Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

BIẾN ĐỔI NGHI LỄ VÒNG ĐỜI NGƯỜI CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÀÔI, CƠ TU, BRU- VÂN KIỀU Ở BẮC TRUNG BỘ HIỆN NAY potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.51 KB, 9 trang )



185

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012


BIẾN ĐỔI NGHI LỄ VÒNG ĐỜI NGƯỜI CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TÀÔI, CƠ TU, BRU- VÂN KIỀU Ở BẮC TRUNG BỘ HIỆN NAY
Nguyễn Văn Mạnh

Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

Tóm tắt. Sau khi nêu lên tình hình dân số và phân bố dân cư các dân tộc Tàôi,
Cơtu, Bru - Vân Kiều ở Bắc Trung bộ và nội dung khái niệm chu kỳ vòng đời
người, tác giả tập trung giải quyết những nội dung chính sau đây:
- Thực trạng biến đổi nghi lễ vòng đời người.
- Tác động của sự biến đổi các nghi lễ vòng đời người.
- Những biện pháp bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống qua nghi lễ vòng đời người.
Những biến đổi trong nghi lễ vòng đời người của các dân tộc Tàôi, Cơtu, Bru –
Vân Kiều đã từng bước loại bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan và bổ sung
vào kho tàng văn hóa truyền thống những yếu tố văn hóa mới phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại, đồng thời những biến đổi đó còn mang đến những tác động
tích cực trong đời sống kinh tế góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao cuộc sống
của người dân.

Hiện nay, ở vùng núi Bắc Trung bộ, ngoài các dân tộc thiểu số nói ngôn ngữ Việt
– Mường, Tày – Thái, Mông – Dao, còn có bộ phận khá lớn các dân tộc nói ngôn ngữ
Môn – Khơmer, với 3 dân tộc: Tàôi, Cơtu và Bru – Vân Kiều. Người Tàôi phân bố chủ
yếu ở huyện Đăkrông (tỉnh Quảng Trị) và huyện A Lưới (tỉnh Thừa Thiên Huế) với số
lượng hơn 37.000 người, người Cơtu phân bố ở huyện Nam Đông (tỉnh Thừa Thiên


Huế) với khoảng 15.000 người, còn người Bru – Vân Kiều phân bố ở huyện Minh Hóa
và Bố Trạch (tỉnh Quảng Bình), huyện Hướng Hóa, Đăkrông (tỉnh Quảng Trị) và huyện
A Lưới (tỉnh Thừa Thiên Huế) với hơn 40.000 người.
1

Trong những năm gần đây, những thay đổi về dân cư, sự tác động của kinh tế thị
trường, của xu hướng hôn nhân khác tộc đã làm cho văn hóa truyền thống các dân tộc
Tàôi, Cơtu, Bru - Vân Kiều biến đổi sâu sắc về nhiều mặt; Trong những mặt biến đổi đó
có sự biến đổi về các nghi lễ vòng đời người.
Là một thành tố quan trọng của văn hóa tộc người, nghi lễ vòng đời người lưu
lại những chặng đường trưởng thành của mỗi một con người, “như hình thành trong bào
thai mẹ và được sinh ra, tuổi thanh xuân và lễ thành niên, hôn ước và lễ cưới, chết và


186

tang”
2
. Có thể nói nghiên cứu nghi lễ vòng đời người là nghiên cứu văn hóa tộc người,
kinh nghiệm tộc người, tri thức tộc người. Trải qua thời gian những nghi lễ đó có mặt
được duy trì, có mặt biến đổi theo xu hướng thích nghi, phù hợp với xã hội mới và có
thể một số mặt sẽ bị mất đi. Tuy nhiên, bất kỳ hiện tượng nào diễn ra quá trình biến đổi
cũng đều thể hiện hai xu hướng tích cực và tiêu cực; Biến đổi nghi lễ vòng đời người
cũng nằm trong xu hướng đó. Vì vậy, sẽ là công việc hết sức có ý nghĩa khi chúng ta
nghiên cứu sự biến đổi nghi lễ vòng đời người trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá
trị nhân văn sâu sắc đồng thời loại bỏ những mặt lạc hậu không phù hợp và tiếp nhận
những cái mới để bồi bổ thêm các giá trị truyền thống trong xã hội hiện đại. Đó chính là
mục đích của bài viết này.
1. Thực trạng biến đổi nghi lễ vòng đời người
Cũng như các tộc người khác trên đất nước ta, nghi lễ vòng đời người ở các dân

