Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.24 KB, 67 trang )

Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi theo hướng kinh tế thị
trường, mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực cũng như toàn cầu. Hệ thống doanh
nghiệp không ngừng được đổi mới và phát triển theo hướng đa dạng hóa các loại
hình doanh nghiệp, loại hình cơng ty và hình thức sở hữu. Với trên 30 năm xây
dựng, phát triển và trưởng thành, đến nay Viglacera đã trở thành một Tổng công ty
hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và đầu tư kinh doanh hạ tầng
công nghiệp và dân dụng. Các sản phẩm của Viglacera không những nổi tiếng ở
trong nước mà đã đi đến nhiều Quốc gia trên thế giới. Viglacera cịn được biết đến
là một Tổng cơng ty mạnh trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng khu
công nghiệp và khu đô thị.
Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội là một trong 31 đơn vị thành viên của
Tổng công ty Viglacera, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, gạch
trang trí. Đặc trưng của ngành vật liệu xây dựng là một ngành kinh tế thâm hụt vốn,
các tài sản của nó là những tài sản nặng vốn và chi phí cố định của ngành khá cao.
Để đảm bảo cho sự ra đời, tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải có các yếu
tố cơ bản cho việc thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các yếu tố chính
của các hoạt động sản xuất kinh doanh đó là: Vốn, lao động và tài nguyên. Trong
đó: Vốn là yếu tố quan trọng nhất của quá trình hình thành và phát triển doanh
nghiệp. Khi một doanh nghiệp hạn chế về vốn sẽ dẫn đến hạn chế về khả năng mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng cường năng lực công nghệ…và sẽ dẫn đến
hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc gia nhập nền kinh tế thị trường
đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp.

Học viên: Hoàng Thị Bình Minh

1


CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tăng
cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội” làm nội dung nghiên
cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận vốn, nguồn vốn và phương thức huy động vốn kinh

doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
-

Phân tích đánh giá thực trạng huy động vốn của Công ty những năm qua, làm

rõ những thành công và hạn chế hoạt động huy động vốn của Công ty cổ phần
Viglacera Hà Nội.
-

Từ đó đề xuất giải pháp tăng cường huy động vốn của Công ty cổ phần

Viglacera Hà Nội.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
-

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về vốn,


nguồn vốn, phương thức huy động và thực trạng huy động vốn của công ty cổ phần
Viglacera Hà Nội.
-

Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần

Viglacera.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê, so sánh, điều tra, phân tích
đánh giá tổng hợp, hệ thống hóa để đánh giá thực trạng huy động vốn tại Công ty cổ
phần Viglacera Hà Nội.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận
văn được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp
Học viên: Hồng Thị Bình Minh

2

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Chương 2: Thực trạng huy động vốn của công ty cổ phần Viglacera Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn cho công ty cổ phần Viglacera Hà
Nội.

Học viên: Hồng Thị Bình Minh


3

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn trong
doanh nghiệp
1.1. Vốn trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường được hiểu là một tổ chức kinh tế,
có đủ tư cách pháp nhân được tổ chức ra để thực hiện kinh doanh trên một lĩnh vực
nhất định với mục đích cơng ích hoặc thu lợi nhuận.
Để đảm bảo cho sự ra đời, tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải có các yếu
tố cơ bản cho việc thực hiện các hoạt động kinh doanh. Các yếu tố chính của các
hoạt động kinh doanh đó là: Vốn, lao động và tài nguyên. Trong đó, vốn là yếu tố
quan trọng nhất của quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp. Vốn luôn
là yếu tố cơ bản, cần thiết, không thể thiếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt
với các câu hỏi về nguồn tài trợ lấy từ đâu, cách thức huy động như thế nào, chi phí
phải trả bao nhiêu…Vốn được coi là nhân tố đầu tiên khởi động toàn bộ quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là điều kiện không thể thiếu được để một
doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Vốn trong doanh nghiệp có thể được hiểu chính là biểu hiện bằng giá trị của
các tài sản trong doanh nghiệp và các tài sản đó phải được sử dụng nhằm mục đích
tạo ra lợi nhuận.
1.1.2. Đặc trưng nguồn vốn trong doanh nghiệp
Một là, vốn phải đại diện cho một lượng tài sản (nguyên liệu, máy móc thiết
bị, chất xám, thông tin…). Tài sản ở tạng thái tĩnh chỉ là vốn tiềm năng, tài sản hoạt

động mới là vốn kinh doanh, điều này có nghĩa là: Vốn là một bộ phận của tài sản,

