Nội dung của các Điều ước này chỉ định nguyên tắc áp dụng pháp lý chung giữa các
quốc gia. Bao gồm chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, chế độ đãi ngộ quốc gia, chế độ ưu đãi
thuế quan phổ cập, nguyên tắc có đi có lại, …
Đối với các Điều ước Điều chỉnh trực tiếp như công ước Viên 1980, công ước
Lahayer, … Sau khi đã tham gia Điều ước quốc tế, các quốc gia thành viên phải thi hành
Điều ước quốc tế có giá trị áp dụng bắt buộc trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia đó. Các qui
phạm luật quốc gia ban hành phải phù hợp với Điều ước quốc tế (nguyên tắc nội luật
hoá).
3.3. Tập quán thương mại quốc tế
Tập quán thương mại là những thói quen thương mại được lặp đi lặp lại trong
một thời gian dài được nhiều nước công nhận và áp dụng rộng rãi trong những hoạt động

thương mại nhất định. Thông thường thói quen thương mại được công nhận là tập quán
- Trang 10 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
thương mại quốc tế khi thoả mãn Điều kiện:
•Thói quen được phổ biến được áp dụng thường xuyên và có tính chất ổn định.
•Thói quen duy nhất về từng vấn đề ở từng địa phương, từng quốc gia hay trong
từng khu vực.
•Thói quen có nội dung cụ thể rõ ràng dựa vào đó có thể xác định được quyền và
nghĩa vụ của các bên.
Tập quán thương mại quốc tế trở thành nguồn luật để Điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hoá ngoại thương trong các trường hợp sau:
•Được các bên thoả thuận trong hợp đồng sẽ áp dụng.
•Được qui định trong Điều ước quốc tế.
•Hoặc trong trường hợp hợp đồng không có qui định gì vấn đề đang tranh chấp và
Điều ước quốc tế liên quan với luật quốc gia được dẫn chiếu không qui định gì.
Điều 13 luật Thương mại Việt Nam 2005 qui định: “Trong trường hợp pháp luật
không có qui định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen đã được thiết lập
giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên
tắc qui định trong luật này và trong bộ luật Dân sự”.
Tập quán thương mại quốc tế chung và phổ biến là: Điều kiện thương mại quốc tế
(Incoterms 2000), Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP 500), Qui
tắc về nhờ thu (URC).
Tập quán thương mại quốc tế là tập quán thương mại được nhiều nước công nhận
và áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi, nhiều khu vực. Trong các hợp đồng xuất nhập khẩu
thường dẫn chiếu tới tập quán thương mại quốc tế trong Incoterms do Phòng Thương
mại và Công nghiệp quốc tế biên soạn vào năm 1936, sửa đổi bổ sung vào các năm
1953, 1967, 1980, 1990 và gần đây nhất là Incortems năm 2000 - qui định về Điều kiện
giao hàng, bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên, như: chi phí trong giao nhận hàng
hoá giữa các bên, thời điểm chuyển rủi ro từ người bán sang người mua. Ngoài ra người
ta còn áp dụng Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) do phòng