tộc Tàôi, Cơtu, Bru – Vân Kiều về cơ bản thể hiện qua các lễ nghi chính sau đây: Mang
thai, sinh đẻ, trưởng thành, hôn nhân, làm nhà, tang ma. Trong các nghi lễ đó tồn tại
nhiều tục lệ, kiêng kỵ, phòng ngừa mang nặng hình thức mê tín dị đoan, như tổ chức
cúng tế, bói toán trong sinh đẻ, làm nhà, tang ma, những Tabu (cấm kỵ) về máu của
người phụ nữ, nhất là trong quá trình sinh đẻ, không cho mang xác người chết bất đắc
kỳ tử vào làng, tổ chức lễ nghi cúng tế, ăn uống linh đình, tốn kém công sức tiền bạc
của người dân.
Trong những năm gần đây, nghi lễ vòng đời người truyền thống ở các dân tộc
Tàôi, Cơtu, Bru – Vân Kiều vẫn tồn tại nhưng đã có nhiều đổi mới theo xu hướng tích
cực; Tuy nhiên, cũng không ít sự biến đổi thể hiện một số mặt không bình thường phần
nào làm cho nét đẹp văn hóa truyền thống về nghi lễ vòng đời người bị xói mòn, pha tạp.
Chúng ta có thể biểu hiện sự biến đổi nghi lễ vòng đời người của các dân tộc
Tàôi, Cơtu, Bru – Vân Kiều qua bảng tổng hợp sau đây:
STT

Các nghi lễ
vòng đời
người
Truyền thống Hiện đại
1
Mang thai –
sinh đẻ và
chăm sóc trẻ sơ
sinh
- Khi mang thai, phụ nữ phải
kiêng nhiều thức ăn, như không
ăn thịt con thú rừng mắc bẫy,
không ăn thịt trăn, rắn, không ăn
quả, cử nằm ngược,
- Treo cành lá để báo hiệu nhà có

kiêng cử sinh đẻ.
- Quan niệm phụ nữ sinh con
trong nhà là nhơ bẩn, ô uế, nên
- Khi mang thai phụ nữ
vẫn ăn uống bình thường.
- Nhà không treo cành lá
để báo hiệu kiêng cử
sinh đẻ.
- Phụ nữ được sinh con
trong nhà và có sự chăm
sóc chu đáo của gia đình.


187

sinh con ngoài rừng hoặc dưới
sàn nhà.
- Chủ yếu sản phụ tự sinh con, tự
chăm sóc cho mình và con với
sự giúp đỡ của chồng.
- Nhiều lễ nghi liên quan đến
việc sinh đẻ: Lễ cúng cho người
lỡ sinh trong nhà, lễ cúng báo
hết cử rước sản phụ và con vào
nhà, lễ trình với Yàng với tổ tiên
sự có mặt của đứa trẻ, lễ đặt tên
cho trẻ…
- Trẻ em ốm đau, chậm lớn, chủ
nhà mời thầy mo về nhà cúng.
- Đến các cơ sở y tế,