Học viên: Hồng Thị Bình Minh

4

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

nhưng khơng phải tồn bộ tài sản là vốn. Nói cách khác vốn chính là biểu hiện về
mặt giá trị của những tài sản hữu hình và tài sản vơ hình.
Hai là, vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng được. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
phải cần vốn nhưng vốn phải được tích tụ, huy động đủ đảm bảo cho yêu cầu sản
xuất kinh doanh, đặc biệt vốn lớn sẽ thực hiện được các chiến lược phát triển sâu
rộng nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Ba là, vốn phải được gắn với chủ sở hữu nhất định. Nghĩa là vốn phải có chủ
mới đảm bảo quản lý và chi tiêu hợp lý, có hiệu quả. Việc phân định rõ chủ sở hữu
thực sự về vốn đang là vấn đề quan tâm nhằm tăng cường thu hút vốn nhàn rỗi từ
dân cư, các tổ chức trong và ngoài nước vào các hoạt động đầu tư.
Bốn là, vốn được quan niệm là hàng hóa đặc biệt, tức là có giá trị và giá trị
sử dụng. Giá trị của hàng hóa vốn chính là giá trị của bản thân nó, cịn giá trị sử
dụng của nó là thơng qua mua bán trên thị trường mà thực chất là mua quyền sử
dụng vốn, sau q trình sử dụng hàng hóa vốn sẽ tạo ra một giá trị sử dụng lớn hơn.
Năm là, vốn phải được vận động sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền,
nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó
phải được vận động sinh lời. Đồng tiền sau quá trình chuyển hóa vận động trở về
nơi xuất phát sẽ mang lại giá trị lớn hơn. Đó là nguyên lý của đầu tư, sử dụng và

bảo tồn vốn. Vì vậy, đồng tiền bị ứ đọng, tài nguyên, sức lao động, tài sản cất
giữ…khơng được sử dụng thì chỉ là những đồng vốn “chết”. Nhận thức được vấn đề
này các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để cho đồng vốn sinh lời và tránh ứ đọng.
Sáu là, vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong nền kinh tế thị trường vốn gắn
với những thời gian nhất định, sức mua của đồng tiền ở những thời điểm khác nhau
cũng sẽ khác nhau.

Học viên: Hồng Thị Bình Minh

5

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Tóm lại, việc hiểu đúng vấn đề về vốn trong nền kinh tế thị trường thông qua
một số đặc trưng cơ bản về vốn giúp cho các doanh nghiệp khai thác triệt để, quản
lý và sử dụng có hiệu quả vốn huy động cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên
cơ sở đó bảo tồn và phát triển vốn, nâng cao lợi ích tối đa hóa lợi nhuận.
1.1.3. Phân loại nguồn vốn trong doanh nghiệp
Dựa vào những tiêu thức phân loại khác nhau, nguồn vốn trong doanh nghiệp
được phân chia thành các bộ phận khác nhau, một số cách phân loại phổ biến hiện
nay gồm:


Căn cứ vào thời gian sử dụng: nguồn vốn được chia thành nguồn vốn

ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
-


Vốn ngắn hạn: là vốn có thịi hạn dưới 1 năm. Bao gồm tín dụng

thương mại, các khoản chiếm dụng về tiền lương, tiến thuế, tín dụng ngắn hạn ngân
hàng và các khoản phải trả khác,...
-

Vốn dài hạn: là vốn có thời hạn trên 1 năm. Bao gồm tín dụng ngân

hàng dài hạn, phát hành trái phiếu, huy động vốn góp cổ phần, liên doanh, bổ sung
từ lợi nhuận không chia,...

-

Căn cứ theo tính chất luân chuyển vốn: Vốn cố định, vốn lưu động.
Vốn cố định: là phần vốn dùng để đầu tư vào tài sản cố định của doanh

nghiệp. Đây là các tài sản có thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản
suất kinh doanh, thường có giá trị lớn.
-

Vốn lưu động: là phần vốn dùng để đầu tư vào tài sản lưu động của

doanh nghiệp. Tài sản lưu động là các tài sản có thời gian sử dụng ngắn, thường
tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và có giá trị nhỏ.


Căn cứ vào quyền sở hữu đối với khoản vốn sử dụng: nguồn vốn được

chia thành vốn chủ sở hữu và nợ.


Học viên: Hoàng Thị Bình Minh

6

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

-

Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc về các chủ sở hữu của doanh nghiệp.

Gồm: vốn góp ban đầu, lợi nhuận khơng chia, vốn do phát hành cổ phiếu mới,...
-

Nợ phải trả là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có

trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân trong nền kinh tế trong quá trình kinh
doanh bao gồm các khoản chiếm dụng và nợ vay.
1.2. Các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp
Cách phân loại phổ biến hiện nay là chia nguồn vốn thành vốn chủ sở hữu và
nợ. Vì nó cho phép doanh nghiệp xác định được cơ cấu vốn của mình đồng thời
thuận lợi hơn trong xây dựng và lựa chọn phương thức huy động vốn và sử dụng
vốn hiệu quả, đáp ứng được mục tiêu đề ra.
Các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp:
1.2.1. Phương thức huy động nguồn vốn chủ sở hữu
1.2.1.1. Tăng vốn góp
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ cũng có một số vốn nhất định. Tùy

thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà có những hình thức khai thác làm tăng nguồn
vốn góp ban đầu. Đối với DNNN, vốn góp ban đầu là vốn đầu tư của Nhà nước.
Đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đơng đóng góp là yếu tố quyết định để hình
thành cơng ty. Mỗi cổ đơng là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm
hữu hạn trên giá trị số cở phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, có nhiều dạng cơng ty cổ
phần nên cách thức huy động vốn cũng khác nhau. Trong loại hình các doanh
nghiệp khác như cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty có vốn đầu tư trực tiếp từ
nước ngồi các nguồn vốn góp cũng bao gồm: vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, vốn
do các bên tham gia, các đối tác góp…Tỷ lệ và quy mơ góp vốn của các bên tham
gia cơng ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như đặc điểm ngành nghề kinh
doanh, cơ cấu liên doanh giữa các bên…

Học viên: Hồng Thị Bình Minh

7

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

1.2.1.2. Tăng nguồn vốn từ lợi nhuận khơng chia
Trong q trình sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng nguồn vốn hoạt động.
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận khơng chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia - nguồn vốn nội bộ là một phương thức
tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh
nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc bên ngồi. Để có nguồn vốn này
thì các doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu có một khối lượng lợi nhuận đủ lớn để bù

đắp chi phí đã bỏ ra, từ đó mới tự đáp ứng được nhu cầu vốn tự bổ sung của doanh
nghiệp.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như
doanh nghiệp đã, đang hoạt động có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Với các
doanh nghiệp Nhà nước, việc tái đầu tư phụ thuộc vào khả năng sinh lời của doanh
nghiệp và chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Đối với các công ty cổ
phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi doanh
nghiệp quyết định để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, có nghĩa
doanh nghiệp khơng dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đơng khơng
được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng thay vào đó, họ có quyền sở hữu số vốn
cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên
cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này khuyến khích cổ đơng giữ
cổ phiếu lâu dài, nhưng về trước mắt dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu do cổ
đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số
lãi rịng khơng đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm.
1.2.1.3. Tăng vốn góp bằng phát hành cổ phiếu mới

Học viên: Hồng Thị Bình Minh

8

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh thì doanh nghiệp có thể tăng
vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút
toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với vốn của tổ
chức phát hành. Việc phát hành cổ phiếu được thực hiện ở các công ty cổ phần.

Phát hành cổ phiếu là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp, bao gồm có phát
hành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong
hai công cụ trên hoặc phối hợp cả hai để đem lại hiệu quả tốt nhất cho doanh
nghiệp.
1.2.2. Phương thức huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp
Ngoài việc tăng vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể sử dụng
nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu,
huy động vốn từ thị trường tài chính,...
Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Để huy
động được vốn từ các thị trường này, doanh nghiệp cần thơng qua các trung gian tài
chính.
1.2.2.1. Phương thức huy động vốn từ các trung gian tài chính
Trung gian tài chính đảm nhiệm chức năng trung chuyển tư bản giữa các chủ
thể tiết kiệm và những người sử dụng vốn. Các trung gian tài chính khơng chỉ phục
vụ như những người hỗ trợ giữa các chủ thể tiết kiệm và những người sử dụng vốn
mà còn tập trung những khoản tiết kiệm của nhiều người, nhiều doanh nghiệp và
nhiều tổ chức trong nền kinh tế, tạo thành những nguồn tài chính có quy mơ lớn.
Đây là một trong những nguồn huy động vốn cơ bản của doanh nghiệp.
Các trung gian tài chính có thể được phân chia thành một số loại như sau:


Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là loại định chế tài chính

lớn nhất trong các trung gian tài chính. Các ngân hàng thương mại là nơi nhận tiền
gửi thông qua việc mở các tài khoản tiết kiệm và tài khoản tiền gửi không kỳ hạn,
Học viên: Hồng Thị Bình Minh

9

CH K16_ĐH KTQD



Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

thực hiện các nghiệp vụ tài trợ, bảo lãnh, thanh toán phục vụ các doanh nghiệp và
cá nhân. Ngân hàng sử dụng phần lớn lượng tiền huy động được để đầu tư vào các
loại chứng khoán có tính thanh khoản cao như cơng trái quốc gia, trái phiếu kho
bạc, trái phiếu cơng ty,…Duy trì một lượng tiền mặt ở mức đủ để bảo đảm thanh
khoản, thực hiện các giao dịch cho các doanh nghiệp và cá nhân vay.
Có một thực tế là để huy động vốn từ việc vay ngân hàng, doanh nghiệp cần
phải có tài sản hoặc các loại giấy tờ có giá trị khác để thế chấp. Điều này sẽ gây khó
khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thêm vào đó,
việc huy động vốn từ ngân hàng cũng khơng linh hoạt bằng một số định chế tài
chính khác như các công ty đầu tư mạo hiểm, hoặc các cơng ty cho th tài chính.