Thương mại và Công nghiệp quốc tế ban hành.
3.4. Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại
- Trang 11 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
Tiền lệ pháp về bản chất là việc sử dụng các phán quyết đã tuyên bố trước đây
của toà án hoặc trọng tài trên cơ sở phân tích và vận dụng nó như một cơ sở pháp lý để
các cơ quan tư pháp giải quyết tranh chấp về sau. Đối với một số quốc gia thì tiền lệ
pháp không được coi là nguồn của pháp luật, nhưng đối với một số nước như Anh, Mỹ
thì tiền lệ pháp được coi là một nguồn quan trọng của pháp luật.
Việt Nam không thừa nhận tiền lệ pháp, nhưng đối với hợp đồng xuất nhập khẩu
nó có thể trở thành luật áp dụng nếu một trong hai nước mà chủ thể mang quốc tịch coi
án lệ là một nguồn của pháp luật và luật áp dụng trong hợp đồng là luật của quốc gia coi
án lệ là nguồn của pháp luật. Tuy nhiên việc sử dụng án lệ không được trái với nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
III. KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU THEO
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Giao kết hợp đồng xuất nhập khẩu
1.1. Nguyên tắc giao kết
Hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết dựa trên những nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc tự do, tự nguyện: Hợp đồng là sự thoả thuận và thống nhất ý chí của
các bên tham gia xác lập quan hệ hợp đồng, do đó việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
phải dựa trên cơ sở ý chí tự do của các bên tham gia hợp đồng. Các bên tham gia hợp
đồng có quyền bày tỏ ý kiến của mình, không chịu áp đặt ý chí của bất kỳ cơ quan, tổ
chức hay cá nhân nào. Nguyên tắc này loại bỏ tất cả các hợp đồng được ký kết trên cở sở
dùng bạo lực, bị đe dọa, bị lừa bịp hoặc do có sự nhầm lẫn. Do vậy, tự nguyện là nguyên
tắc cơ bản bắt buộc phải tuân thủ khi các bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng.
Nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi: Có nghĩa là các bên tham gia hợp đồng
hoàn toàn bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa vụ. Điều này thể hiện ở chỗ khi
đàm phán ký kết hợp đồng các bên đều có quyền đưa ra những ý kiến của mình và đều
có quyền chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bên kia mà không bên nào ép

buộc bên nào. Trong quan hệ hợp đồng kinh tế, quyền và nghĩa vụ phải cân bằng nhau
- Trang 12 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
và các bên tham gia hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm với nhau về việc thực hiện
nghĩa vụ của mình.
Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập
giữa các bên: Trừ trường hợp đã có thỏa thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp
dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các
bên đã biết hoặc phải biết nhưng không trái với qui định của pháp luật.
Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng: Các bên tham gia
hợp đồng phải có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hóa
và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông
tin đó. Bên cạnh các bên đó còn phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của
hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh.
Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động
thương mại: Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các Điều
kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo qui định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp
lý đương nhiên trong văn bản.
1.2. Giao kết hợp đồng xuất nhập khẩu
Để đưa ra một bản hợp đồng hợp lý, đảm bảo quyền lợi các bên, các bên thường
phải trải qua một quá trình thương lượng, đàm phán. Có thể trực tiếp và gián tiếp với
nhiều phương thức khác nhau, có thể bằng thư từ, điện thoại, fax, … Mỗi phương thức
có ưu nhược điểm nhất định. Vì vậy tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để lựa chọn
phương thức thích hợp. Việc ký kết theo phương thức gián tiếp hay trực tiếp thường tuân
theo những bước nhất định tùy theo nguồn luật Điều chỉnh.
2. Điều kiện ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng xuất nhập khẩu
2.1. Chủ thể của hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu là các thương nhân có trụ sở thương mại ở
những nước khác nhau.
- Trang 13 -