bệnh viện để tiện chăm
sóc và sinh con.
- Các kinh nghiệm của
người dân về chăm sóc
sản phụ và trẻ nhỏ bị mai
một dần.
- Lễ nghi bớt rườm rà,
đông bào chỉ tiến hành lễ
đầy tháng, đầy năm cho
trẻ nhỏ.
- Trẻ ốm đau, chậm lớn
được mang đến bệnh
viện.
2 Trưởng thành
- Tuổi trưởng thành 13 tuổi với
nữ, 15 tuổi với nam.
- Điều kiện công nhận người
trưởng thành là phải trải qua
nghi thức “cà răng, căng tai”.
- Tuổi trưởng thành với
nam và nữ là từ 14 đến
15 tuổi.
- Điều kiện công nhận cá
nhân trưởng thành, bên
cạnh độ tuổi còn là trình
độ học vấn, năng khiếu,
vị trí xã hội…
3 Hôn nhân
- Trai gái tìm hiểu nhau qua tục
“đi sim”, với hình thức đến nhà

xu, hát trao duyên, thổi sáo, kèn
để tỏ tình…
- Lễ ăn hỏi với vai trò ông mai,
bà mối, tặng vật của nhà trai, các
món ăn truyền thống.
- Lễ cưới thường diễn ra vài ba
ngày với các lễ vật truyền thống,
như vải yèng, vòng cườm, lợn,
gà, rượu, gạo nếp… và với các
tục lệ trao kiếm, tục ăn cơm
chung, tục rửa chân, tục đạp
bếp…
- Tục “đi sim” với những
hình thức hát trao duyên,
vui chơi ở nhà xu bị mai
một dần, thay vào đó là
hình ảnh đôi nam nữ rũ
nhau vào rừng, gây sự lo
lắng, phản ứng của cha
mẹ và cộng đồng.
- Lễ ăn hỏi với vai trò
ông mai bà mối, lễ vật
truyền thống mất dần,
thay vào đó là vòng nhẫn
vàng như người Kinh.
- Lễ cưới (tục trao kiếm
không còn nữa), Lễ lại


188


- Lễ lại mặt : Sau 3 ngày nhà trai
và đôi vợ chồng trẻ phải sang
nhà gái làm lễ lại mặt với các lễ
vật, như lợn, gà, rượu, xôi…để
cúng tạ thần linh, tổ tiên nhà gái
và hai gia đình liên hoan vui vẻ.
Lễ khơi/ lễ tạ ơn : Lễ này được
tiến hành khi đôi vợ chồng sinh
con cái làm nên gia thất riêng ;
họ chọn ngày lành, tháng tốt làm
lễ khơi để tạ ơn ông bà, cha mẹ.
- Lễ vật trong hôn nhân hết sức
nặng nề, tốn kém, như lợn 2 con,
gà, rượu, gạo nếp, vải dzèng,
vòng cườm, tiền mừng
- Trang phục trong hôn nhân phổ
biến váy truyền thống.
- Khách đến dự lễ chỉ để chia
vui, ít tặng quà.
- Đám cưới diễn ra 2-3 ngày.
mặt, Lễ tạ ơn /lễ khơi lễ
vật nhẹ nhàng, đơn giản
hơn không mang tính bắt
buộc, nhiều lễ cưới cô
dâu, chú rễ được tặng
nhẫn vòng, hoa tai bằng
vàng, mặc trang phục
hiện đại như người Kinh
- Độ tuổi kết hôn theo

quy định của Nhà nước
18 tuổi trở lên, đã đến Uỷ
ban xã đăng ký kết hôn
trước khi tiến hành lễ
cưới.
- Trang phục bà con đến
dự lễ cưới hỗn hợp vừa
váy áo yèng, vừa quần bò
áo phông.
- Khách đến dự có quà,
phong bì tiền mừng đám
cưới như người Kinh
- Lễ cưới chỉ 1 ngày.
4 Làm nhà
- Lễ nghi chọn đất dựng nhà với
những kinh nghiệm dân gian,
như đất bằng, khô ráo, báo mộng
đẹp,
- Lễ nghi dựng nhà sàn với nhiều
kiêng kỵ, như kiêng dùng gỗ cụt
ngọn, gỗ có tổ kiến, tổ chim để
dựng nhà; phải dựng cột nhà
chính trước, chỉ có chủ nhà mới
được ngồi lợp phần mái trên cột
nhà chính,…
-Lễ nghi chuyển lên nhà mới
phải có Già làng cúng tế với sự
trợ giúp của trưởng họ và bà con
dân làng.
- Đất do Nhà nước cấp,