Hiệp hội tiết kiệm và cho vay: Là loại trung gian tài chính chuyên thu

hút tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân để cho vay dài hạn nhằm tài trợ mua nhà ở,
bất động sản hoặc các loại hàng hóa tiêu dùng lâu bền. Tuy nhiên, các hoạt động tài
trợ của hiệp hội này thường được cho vay dưới hình thức cầm cố.
Chính hình thức cho vay này sẽ gây ra một số khó khăn cho các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì các doanh nghiệp này thường
khơng có nhiều tài sản để thế chấp.


Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ: Là loại trung gian tài chính có rất nhiều

đặc điểm tương đồng với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay. Ngân hàng thu hút tiền
gửi của công chúng và chủ yếu cho các doanh nghiệp, các cá nhân vay để mua nhà

và các loại bất động sản.


Hiệp hội tín dụng: Là một tổ chức hợp tác xã tín dụng, tổ chức liên kết

các thành viên là những người trong cùng tổ chức nghề nghiệp hay tín ngưỡng.
Nguồn ngân quỹ chủ yếu là tiền gửi của các thành viên, nguồn ngân quỹ này được
sử dụng để cho vay trong nội bộ nhằm tài trợ mua xe, nhà ở và nhiều loại tài sản

Học viên: Hồng Thị Bình Minh

10

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

khác. Do đặc điểm của hiệp hội là chỉ cho vay trong nội bộ nên các doanh nghiệp
ngồi hiệp hội sẽ khó có cơ hội tiếp cận với nguồn vay này.


Quỹ trợ cấp và hưu bổng: Được thành lập để tạo nguồn thu nhập cho

những người về hưu và khơng cịn khả năng làm việc. Các quỹ này nhận tiền đóng
góp của cơng nhân, của chủ doanh nghiệp và sử dụng nguồn ngân quỹ này đầu tư
vào các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc hay trái phiếu đô thị, đầu tư
vào cổ phần, trái phiếu của các doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp có thể huy
động vốn từ quỹ này bằng việc phát hành trái phiếu.



Cơng ty tài chính: Cơng ty tài chính phát hành các loại trái phiếu, cổ

phiếu và vay tiền của các ngân hàng thương mại để tài trợ cho các doanh nghiệp và
cá nhân vay. Những khoản cho vay của các cơng ty tài chính thường chủ yếu dành
cho những khách hàng có mức độ rủi ro tín dụng cao, mà các ngân hàng thương mại
thường từ chối cho vay. Để bù đắp cho mức độ rủi ro cao, lãi suất tài trợ của cơng
ty tài chính thường cao hơn các định chế khác.
Ưu điểm của công ty tài chính là các doanh nghiệp có phương án kinh doanh
với mức độ rủi ro cao vẫn có khả năng tiếp cận với nguồn vốn này trong khi các
ngân hàng thương mại đã từ chối cho vay. Chính ở đặc điểm này đã khiến cho mức
lãi suất khi huy động từ cơng ty tài chính cao hơn các định chế tài chính khác.


Quỹ hỗ tương: Là loại định chế tài chính chuyên tập hợp nguồn tài chính

của những người tiết kiệm nhỏ và đầu tư vào các loại chứng khoán tùy theo mục
tiêu và chính sách do quỹ đặt ra.
Một số quỹ có chính sách đầu tư vào những loại cổ phần của những cơng ty
có mức tăng trưởng cao, song mức chia lợi tức hàng năm thấp nhưng đổi lại các chủ
đầu tư hy vọng giá trị cổ phần của họ sẽ tăng nhanh chóng. Ngược lại, một số quỹ
đầu tư vào những cổ phần được chia lợi tức cao, nhưng có mức lợi nhuận tiềm năng
từ giá cổ phần tăng lên thấp. Nhiều quỹ đầu tư vào những cổ phần nước ngồi và
Học viên: Hồng Thị Bình Minh

11

CH K16_ĐH KTQD



Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

nhiều quỹ phân tán danh mục đầu tư của họ vào các loại trái phiếu công ty, cổ phần
công ty và công trái quốc gia.
Một đặc điểm của các quỹ hỗ tương là các quỹ này thường nắm giữ một phần
giá trị của danh mục đầu tư dưới dạng tiền mặt. Có hai lý do cho sự tồn tại tiền mặt
ở các quỹ này: Thứ nhất, quỹ luôn cần tiền mặt để bảo đảm khả năng thanh toán
cho các chứng khoán do những người chủ quỹ bán lại cho quỹ. Thứ hai, là tiền thu
được từ hoạt động kinh doanh chứng khốn của quỹ có thể chưa được đầu tư kịp
thời. Đây cũng là một trong những lợi thế của các quỹ này khi các doanh nghiệp
quyết định vay vốn từ loại hình này.