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
Chủ thể bên Việt Nam là thương nhân được phép hoạt động thương mại theo qui
định của Điều 6 luật Thương mại Việt Nam 2005. Thương nhân Việt Nam được phép
xuất nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ hàng hóa
thuộc danh mục cấm xuất nhập khẩu, tạm ngừng xuất nhập khẩu theo qui định Điều 3
NĐ số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 qui định chi tiết thi hành luật
Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán,
gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài.
Hoạt động xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp đã có đăng ký
kinh doanh (theo luật Doanh nghiệp) và đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu tại
Cục Hải quan tỉnh, thành phố.
2.2. Hình thức hợp đồng
Theo qui định tại Điều 24 của luật Thương mại Việt Nam 2005: “hợp đồng xuất
nhập khẩu có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành
vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật qui định phải được
thành lập thành văn bản thì phải tuân theo các qui định đó”. Điều này qui định giống với
Công ước Viên 1980, theo tinh thần nội luật hóa quốc tế.
Văn bản ở đây được hiểu bao gồm: Văn bản hợp đồng hoặc là các tài liệu giao
dịch khác. Các tài liệu giao dịch phải có sự xác nhận nội dung trao đổi, thỏa thuận như
công văn, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận. Theo khoản 15 Điều 3 luật
Thương mại qui định: “Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo,
telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo qui định của pháp luật”. Các
bên tham gia hợp đồng có thể ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu theo hai cách:
Trực tiếp: Hợp đồng xuất nhập khẩu được hình thành sau khi các bên trực tiếp
gặp gỡ, đàm phán, thỏa thuận với nhau các Điều khoản của hợp đồng. Hợp đồng phát
sinh hiệu lực khi các bên cùng thể hiện thống nhất bằng cách cùng ký và đóng dấu vào
bản dự thảo hợp đồng.
Gián tiếp: Đây là hình thức ký kết được các bên trao đổi, thống nhất từng vấn đề
thông qua thư từ, điện thoại, fax, internet, …, trong đó ghi rõ nội dung công việc cần
giao dịch. Một hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết theo phương thức gián tiếp bao

- Trang 14 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
gồm hai giai đoạn:
Đề nghị lập hợp đồng: Bên đề nghị đưa ra những Điều khoản chủ yếu của hợp
đồng, thể hiện trong bản chào hàng hoặc chào mua hàng, đề nghị giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa trong một thời gian nhất định, để bên được đề nghị xem xét quyết định lập
hợp đồng. Đề nghị lập hợp đồng phải xác định Điều kiện để sự tuyên bố hủy bỏ đề nghị
hợp đồng có hiệu lực.
Chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng: Nếu chấp nhận dứt khoát vô Điều kiện đề
nghị ký kết hợp đồng thì hợp đồng coi như được ký kết. Nếu sửa đổi một số Điều kiện
trong đơn đề nghị thì coi như đã từ chối việc ký kết hợp đồng và đưa ra một lời chào
hàng mới gửi tới cho đối tác. Hợp đồng chỉ được coi là ký kết khi một trong hai bên
chấp nhận vô Điều kiện bản chào hàng mà bên kia gửi tới.
2.3. Đối tượng hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng phải là hàng hóa được phép xuất nhập khẩu theo các văn
bản pháp luật hiện hành. Doanh nghiệp không được phép xuất khẩu những mặt hàng
cấm xuất nhập khẩu. Nếu đối tượng của hợp đồng là loại hàng hóa Nhà nước hạn chế
lưu thông, thì loại hợp đồng này thường bị Nhà nước quản lý chặt chẽ về số lượng và địa
chỉ tiêu thụ, việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải tuân theo pháp luật hiện hành.
Điều này được qui định trong NĐ số 19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 02 năm 2006 qui
định chi tiết luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa.
2.4. Nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng bao gồm những Điều khoản mà theo luật Thương mại
Việt Nam 2005 qui định phải có: Tên hàng, số lượng, qui cách, chất lượng, giá cả,
phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao nhận hàng.
2.4.1. Tên hàng
Trong hợp đồng phải đưa vào Điều khoản tên hàng về mô tả hàng hóa, tên hàng
kèm theo địa danh sản xuất, tên hàng theo công dụng của nó. Tùy theo mỗi đối tượng
của hợp đồng mà các bên chọn cách ghi tên hàng cụ thể khi ký kết hợp đồng.
2.4.2. Số lượng