có sổ đỏ, không tự chọn
đất nên những kinh
nghiệm dân gian về chọn
đất làm nhà bị mai một.
- Lễ nghi dựng nhà, lễ
nghi chuyển lên nhà mới
đơn giản hơn trước;
không còn những kiêng
kỵ như trước về tìm gỗ,
chọn gỗ, nhiều nhà hiện
nay làm nhà trệt, xây
tường móng, có khi nhà
sàn nhưng cột bằng bê
tông cốt thép.


189

- Lễ vật tùy theo điều kiện từng
gia đình, nhưng bắt buộc phải có
gà trống, rượu, thịt thú rừng, cá
suối, rau củ rừng,
- Người chịu trách nhiệm
làm lễ cúng nhà mới là
chủ gia đình (thường là
người chồng), già làng và
trưởng họ được mời đến
dự lễ.
- Lễ vật đơn giản, vì
phạm vi thu hep trong

gia đình, dòng họ.
5 Tang ma
- Tang lễ cho người chết xấu,
như thú xé xác, gỗ đè, tự tử
đồng bào tổ chức đơn giản,
không mang thi thể người chết
xấu vào làng, không mai táng
cùng nghĩa địa cộng đồng,
- Tang lễ người chết bình
thường, như chết do đau ốm, già
yếu Đặt người chết theo chiều
ngang ngôi nhà, chân hướng ra
phía cửa sổ, trong lúc chưa mai
táng, con cháu đi vòng quanh
người chết, vừa đi vừa khóc lóc,
vừa dùng tay thọc gậy xuống sàn
nhà.
- Đồng bào có tục lệ cho thức ăn
vào miệng người chết khi chưa
khâm liệm.
- Tang ma thường đuợc tổ chức
từ 2 - 3 ngày với nhiều nghi lễ,
như lễ nghi chọn đất đào huyệt,
lễ nghi khâm liệm, đưa tang,
chôn cất, làm nhà mồ…
-Không tổ chức tảo mộ, không
lập bàn thờ, chỉ để một số kỹ vật
người chết vào một cái gùi nhỏ,
đặt gùi ở cạnh cột nhà chính,
không thăm viếng mồ mả sau

- Có quan niệm người
chết lành, người chết xấu
nhưng trong quá trình
tiến hành tang lễ không
phân biệt, không nghiêm
cấm đưa người chết xấu
vào nhà, vào làng, người
chết xấu cũng được mai
táng ở nghĩa địa của
làng.
- Nghi lễ cơ bản vẫn theo
truyền thống, nhưng một
số tục lệ, như con cháu đi
vòng quanh người chết
vừa khóc vừa thọc gậy
xuống sàn nhà, hoặc tục
lệ cho thức ăn vào miệng
người chết khi chưa
khâm liệm không còn
nữa.
- Đã có nhiều gia đình tổ
chức thăm viếng, chăm
sóc mồ mả tổ tiên sau khi
chôn cất vào dịp lễ tết và
lập bàn thờ tổ tiên trong
nhà, phổ biến kết hợp thờ
Bác Hồ.
-Tang ma rút gọn chỉ 1 -
2 ngày.