Cơng ty bảo hiểm: Có thể chia các cơng ty bảo hiểm thành hai loại: Bảo

hiểm nhân thọ và bảo hiểm trách nhiệm và tài sản.
-

Các công ty bảo hiểm nhân thọ thu phí bảo hiểm hàng năm của những

người được bảo hiểm và đầu tư vào những khoản tiền này vào các loại trái phiếu, cổ
phiếu công ty, cho vay thế chấp tài sản hay tài sản hay tài trợ tín dụng tiêu dùng và
thực hiện nhiều nhiệm vụ tài chính khác.
-

Các công ty bảo hiểm trách nhiệm và tài sản thu phí bảo hiểm của

những người được bảo hiểm và những chủ sở hữu các loại tài sản được bảo hiểm.
Một phần phí bảo hiểm được cơng ty đầu tư vào các loại chứng khốn cơng ty và
trái phiếu do Chính phủ phát hành.

Một khó khăn của doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn này là cũng cần
phải có tài sản hoặc các giấy tờ có giá trị để thế chấp.


Cơng ty thuê mua: Là loại định chế tài chính chuyên huy động các

nguồn ngân quỹ trung – dài hạn từ công chúng đầu tư, từ các chủ thể tiết kiệm khác
và từ các ngân hàng để tài trợ cho các hợp đồng thuê mua máy móc thiết bị của các
doanh nghiệp.

Học viên: Hồng Thị Bình Minh

12

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Nguyên nhân chính thúc đẩy doanh nghiệp tiếp cận với hoạt động cho thuê
tài chính là do nó có tính chất an tồn cao, tiện lợi và hiệu quả cho các bên giao
dịch. Thêm vào đó, việc cấp tín dụng dưới hình thức cho th tài chính khơng địi
hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận hình
thức cấp tín dụng mới, giải tỏa được áp lực về tài sản bảo đảm nếu phải vay ở ngân
hàng, hoặc các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản để vay
vốn ngân hàng.
1.2.2.2. Phương thức huy động vốn từ thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khốn là thị trường sử dụng các thơng tin dữ liệu có liên
quan đến mức sinh lời tiềm năng và coi đó như một chuẩn mực đầu tư, là cơ chế
chuyên giao dịch các loại chứng khoán.

Trên thị trường chứng khốn, để huy động vốn doanh nghiệp có thể phát
hành trái phiếu và cổ phiếu.


Phát hành trái phiếu

Trái phiếu của các doanh nghiệp khác nhau có những đặc điểm khác nhau và
những đặc điểm này chi phối giá trị của trái phiếu.
Ở Việt Nam, ngày 19/5/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định
52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Nghị định này ra đời đã mở
ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp. Nghị định này có ưu điểm là
tất cả các doanh nghiệp chỉ cần có thời gian hoạt động tối thiểu là 1 năm kể từ ngày
doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động, có báo cáo tài chính của năm liền kề
trước năm phát hành được kiểm toán và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh phải
có lãi đều có quyền phát hành trái phiếu. Chính vì vậy, việc ban hành Nghị định đã
khuyến khích các doanh nghiệp trực tiếp tham gia huy động vốn trên thị trường để
phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển của doanh nghiệp, kể cả mục tiêu tăng quy mơ
vốn tự có.
Học viên: Hồng Thị Bình Minh

13

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Nghị định này cũng quy định, riêng đối với các trái phiếu bổ sung vốn tự có
do các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước và trái phiếu của các DNNN,
phương án phát hành phải được Bộ Tài chính chấp nhận, cịn lại chỉ cần các tổ chức

và cá nhân có thẩm quyền thơng qua và công bố công khai cho các nhà đầu tư biết.
Doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo nguyên tắc tự vay, tự trả và tự chịu
trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay. Số tiền thu được từ phát hành trái phiếu
được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư; cơ cấu lại các khoản vay trung và dài
hạn.
Để tăng sức hấp dẫn của đợt phát hành hoặc để giảm bớt gánh nặng trả nợ
hàng năm của doanh nghiệp phát hành, doanh nghiệp phát hành cũng có thể ấn định
mức lãi suất cuống phiếu cao hơn hoặc thấp hơn mức lãi suất mà thị trường đòi hỏi.