- Trang 15 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
Điều khoản về số lượng cần ghi chính xác số lượng hàng hóa có thể qui định về
số lượng hàng hóa kèm theo độ dung sai. Do tính phức tạp của hệ thống đo lường được
áp dụng trong thương mại quốc tế, các bên ký kết cần phải thỏa thuận và chọn áp dụng
những đơn vị tính phổ biến và dễ hiểu để tránh những hiểu lầm đáng tiếc trong các giao
dịch của mình.
2.4.3. Qui cách, chất lượng
Các bên của quan hệ hợp đồng có thể thỏa thuận lựa chọn việc xác định qui cách,
chất lượng của hàng hóa theo một trong các cách thức sau:
Mua hàng hóa theo phẩm cấp hoặc tiêu chuẩn. Các phẩm cấp tiêu chuẩn, ví dụ
như ISO 9001, TCVN, … là cơ sở để xác định chất lượng hàng hóa.
Mua hàng theo catologue cho đặc thù của loại hàng hóa mà các bên có thể thỏa
thuận chọn cách thức mua bán theo catalogue và catalogue này được giữ làm cơ sở để so
sánh với chất lượng hàng hóa được giao.
Mua bán hàng hóa theo mẫu: Người bán có nghĩa vụ phải giao hàng cho người
mua đúng mẫu. Mẫu hàng sẽ là cơ sở để làm đối chứng với hàng phải bảo quản lưu giữ
theo nguyên tắc chọn ba mẫu như nhau, do bên bán, bên mua và bên thứ ba cất giữ. Tất
cả các mẫu này đều phải có xác nhận của các bên, được niêm phong và bảo quản theo
đúng yêu cầu kỹ thuật đối với mẫu.
2.5.4. Giá cả
Khi định giá hàng trong hợp đồng mua bán cần nêu rõ: đơn vị tính giá và phương
pháp tính giá. Về phương pháp tính giá trong Điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, nói
chung thì phương pháp định giá như thế nào cho phù hợp với giá cả thị trường để bên
mua có thể chấp nhận được. Đề phòng sự mất giá của tiền, cần qui định về Điều khoản
đảm bảo giá trị đồng tiền trong thời hạn giao hàng nhất định để thanh toán, Điều khoản
bảo lưu về giá cả để phòng tránh rủi ro khi có sự tăng giá kể từ khi hợp đồng đã được
xác lập cho đến khi các bên thực hiện hợp đồng.
2.5.5. Phương thức thanh toán
Tùy theo tính chất đối tượng của hợp đồng và các quan hệ chi trả, hai bên thỏa

- Trang 16 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
thuận và ghi vào trong hợp đồng với các hình thức như: thanh toán bằng đổi hàng, ủy
nhiệm chi (chuyển tiền), bằng sec, bằng thư tín dụng, … và hai bên phải thỏa thuận ngay
từ đầu thanh toán bằng tiền Việt Nam hay ngoại tệ nào. Về thời gian thanh toán có thể
căn cứ vào thời gian và phương thức giao hàng. Văn bản luật áp dụng là luật Thương
mại Việt Nam 2005,
2.5.6. Địa điểm và thời gian giao nhận hàng
Thời gian giao nhận hàng là thời gian mà một bên tham gia hợp đồng phải hoàn
thành nghĩa vụ giao nhận hàng cho bên kia. Thời gian giao nhận hàng có thể được các
bên qui định là giao nhận hàng trong khoảng thời gian nhất định, giao một lần, giao một
chuyến, giao thành nhiều chuyến, hoặc thời hạn cuối cùng mà hàng phải giao xong.
Địa điểm giao nhận hàng cần được xác định rõ trong hợp đồng mua bán và địa
điểm này thường tùy thuộc vào Điều kiện cơ sở. Nội dung này được qui định trong Điều
35 và 37 luật Thương mại Việt Nam 2005.
3. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu
3.1. Nguyên tắc thực hiện
Sau khi hợp đồng đã được xác lập và có hiệu lực pháp lý, hợp đồng trở thành
luật, các bên tự nguyện thực hiện các nhiệm vụ đã thỏa thuận trong quá trình thực hiện
hợp đồng và các bên tuân thủ những nguyên tắc sau:
Thực hiện hợp đồng một cách trung thực theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất
cho các bên bảo đảm tin cậy lẫn nhau.
Thực hiện đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương
thức và các thỏa thuận khác.
Không xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của
người khác.
3.2. Nội dung thực hiện
Sau khi hợp đồng xuất nhập khẩu đã được ký kết, các bên cần phải thực hiện hợp
đồng đó. Đây là công việc hết sức phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ Luật quốc gia và
Luật quốc tế. Để thực hiện một hợp đồng xuất nhập khẩu các bên phải tiến hành những