190

khi chôn cất.
-Lễ nghi cải táng, lễ nghi làm
nhà mồ (Người Bru-Vân Kiều
không có lễ nghi này).
-Người chết thường để 3 đến 4
ngày mới đi chôn.
2. Tác động của sự biến đổi các nghi lễ vòng đời người
Rõ ràng nghi lễ vòng đời người của các dân tộc Tàôi, Cơtu, Bru - Vân Kiều đang
ngày càng biến đổi mạnh mẽ theo xu hướng phát triển của xã hội. Trong đó, có những
biến đổi mang tính tích cực và cũng có những biến đổi mang tính tiêu cực; cụ thể :
- Mặt tích cực :
Trong mang thai - sinh con, phụ nữ hiện nay mỗi khi sinh đẻ không còn sinh ngoài
chòi, ở trong rừng hoặc dưới nhà sàn nữa, họ đã được sinh ở nhà, ở tại các cơ sở y tế.
Việc chăm sóc con cái và bà mẹ trước, trong, sau khi sinh không còn phụ thuộc
vào các lễ cúng để bắt ma, trừ tà của các thầy mo như trước, thay vào đó khi sản phụ, trẻ
nhỏ đau ốm, họ được đưa đến bệnh viện để khám và chữa trị.
Trong lĩnh vực hôn nhân, tiêu chí chọn bạn đời của các dân tộc Tàôi, Cơtu, Bru -
Vân Kiều đã ít nhiều có những biến đổi nhất định, nếu như trước đây tiêu chuẩn chọn
người bạn đời đối với nam giới là ngoại hình cân đối, có sức khỏe, có nhiều kinh
nghiệm trong lao động, dũng cảm, đối với nữ giới là siêng năng, chăm làm, hiền lành,
nết na, có tài nội trợ, có ngoại hình cân đối, hát hay múa giỏi thì ngày nay bên cạnh
những tiêu chí đó đã xuất hiện những tiêu chí mới như phải có nghề nghiệp, có trình độ
học vấn đối với cả nam và nữ [3, tr. 239]. Đó là một dấu hiệu đáng mừng. Sự biến đổi
trong hôn nhân còn thể hiện ở chỗ đồng bào đã từng bước làm quen với những chính
sách của Nhà nước về độ tuổi trong hôn nhân và đã tuân thủ nguyên tắc đăng ký kết hôn
tại chính quyền Ủy ban xã trước khi tiến hành lễ cưới. Hiện tượng đòi lễ vật thách cưới,
hôn nhân gả ép, nạn tảo hôn, hôn nhân mua bán hầu như không còn diễn ra. Ngày nay,

thanh niên nam nữ được tự do yêu đương, chủ động trong hôn nhân của mình.
Tang ma là một lĩnh vực mang nhiều hủ tục nặng nề nhất, ngày nay đã có những
thay đổi rất lớn thể hiện trên nhiều khía cạnh, như các lễ nghi phiền phức, lễ vật nặng nề
đã được hạn chế, việc dời bỏ làng khi liên tiếp có các trường hợp chết xấu đã được khắc
phục, việc để người chết trong nhà không còn dài ngày như trước, việc phù phép xua
đuổi ma quỷ, chặn đường không cho linh hồn người chết về quậy phá con cháu không
còn nữa,
Những thay đổi đó từng bước làm chuyển biến nhận thức của đồng bào, góp phần
xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người dân theo hướng văn minh hiện đại.


191

- Mặt tiêu cực :
Bên cạnh những mặt tích cực như trên, sự biến đổi về nghi lễ vòng đời người
của các dân tộc Tàôi, Cơ-tu, Bru - Vân Kiều cũng không tránh khỏi những mặt tiêu cực.
Ví như tục tình tự đêm hay tục đi sim - một hình thức tìm hiểu tỏ tình của các đôi trai
gái hết sức nhẹ nhàng, lãng mãn, đến nay đã không còn được duy trì nữa [2, tr. 64]; giờ
đây bị giới trẻ lạm dụng trở thành mối lo ngại cho cộng đồng, làng bản, cho các bậc làm
cha, làm mẹ. Trong hôn nhân, nếu như trước đây nam nữ thường tặng cho nhau vòng
bạc, chuỗi cườm, bạc trắng [2, tr. 56]; thì này nay đã xuất hiện các vật dụng mới dùng
để làm quà như đồng hồ, kẹp tóc, các loại trang sức bằng bạc, vàng đắt tiền, đã không
chỉ làm mất đi những giá trị văn hóa vật thể truyền thống của đồng bào mà còn làm
thương mại hóa lễ vật trong hôn nhân. Trong lễ cưới hiện nay trang phục truyền thống,
tục lệ uống rượu cần, nam nữ hát đối đáp trao duyên dần thay bằng trang phục cả sản
phẩm yèng, cả quần bò áo phông, cả rượu cần, rượu trắng, cả bia, cả múa hát theo
những làn điệu truyền thống cả dàn loa phóng thanh, nhạc rốc cạch cởm, lai căng.
Sự biến đổi theo xu hướng đơn giản các lễ vật, lễ nghi trong sinh đẻ, hôn nhân,
làm nhà, tang ma một mặt làm cho các nghi lễ bớt đi tính rườm rà tốn kém về tiền bạc
công sức và thời gian của người dân, nhưng mặt khác làm cho những phong tục tập