Phát hành cổ phiếu

Phát hành cổ phiếu là một phương thức huy động vốn dài hạn của doanh
nghiệp.
Để phát hành cổ phiếu mới, doanh nghiệp cần phải tính đến các chí phí như:
Chi phí in ấn, chi phí quảng cáo, hoa hồng… Các chi phí này nhiều khi chiếm tới
10% tổng giá trị phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp.
Khi quyết định phát hành cổ phiếu ra công chúng, các doanh nghiệp cũng cần
tính đến nhu cầu trên thị trường chứng khốn, nếu khơng sẽ dễ rơi vào tình trạng
tăng cung nhưng cầu về cổ phiếu không tăng sẽ dễ dẫn đến giá cổ phiếu giảm.
Ngoài ra, vấn đề chống thơn tính, bảo vệ cơng ty trước sự xâm thực bằng cổ
phiếu của các công ty khác cũng là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn qua phát
hành cổ phiếu phải xét đến nguy cơ bị thơn tính. Do đó, phải tính đến tỷ lệ cổ phần
tối thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm sốt của cơng ty.
1.2.2.3. Phương thức huy động vốn thông qua thị trường bất động sản

Học viên: Hồng Thị Bình Minh

14


CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Một nguồn huy động vốn khác mà doanh nghiệp doanh nghiệp có thể khai
thác để huy động vốn là thông qua thị trường bất động sản.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện các giao dịch mua bán, cho thuê, thế chấp
góp vốn bằng thế chấp giá trị quyền sử dụng đất vào các dự án liên doanh để huy
động vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay, trên thị trường
bất động sản Việt Nam có đến 70% các giao dịch khơng đăng ký với các cơ quan
quản lý Nhà nước, nên tác động của việc huy động vốn bằng hình thức này vẫn cịn
nhiều hạn chế.
1.2.2.4. Phương thức huy động vốn thơng qua các tổ chức tài chính quốc tế
Trên thế giới có rất nhiều tổ chức tài chính chun về hỗ trợ khu vực kinh tế
tư nhân, trong đó được biết đến nhiều nhất là Cơng ty Tài chính Quốc tế (IFC).
Cơng ty Tài chính Quốc tế (IFC) là bộ phận phụ trách khu vực tư nhân thuộc nhóm
Ngân hàng Thế giới. Nhiệm vụ của IFC là thúc đẩy đầu tư vào khu vực tư nhân tại
các nước đang phát triển nhằm xố đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân.
IFC cấp vốn cho các dự án đầu tư bằng tiền của mình và qua huy động vốn trên thị
trường tài chính quốc tế. IFC cũng cung cấp trợ giúp kỹ thuật và tư vấn cho chính
phủ và doanh nghiệp.


Điểm đặc biệt trong hoạt động của IFC là bản thân tổ chức này không

tạo ra các dự án mới, mà IFC chỉ đầu tư vào hoặc hỗ trợ cho các dự án, cơng ty hiện
có trên thị trường. Để thực hiện chương trình tài trợ vốn, IFC sẽ xem xét, tìm kiếm
các cơng ty hoạt động tốt trong lĩnh vực cơng nghệ thơng tin, tài chính, tư vấn...,sau
đó hỗ trợ tài chính dưới hai hình thức: Một là sử dụng các ngân hàng như là khâu

trung gian trong việc cung cấp tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân; hai là hỗ trợ
kỹ thuật cho các công ty trên các mặt quản lý hoạt động tài chính, quản lý rủi ro,
tăng cường vốn...IFC hiện cũng đang xem xét việc thành lập một quỹ đầu tư hoặc

Học viên: Hoàng Thị Bình Minh

15

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

trực tiếp cấp vốn cho các dự án do các công ty tư nhân thực hiện hoặc có thể đứng
ra làm trung gian kêu gọi các tổ chức tài chính khác.
Ở Việt Nam, Cơng ty Tài chính Quốc tế IFC trợ giúp phát triển khu vực tư
nhân thơng qua tài chính của dự án, bằng việc huy động vốn trên các thị trường tài
chính quốc tế, và thông qua các hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp và Chính phủ.
1.3. Một số nhân tố chủ yếu tác động tới việc huy động vốn của doanh nghiệp
1.3.1. Nhân tố khách quan
1.3.1.1. Ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế
Bất cứ một quốc gia nào nếu chính trị khơng ổn định sẽ có tác động trực tiếp
hay gián tiếp tới mọi hoạt động của quốc gia đó. Nếu chính trị ổn định, ít có xung
đột xảy ra thì các đường lối chính sách của Nhà nước đề ra nhất là chính sách mở
cửa, kêu gọi đầu tư nước ngồi sẽ có tác động tích cực, tạo sự hấp dẫn, yên tâm cho
các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào các lĩnh vực, đặc biệt là các dự
án chung và dài hạn, từ đó tạo cơ hội để các doanh nghiệp trong nước thu hút được
nhiều nguồn vốn qua nhiều kênh huy động, đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu kinh
doanh.
Bên cạnh những yếu tố ổn định chính trị thì tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa

cực kỳ quan trọng trong việc tăng thu nhập quốc dân, mở rộng các quan hệ kinh tế,
ngân sách Nhà nước tăng. Từ đó, Nhà nước có thể đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở hạ
tầng, các dịch vụ công cộng…nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi để các doanh nghiệp phát
triển.
Đồng thời tăng trưởng kinh tế phản ánh thu nhập bình qn tính trên đầu
người tăng tạo ra nguồn tích lũy, tiết kiệm từ các doanh nghiệp và dân cư. Cùng với
chính sách tiết kiệm chi tiêu, tiêu dùng hợp lý để có và tăng tiết kiệm, từ đó mà các
doanh nghiệp có thể huy động vốn thuận lợi từ các doanh nghiệp, tổ chức tài chính
tín dụng, dân cư, Nhà nước…được thuận lợi.
Học viên: Hồng Thị Bình Minh