- Trang 17 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
giai đoạn sau:
3.2.1. Xin giấy phép xuất nhập khẩu
Giấy phép xuất nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lý xuất
nhập khẩu. Vì thế sau khi ký hợp đồng xuất nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy phép
xuất nhập khẩu để thực hiện hợp đồng. Ngày nay, trong xu thế tự do hóa mậu dịch,
nhiều nước giảm bớt số mặt hàng cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu chuyến. Hiện
nay ở nước ta, việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu được phân công như sau:
Bộ Thương mại (các phòng cấp giấy phép) cấp những giấy phép xuất nhập khẩu
hàng mậu dịch, nếu hàng đó phải xin giấy phép theo luật định.
Tổng cục hải quan cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng phi mậu dịch.
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất nhập khẩu một hoặc
một số mặt hàng với một nước nhất định, Chuyên chở bằng một phương thức vận tải và
giao nhận tại một cửa khẩu nhất định. Đơn xin giấy phép phải được chuyển đến Phòng
cấp giấy phép của bộ Thương mại.
3.2.2. Mở tín dụng thư (thông thường là L/C nếu hợp đồng qui định)
Sau khi xin giấy phép xuất nhập khẩu nếu trong hợp đồng qui định việc thanh
toán bằng thư tín dụng thì người mua ở nước ngoài phải tiến hành mở L/C theo đúng
thời hạn qui định trong hợp đồng.
3.2.3. Thuê tàu lưu cước, mua bảo hiểm hàng hóa
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu, việc thuê tàu chở hàng dựa
vào ba căn cứ sau: Những Điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc điểm hàng mua
bán và Điều kiện vận tải. Ví dụ nếu Điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng mua bán
xuất khẩu là CIF, nhập khẩu là FOB thì chủ hàng xuất nhập khẩu phải thuê tàu để chở
hàng.
Mặt khác hàng đi trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm
hàng hóa đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Các chủ hàng
xuất nhập khẩu của Việt Nam, khi mua bảo hiểm đều mua tại các công ty của Việt Nam.
Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao, hoặc hợp đồng bảo hiểm chuyến.

- Trang 18 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
3.2.4. Thủ tục hải quan
Tất cả các hàng hóa xuất nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc là thủ tục
hải quan phải gồm các bước:
Khai báo hải quan
Xuất trình hàng hóa
Thực hiện các quyết định của hải quan.
3.2.5. Giao nhận hàng và kiểm tra hàng hóa
Đối với việc giao nhận hàng nhập khẩu, các cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp
nhận hàng hóa nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng
hóa trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hóa đó trong quá
trình xếp dỡ, lưu bãi, và giao cho các doanh nghiệp đã nhập hàng hoặc các đơn vị nhận
hàng theo sự ủy quyền của doanh nghiệp đã nhập hàng đó, sau khi hoàn thành thủ tục hải
quan.
Do đó, đơn vị nhận kinh doanh nhập khẩu phải, hoặc trực tiếp hoặc thông qua một
đơn vị nhận ủy thác giao nhận thư tiến hành:
Ký kết hợp đồng ủy thác giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu.
Xác nhận với ga, cảng kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu từng năm, từng qúi,
lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, Điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển, giao nhận.
Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng nếu cơ quan vận tải
không giao những tài liệu đó.
Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu về dự kiến ngày
hàng về, ngày thực tế tàu chở hàng về đến cảng hoặc ngày to axe chở hàng về sân ga
giao nhận.
Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản chi phí về giao nhận, bốc xếp, bảo
quản và vận chuyển hàng nhập khẩu.
Theo dõi giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản về đổ vỡ, thiếu
hụt, mất mát hàng hóa và giải quyết trong phạm vi những vấn đề xảy ra trong việc giao
nhận.