quán mang đậm tính nhân văn dần bị mai một, lãng quên và tất yếu đời sống văn hóa
của đồng bào mặt nào đó càng trở nên “ nghèo” đi. Đây là một bài toán khó cho Đảng
và Nhà nước ta trong việc đổi mới và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
3. Những biện pháp bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống qua nghi lễ vòng đời
người
Để có thể bảo tồn được những giá trị văn hóa truyền thống mang đậm tính nhân
văn thể hiện qua nghi lễ vòng đời người của các dân Tàôi, Cơtu, Bru - Vân Kiều thiết
nghĩ chúng ta cần làm tốt những biện pháp như sau:
Thứ nhất, phải tiếp tục nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào các
dân tộc Tàôi, Cơtu, Bru - Vân Kiều. Tạo điều kiện cho các đồng bào dù ở vùng xa xôi,
hẻo lánh vẫn có thể tiếp cận được với các phương tiện thông tin hiện đại. Tiếp tục đưa
các hoạt động thông tin, tuyên truyền về tận thôn làng, nhằm giáo dục nâng cao nhận
thức của người dân, bài trừ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống văn
minh, gia đình văn hóa, làng văn hóa.
Tuy nhiên, việc vận động đồng bào phải nắm vững nguyên tắc tự nguyện, tránh
trường hợp bà con bị cưỡng ép mệnh lệnh. Bởi vì phong tục, tập quán là những vấn đề
liên quan đến cộng đồng, ăn sâu trong tiềm thức con người khó thay đổi. Chỉ khi nào tư
tưởng của người dân nâng cao, nhận thức được những thủ tục lạc hậu và chỉ khi đó cuộc
vận động mới đem lại kết quả tốt.


192

Thứ hai, phải làm tốt việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống thể
hiện qua lễ tục vòng đời người bằng cách xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở làm công tác
tuyên truyền, giáo dục rộng rãi cho đồng bào về ý thức giữ gìn văn hóa truyền thống,
như trong lễ cưới, nên sử dụng trang phục cổ truyền vốn rất đẹp của đồng bào, hay cần
loại bỏ những việc ăn uống linh đình, say sưa trong lễ cưới. Những quy tắc về hôn nhân
cũng cần được vận động để đổi mới theo xu hướng mở rộng quan hệ hôn nhân giữa các