16

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

1.3.1.2. Nhân tố lạm phát
Với chính sách kiềm chế lạm phát ở mức “vừa phải” sẽ tác động tới ổn định
và kích thích tăng trưởng kinh tế. Nếu lạm phát cao hơn nhiều so với tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế (tốc độ tăng GDP) sẽ làm cho đồng tiền mất giá, điều này
không tạo ra sự tin tưởng của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Đồng thời, các doanh nghiệp khơng có một thước đo ổn định bằng đồng tiền, nên
các dự án đầu tư khi thực thi sẽ phản ánh khơng chính xác từ đó hiệu quả kinh tế
thấp, các nguồn đầu tư sẽ bị hạn chế.
1.3.1.3. Chính sách thuế, lãi suất, tỷ giá của Nhà nước


Chính sách thuế


Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách Nhà nước, đồng thời thuế góp phần thực hiện cơng bằng và bình đẳng xã hội,
điều tiết và kích thích phát triển sản xuất kinh doanh. Hiện nay Nhà nước ta thực
hiện chính sách thuế để khuyến khích đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu kinh doanh của
các ngành nghề với chính sách ưu đãi, đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước giúp
cho các doanh nghiệp có điều kiện thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài,
mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực mới, dài hạn và có điểm tựa để đảm bảo sự cơng
bằng giúp cho việc cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển.


Chính sách lãi suất

Bất kỳ một tổ chức nào từ doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức tài chính khác,
dân chúng…đều rất coi trọng và quan tâm đến vấn đề lãi suất. Lãi suất là mục tiêu
kinh doanh cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, là cơ sở cho việc giảm
các chi phí cho các tổ chức này. Chính sách lãi suất hợp lý sẽ tạo điều kiện trước
hết là thu hút được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, sẵn sàng cung cấp cho
nhu cầu đầu tư kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp vốn cho kinh daonh chủ yếu
Học viên: Hồng Thị Bình Minh

17

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

là huy động từ vốn vay. Chính vì thế mà lãi suất quyết định tới chi phí vốn huy

động, tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và có thể làm thay đổi cơ
cấu nguồn vốn trong doanh nghiệp. Đồng thời lãi suất (lãi suất tái chiết khấu) nếu
thay đổi đến một mức độ nào đó sẽ tác động đến tỷ giá ngoại tệ, từ đó mà có thể
làm tăng hoặc giảm các nguồn tiền từ nước ngoài chảy vào trong nước hoặc chảy ra
nước ngoài làm ảnh hưởng đến ổn định và phát triển kinh tế, tác động đến đầu tư
kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là Nhà nước xây dựng chính sách lãi
suất như thế nào vận dụng cho mỗi giai đoạn để tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong
các tổ chức tài chính tín dụng, thu hút được nhiều tiền nhàn rỗi trong dân và các
doanh nghiệp có thể vay chịu đựng được lãi suất để kinh doanh có hiệu quả, tránh
tình trạng các ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng thì thừa vốn mà các doanh
nghiệp thì thiếu vốn nhưng khơng dám đi vay hoặc không vay được gây mất cân đối
giữa cung và cầu về vốn, đẩy các doanh nghiệp các tổ chức tài chính tín dụng ắch
tắc trong huy động vốn cho kinh danh.


Chính sách tỷ giá

Tỷ giá thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị đồng nội tệ, ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến lạm phát, ổn định hay tăng
trưởng kinh tế, Tuy nhiên, ổn định về kinh tế thì tất yếu sẽ ổn định về tỷ giá, ngược
lại ổn định tỷ giá chưa hẳn làm ổn định được kinh tế hoặc biến động về tỷ giá chưa
chắc kinh tế mất ổn định. Tuy vậy, về cơ bản lâu dài quan hệ này tác động hữa cơ
lẫn nhau. Hiện nay ở Việt Nam cũng như các nước đều có 3 luồng quan điểm về tỷ
giá đó là: Thả nổi – Cấm tuyệt đối – Hạn chế tự do lưu thông. Tỷ giá hiện nay
chúng ta áp dụng theo quan điểm hạn chế lưu thông: Các cửa hàng, siêu thị, sân
bay…Nhà nước có quy định một số hàng được lưu thông thu ngoại tệ và Nhà nước
có quy định một số hàng hóa bán cho người nước ngồi được thanh tốn bằng ngoại
tệ, cịn lại ngăn cấm.