- Trang 19 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
3.2.4. Thanh toán
Trong hợp đồng xuất nhập khẩu, các bên tham gia hợp đồng chấp nhận thanh
toán theo các phương thức sau:
Phương thức chuyển tiền (Remittance): Người mua thông qua ngân hàng gửi tiền
trả cho người bán. Loại này ít được dùng trong thanh toán quốc tế, vì việc trả tiền phụ
thuộc vào thiện chí của người mua, bởi phương thức trả tiền này không đảm bảo quyền
lợi của người bán.
Phương thức thanh toán bằng cách ghi sổ (Open Account): Được thực hiện bằng
cách người xuất khẩu mở một tài khoản, trên đó ghi các khoản tiền mà người nhập khẩu
nợ tiền mua hàng hay các khoản chi phí khác liên quan đến việc mua hàng. Người nhập
khẩu định kỳ thanh toán khoản nợ hình thành trên tài khoản của người xuất khẩu.
Phương thức nhờ thu (Collection of Payment): Là người bán, sau khi thực hiện
nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng thì ký phát hối phiếu đòi
tiền người mua, rồi đến ngân hàng nhờ thu hộ mình số tiền ghi trên hối phiếu đó.
Phương thức tín dụng chứng từ: Là phương thức thanh toán theo thỏa thuận,
trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của một khách hàng sẽ trả tiền cho người thứ ba
hoặc trả bất kỳ người nào theo lệnh của người thứ ba đó hoặc sẽ trả, chấp nhận, mua hối
phiếu do người hưởng lợi phát hành hoặc cho phép một ngân hàng khác trả tiền, chấp
nhận hoặc mua hối phiếu khi xuất trình đầy đủ các chứng từ đã qui định và mọi Điều
kiện đặt ra đều được thực hiện đầy đủ.
Phương thức uỷ thác thu mua (Authority to Purchase - A/P): Là do ngân hàng
nước người mua viết cho ngân hàng ở nước ngoài theo yêu cầu của người mua yêu cầu
ngân hàng này thay mặt để mua hối phiếu của người bán ký phát cho người mua mà trả
tiền hối phiếu, ngân hàng bên mua thu tiền của người mua và giao chứng từ cho họ.
Thư bảo đảm tiền (Letter of Guarantee - L/C): Ngân hàng bên mua, theo yêu cầu
của người mua viết cho người bán một cái thư, gọi là “ thư bảo đảm trả tiền”, bảo đảm
sẽ trả tiền hàng sau khi hàng của bên bán đã đến địa điểm mà các bên qui định.
4. Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng xuất nhập khẩu

- Trang 20 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
4.1. Các yếu tố cấu thành trách nhiệm
Muốn kết luận một bên có vi phạm hợp đồng hay không, cần phải xem xét các
yếu tố:
Có hành vi vi phạm hợp đồng.
Có thiệt hại thực tế về tài sản.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế.
4.2. Các hình thức trách nhiệm
4.2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Theo Điều 297 luật Thương mại Việt Nam 2005 qui định: “Buộc thực hiện đúng
hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc
dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu mọi chi
phí phát sinh”.
Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp
đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
Trường hợp bên vi phạm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại
trừ khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung
ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác
chủng loại, loại dịch vụ khác thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm.
Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo qui định tại khoản 2 Điều
này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để
thay thế theo đúng chủng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải
trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có, có quyền tự sửa chữa khuyết
tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.
Điều này được qui định giống với trong công ước Viên.
4.2.2. Phạt vi phạm
Theo Điều 300 luật Thương mại: “Phạt vi phạm là việc bên có quyền lợi bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu
- Trang 21 -