dân tộc, các vùng miền, đảm bảo cho thanh niên nam nữ tìm hiểu yêu đương và lựa
chọn bạn đời.
Nghi lễ tang ma của người Tàôi, Cơtu, Bru - Vân Kiều tuy ít biến đổi, nhưng lại
là nghi lễ nặng nề, tốn kém và chứa nhiều hủ tục lạc hậu. Cần có đội ngũ cán bộ cơ sở
vận động bà con trong cộng đồng đơn giản hóa các nghi lễ tang ma, giảm bớt những lễ
nghi phiền phức, tốn kém, nhiều khi không hợp vệ sinh, tổ chức những tang lễ trang
nghiêm phù hợp với đời sống mới, đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu tình cảm, tín
ngưỡng của người dân…
Thứ ba, nâng cao trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc Tàôi, Cơtu, Bru -
Vân Kiều. Đây là một biện pháp cực kỳ quan trọng nếu không nói là quan trọng nhất,
bởi lẽ trình độ nhận thức ảnh hưởng quyết định đến việc tiếp thu cái mới, cái tiến bộ.
Thực tế nhận thức được cái xấu cần loại bỏ, cái hay cần học tập trong các nghi lễ vòng
đời người là một điều không đơn giản, vì đồng bào Tàôi, Cơtu, Bru- Vân Kiều đã từ lâu
quen sống với những phong tục tập quán cũ, trình độ mù chữ còn phổ biến trong lớp
người lớn tuổi. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của đồng bào trong việc xóa
bỏ những hủ tục lạc hậu, tiếp thu cái mới phù hợp với thời đại.
Bên cạnh đó, việc nâng cao dân trí của người dân phải đi liền với hoạt động
truyền thông phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đẩy
mạnh phổ biến luật hôn nhân – gia đình, nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản, giảm
bớt những lễ nghi rườm rà tốn thời gian, tiền bạc cuả nhân dân…
Và cuối cùng trong giai đoạn hiện nay, cần tăng cường mối quan hệ giữa các
dân tộc thiểu số với nhau và giữa các dân tộc thiểu số với người Kinh. Trong quá trình
mở rộng mối quan hệ đó, đồng bào các dân tộc Tàôi, Cơtu, Bru- Vân Kiều có điều kiện
nhìn nhận những cái không phù hợp, lỗi thời trong các lễ tục vòng đời người của dân
tộc mình. Hơn thế nữa, mở rộng mối quan hệ đó, các dân tộc có điều kiện hỗ trợ, bổ
sung những cái hay, cái đẹp trong các lễ tục vòng đời người của từng dân tộc, từng
vùng cho nhau.
Tóm lại, những biến đổi trong nghi lễ vòng đời người của các dân tộc Tàôi, Cơtu,
Bru – Vân Kiều đã mang đến những tác động sâu sắc về nhiều mặt, không chỉ trên lĩnh
vực văn hóa xã hội mà còn trên lĩnh vực kinh tế. Những biến đổi đó đã từng bước loại

bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan và bổ sung vào kho tàng văn hóa truyền thống
những yếu tố văn hóa mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đồng thời những


193

biến đổi đó còn mang đến những tác động tích cực trong đời sống kinh tế các dân tộc
Tàôi, Cơtu, Bru – Vân Kiều, góp phần giảm bớt những kiêng kỵ, nghi lễ rườm rà, tốn
kém để người dân tập trung vào lao động sản xuất, xoá đói giảm nghèo, nâng cao cuộc
sống của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Minh Chi, Nhân học văn hoá, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
2. Nguyễn Xuân Hồng, Hôn nhân – Gia đình – Ma chay của người Tàôi, Cơtu, Bru – Vân
Kiều ở Quảng Trị - Thừa Thiên Huế, Sở Văn hóa Thông tin Quảng Trị xuất bản, 1998.
3. Nguyễn Văn Mạnh (Cb), Luật tục của người Tà-ôi, Cơ-tu, Bru – Vân Kiều ở Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2001.
4. Nguyễn Văn Mạnh, Xu hướng biến đổi văn hóa các tộc người thiểu số ở Thừa Thiên
Huế trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 3, (2010), 3-9.

CHANGING THE LIFE CYCLE CEREMONY OF ETHNIC MINORITIES
TAOI, KATU, BRU- VANKIEU IN NORTH CENTRAL
Nguyen Van Manh

College of Sciences, Hue University

Abstract. After raising the status of the population and population distribution of
ethnic minorities - Katu, Bru-Van Kieu, Taoi in the North Central and their
concepts on the life cycle, the authors focuses on the followings:
- Status of the transformation of life cycle rituals.
- The impact of the changing of life cycle rituals.

Changes in the life-cycle ritual of the ethnic minorities Katu, Bru-VanKieu and
Taoi, have gradually eliminated the superstitions and added some new cultural
elements to the traditional cultural treasures for the adaption of the new
development, and those changes also brought about a positive impact on the
economic life, thus contributing to poverty reduction and improving people's lives.

×