Học viên: Hồng Thị Bình Minh


18

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Các doanh nghiệp huy động vốn đầu tư từ ngoại tệ ngoài việc phải chịu lãi
suất (đi vay) còn chịu sự trượt giá của đồng ngoại tệ. Đặc biệt trong giai đoạn vừa
qua chủ yếu là trượt giá tăng làm cho chi phí vốn tăng, đây là yếu tố rủi ro mang
tính khách quan mà doanh nghiệp phải gánh chịu; yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh doanh và các dự án đầu tư nếu không lường hết được yếu tố trượt
giá, không có dự phịng về biến động tỷ giá khi huy động bằng ngoại tệ sẽ mang lại
hậu quả thua lỗ khó lường.
1.3.1.4. Mơi trường pháp lý
Nền kinh tế của chúng ta mới phát triển ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị
trường chịu sự quản lý điều tiết của Nhà nước. Do vậy, nếu môi trường pháp lý (các
bộ luật, đường lối chính sách…) chưa tồn diện đồng bộ, chưa phù hợp với kinh tế
thị trường thì sẽ khơng tạo được môi trường kinh doanh công bằng, hấp đẫn. Nếu
khơng có một hệ thống pháp luật hữu hiệu bảo vệ các nhà đầu tư thì cũng rất khó
kêu gọi đầu tư, vì các nhà đầu tư sẽ khơng ưu tiên khi bỏ vốn mà chủ yếu đầu tư
trung hạn, dài hạn thiếu sự bảo đảm lâu dài của luật pháp. Như vậy có thể nói mơi
trường pháp lý là điều kiện hết sức cần thiết để tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh, bảo đảm các điều kiện về lâu dài cho các nhà đầu tư từ đó tạo điều kiện để
các doanh nghiệp mở rộng đầu tư thu hút nhiều nguồn vốn đáp ứng cho các chiến
lược kinh doanh đề ra. Ở Việt Nam, khi luật chứng khoán ra đời là một điều kiện rất
thuận lợi để bảo vệ các nhà đầu tư, nhà phát hành chứng khoán, tạo môi trường lành
mạnh cho doanh nghiệp thu hút vốn trên thị trường này.
1.3.2. Nhân tố chủ quan

1.3.2.1. Chiến lược kinh doanh
Ngay từ khi mới ra đời cũng như trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh doanh nghiệp bao giờ cũng phải xây dựng cho mình kế hoạch về sản xuất
kinh doanh. Trên cơ sở đánh giá những mặt hoạt động của giai đoạn đã qua, xây
Học viên: Hoàng Thị Bình Minh

19

CH K16_ĐH KTQD


Đề tài: Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

dựng một chiến lược kinh doanh trước mắt là hàng năm và dài hạn có thể là 10 năm
trong tương lai. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thực tế là việc đề ra các
mục tiêu về quản lý kinh doanh, đầu tư kinh doanh, mở rộng và lựa chọn thị trường,
tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực…và những phương hướng cơ bản để doanh
nghiệp có thể tiếp cận được các mục tiêu đó.
Các chính sách cụ thể của chiến lược kinh doanh:


Chính sách về khai thác thị trường kinh doanh

Đây là mục tiêu nhằm tìm kiếm thị trường, xâm nhập và khai thác cơng việc
kinh doanh cho doanh nghiệp, đây là nhiệm vụ rất cần của doanh nghiệp bởi vì:
doanh nghiệp muốn tồn tại phải có các hoạt động sản xuất kinh doanh, muốn hoạt
động sản xuất kinh doanh phải tìm kiếm được cơng việc để kinh doanh và muốn có
cơng việc để kinh doanh thì phải khai thác tìm kiếm thị trường có thể tạo ra việc
làm. Đồng thời thơng qua chính sách về thị trường doanh nghiệp có thể khuyếch
trương và tơn tạo uy tín rộng khắp. Việc khai thác thị trường cũng phải xác định

được đâu là thị trường tiềm năng phù hợp với đặc thù kinh doanh của mình và đâu
là thị trường mới để có chính sách đầu tư hợp lý nhằm đa dạng hóa loại hình kinh
doanh nhưng phải đảm bảo có hiệu quả.


Chính sách về đầu tư

Đầu tư có thể mang tính chun sâu, mở rộng hay thay thế những năng lực
sản xuất hiện có. Chính sách đầu tư là mục tiêu thường xuyên nhằm khai thác triệt
để năng lực hiện có, đổi mới thiết bị, cơng nghệ, sản phẩm; mở rộng quy mô đầu tư
phù hợp với việc khai thác thị trường kinh doanh. Gắn với chính sách đầu tư bao
giờ cũng phải xác định được chính sách tài chính mà cụ thể là nguồn vốn hình
thành đáp ứng mục tiêu đầu tư.


Chính sách về tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực

Học viên: Hoàng Thị Bình Minh

20

CH K16_ĐH KTQD



×