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ trường hợp miễn trách nhiệm qui định tại Điều 294
của bộ luật này”. Quyền đòi tiền phạt vi phạm phát sinh do các hành vi:
Không thực hiện hợp đồng.
Thực hiện không đúng hợp đồng.
4.2.3. Bồi thường thiệt hại
Theo Điều 302 luật Thương mại Việt Nam 2005: “Bồi thường thiệt hại là việc
bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị
vi phạm.”. Điều 303 của bộ luật này cũng qui định căn cứ để bồi thường thiệt hại:
Có hành vi vi phạm hợp đồng.
Có thiệt hại thực tế.
Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
4.2.4. Hủy hợp đồng
Đây là chế tài nặng nhất khi có hành vi vi phạm hợp đồng mà không thể dung hòa
được, hợp đồng đã giao kết không thể thực hiện được do hành vi vi phạm gây ra. Nội
dung này được qui định ở các Điều 49 khoản 1a, 1b; Điều 64 khoản 1a, 1b; Điều 25 của
công ước Viên cũng như ở Điều 312 luật Thương mại Việt Nam 2005. Hậu quả pháp lý
do hủy hợp đồng gây ra (Điều 314 luật này):
Hợp đồng không có hiêu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục
thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và
nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng; nếu các bên có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện
đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ
phải hoàn trả bằng tiền.
Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo qui định của luật này.
4.3. Các trường hợp được miễn trách nhiệm
Văn bản số 421 của Phòng thương mại và công nghiệp quốc tế, một bên được
miễn trách nhiệm về việc không thực hiện toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của mình nếu
- Trang 22 -

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
bên đó chứng minh được rằng:
Do một trở ngại ngoài sự kiểm soát của bên thực hiện.
Bên đó không thể lường trước một cách hợp lý trở ngại đó.
Bên đó không thể tránh hoặc khắc phục một cách hợp lý các trở ngại đó.
Việc miễn trách nhiệm cho một bên hợp đồng được qui định rất cụ thể tại Điều 79
công ước Viên 1980. Theo Điều 296 luật Thương mại Việt Nam 2005, có ba trường hợp
miễn trách:
Trường hợp bất khả kháng.
Lỗi của bên kia (trái chủ) hoặc bên thứ ba.
Các trường hợp miễn trách do hai bên thỏa thuận.
4.2.1. Trường hợp bất khả kháng
Là những sự kiện khách quan xảy ra ngoài ý muốn và dự kiến của các bên trong
thời gian thực hiện hợp đồng, khi sự kiện đó xảy ra dù đã làm hết khả năng của mình
nhưng vẫn không thể khắc phục được.
4.2.2. Lỗi của bên kia hoặc của bên thứ ba
Nếu lỗi trái chủ là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp gây nên sự vi phạm hợp
đồng của thụ trái thì thụ trái được miễn trách nhiệm. Trong trường hợp này, để được
miễn trách nhiệm, thụ trái phải chứng minh được lỗi của trái chủ là nguyên nhân chủ yếu
và trực tiếp dẫn đến vi phạm hợp đồng của mình.
Lỗi của người thứ ba: Khi lỗi của người thứ ba là nguyên nhân trực tiếp và chủ
yếu dẫn đến việc vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm cũng được miễn trách nhiệm nếu
chứng minh được điều đó là thực tế.
4.2.3. Trường hợp do hai bên thỏa thuận
Bên vi phạm sẽ không chịu trách nhiệm trong trường hợp hợp đồng qui định được
miễn trách nhiệm, hoặc do các bên thống nhất thỏa thuận.
5. Giải quyết tranh chấp
Theo Điều 317 luật Thương mại Việt Nam 2005: “Hình thức giải quyết tranh
- Trang 23 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45

chấp có các hình thức như sau:
Thương lượng giữa các bên.
Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa
thuận chọn làm trung gian hòa giải.
Giải quyết tại Trọng tài hoặc tòa án.”
5.1. Giải quyết tranh chấp do thương lượng giữa các bên
Khi phát sinh tranh chấp, các bên tự nguyện và nhanh chóng liên hệ, gặp gỡ với
nhau để thương lượng tìm cách tháo gỡ bất đồng với mục đích chung là giữ gìn mối
quan hệ kinh doanh tốt đẹp và lâu dài giữa họ.
Thương lượng được tiến hành độc lập hoặc cùng với quá trình tố tụng tại Trọng
tài hoặc tòa án.
Đối với thương lượng độc lập: Kết quả thương lượng coi như một thỏa thuận mới
về tranh chấp, các bên phải thi hành tự nguyện.
5.2. Giải quyết tranh chấp do hòa giải
Hòa giải là một quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó
hòa giải viên là người thứ ba trung gian giúp các bên đạt được một sự thỏa thuận. Hòa
giải sẽ lập tức chấm dứt nếu hai bên không đạt được một sự thỏa thuận. Hiệu lực của
hòa giải chỉ giống như một điều khoản của hợp đồng ràng buộc các bên.
Khi hai bên không thể giải quyết những bất đồng của mình bằng thương lượng
hay hòa giải thì theo thỏa thuận của hợp đồng sẽ đưa ra Trọng tài hay tòa án giải quyết.
5.3. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài
Văn bản áp dụng: Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.
Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong
đó bên thứ ba trung lập sau khi nghe các bên trình bày sẽ ra một quyết định hợp đồng có
tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Trọng tài thương mại có ba đặc điểm:
Phải có sự thỏa thuận của các bên việc đưa tranh chấp ra xét xử bằng trọng tài.
Trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài sẽ đưa ra một bên quyết định, sau khi cân
- Trang 24 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đới Ích Vũ – LKD45
nhắc mọi chứng cứ và lập luận của các bên.

Các quyết định và phán quyết của trọng tài có thể được tòa án công nhận và cho
thi hành thông qua mọi thủ tục tư pháp.
Sau khi nhận được phán quyết của trọng tài, các bên thường tự nguyện thi hành vì
nhiều lý do: Muốn giữ quan hệ làm ăn lâu dài vì biết rằng ít có khả năng để tòa án xem
xét và thay đổi lại quyết định của trọng tài. Hiệu quả cuối cùng của trọng tài là phán
quyết trọng tài thì phải thi hành tại nước có tài sản để thi hành của bên thua.
Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban hành góp phần quan trọng vào việc thực
hiện tốt hơn sự công nhận và thi hành quyết định của trọng tài Việt Nam tại Việt Nam.
5.4. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tại Toà án
Văn bản áp dụng: Luật Thương mại 2005, luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2003, bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.
Tòa án không có thẩm quyền xét xử đương nhiên đối với một tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương vì một trong các bên đương sự là người nước
ngoài đối với bên kia. Tòa án chỉ có quyền giải quyết khi trong hợp đồng các bên thỏa
thuận giao cho tòa án giải quyết chứ không giao cho Trọng tài. Mặt khác, trong điều ước
quốc tế cũng không qui định giao cho Trọng tài giải quyết. Tòa án còn có thẩm quyền
giải quyết trong trường hợp điều ước quốc tế có liên quan qui định giao tranh chấp cho
tòa án giải quyết. Như vậy, muốn kiện tới tòa nào thì người đi kiện phải căn cứ vào hợp
đồng và điều ước quốc tế có liên quan.
Khi kiện tới tòa án cần lưu ý:
Luật áp dụng giải quyết tranh chấp là luật áp dụng cho hợp đồng và theo thủ tục
tư pháp của nước mà tòa án mang quốc tịch.
Xác định đúng thẩm quyền về người và thẩm quyền về việc của tòa án định chọn
đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
Việc xác định đúng thẩm quyền về người thường là điểm yếu của phương thức giải
quyết tranh chấp bằng tòa án. Phương án tốt nhất là kiện ở nơi mà tòa án có thể tìm thấy
được bị đơn.
Hiệu lực thi hành bản án ở các nước có liên quan đến vụ kiện, tính khách quan của
- Trang 25 -

×