Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Lý Luận Về Nhà Nước Và Pháp Luật Bản Tóm Tắt Các Bài Trên Thư Viện Tư Duy Về Nhà Nước Và Pháp Luật Trong Thời Đại Ngày Nay.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.79 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Ngọc Mai

BẢN TÓM TẮT CÁC BÀI TRÊN THƯ VIỆN

Tên:

Phạm Cao Tuấn Khoa

Lớp:

CLC-47C

MSSV: 2253801015139

HỌC KÌ I – NĂM HỌC 2022 - 2023


TƯ DUY VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY
-Đào Trí ÚcTrên thế giới ln tồn tại những hiện tượng nan giải và mâu thuẫn của quá trình phát triển xã
hội, nổi bật nhất là yêu cầu về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, gây nên sự khủng
hoảng tài chính quốc gia. Bội chi ngân sách so với tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic
Product) đã làm vượt ngân sách và nợ công, dẫn đến sự mất cân bằng giữa khu vực nhà nước
và tư nhân, phá vỡ nền tảng tạo nên nền kinh tế. Để cải thiện tình hình, nhà nước đã áp dụng
chính sách tăng thuế và cắt giảm chỉ tiêu, đầu tư cho những chương trình và mục tiêu quốc
gia. Tuy nhiên, cách này cũng chỉ là giải pháp có tính chất tình thế và mang lại hiệu quả nhất
thời, dẫn đến hậu quả tiêu cực cho tư bản. 


Thách thức thứ hai là quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và các mâu thuẫn xã hội. Mặc dù các
giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đều mang lại kết quả cho mức sống của người dân,
nhưng kèm theo đó là những hệ lụy tiêu cực về mặt xã hội. Xu hướng của thời đại ngày nay
là sự kết hợp đa dạng của nhiều nền văn hóa, khơng ngoại trừ là xung đột và loại trừ lẫn
nhau. Dẫn đến một trong những chức năng mới và nổi bật của nhà nước là phòng ngừa và
khắc phục khủng hoảng. 
Tiềm năng cho mọi sự chuyển đổi trong quốc gia chỉ có thể phát sinh khi tạo dựng được mối
liên hệ thơng suốt và bình đẳng giữa các thiết chế quyền lực nhà nước với xã hội. Vì vậy, tiếp
cận vấn đề quản trị quốc gia với ý tưởng về nâng cao năng lực kiến tạo của Nhà nước cần
được bắt đầu từ nhận thức về tính chất đa dạng.
Xã hội hiện đại là xã hội tràn ngập thơng tin, và tính liên kết trên bình diện xã hội nhanh
chóng nhờ cơng nghệ hiện đại đã giản lược tối đa, thu hẹp khoảng cách giữa các mối liên hệ
tương tác giữa chủ thể và đối tượng quản lý. Từ đây cho thấy sự hình thành và hoàn thiện nhà
nước kiến tạo cần đổi mới hệ thống quản trị quốc gia theo hướng tạo ra những cấu trúc linh
hoạt, cần đào tạo đội ngũ công chức, chuyên gia, nhà quản lý không chỉ biết nắm giữ thơng
tin mà phải có khả năng phân tích thơng tin và sáng tạo. Nhà nước kiến tạo là chủ thể quan
trọng, nhưng không thể là chủ thể duy nhất của q trình kiến tạo và thực thi chính sách. Nhà
nước phải tự đặt mình và mối liên hệ với các yếu tố khác của hệ thống và cấu trúc xã hội,
chia sẻ.
Các quá trình trong việc phát triển hình thành nhà nước đề cập đến sự công bằng về quyền và
nghĩa vụ, vì vậy, mối quan hệ về trách nhiệm giữa nhà nước và xã hội tập trung vào cả nhà
nước và xã hội bao gồm các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, khu vực tư. Q trình hoạch định
chính sách cũng đòi hỏi những phương thức mới như giao tiếp, thảo luận, thoả thuận để thay
thế các tính chất mang tính mệnh lệnh và áp đặt.
Tồn cầu hố được coi là đặc trưng chủ đạo của thế kỉ XXI và được diễn ra trên phạm vi toàn
thế giới với sự tham dự của mọi quốc gia, dân tộc trong một hệ thống kinh tế và xã hội thống
nhất, với việc hình thành và vận hành những mối liên kết về thương mại, tài chính cùng các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt tốt của tồn cầu hố sẽ giúp cho thế giới phát triển về
thông tin, sự mở rộng về dịch vụ, thị trường trong mọi lĩnh vực, tác động đến đạo đức, nhận
thức và lối sống. Mặt trái của tồn cầu hố sẽ dẫn đến chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo cực đoan,

tội phạm xuyên quốc gia, sự xung đột về văn hoá cho dân nhập cư ồ ạt.


Từ những nhận thức về thách thức mới của quản trị quốc gia hiện đại, chúng ta cần nhận thức
lại chức năng của nhà nước. Phạm vi chức năng mới của nhà nước hướng tới nhu cầu cải tạo
môi trường quản trị, linh hoạt trong các hoạt động, tổ chức, chức năng và nhiệm vụ cộng với
việc xác định và thay đổi mục tiêu của chủ thể nhằm kiến tạo cả bên trong lẫn bên
ngoài.Trong các chức năng của nhà nước, nhìn từ mặt quản lý và xã hội, chức năng bảo đảm
ổn định và đồng thuận xã hội , ngăn ngừa và hoá giải xung đột được xem là quan trọng nhất.
Vì vậy, trong quá trình đổi mới, Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Để bảo đảm cao
nhất và đầy đủ nhất cho chính sách đồng thuận xã hội là hiến pháp. Hiến pháp được lập ra
nhằm bảo đảm và bảo vệ quyền con người theo nhiều phương diện.
Ngun tắc Tịa án khơng được từ chối xét xử là một nguyên tắc quan trọng. Gắn liền với
việc đề cao vai trò và củng cố sự độc lập của Tòa án và với việc xác lập vai trò kiến tạo luật
của Tịa án. Nhà nước có trách nhiệm phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý, cung cấp những
kiến thức chun mơn, vì khơng phải cá nhân nào cũng có được những nguồn lực tài chính và
hiểu biết pháp luật để tiếp cận được những thủ tục pháp lý phức tạp.
Tất cả các chức vụ và việc tuyển dụng vào các chức vụ trong cơ quan hành chính phải được
công khai, mở rộng cho mọi đối tượng, dựa trên cơ sở năng lực để đảm bảo tính cơng bằng
trong lĩnh vực hoạt động hành chính.
Trong lịch sử các học thuyết pháp lý, trường phái coi Nhà nước là cái có trước, pháp luật là
cái phát sinh từ Nhà nước được gọi là trường phái luật thực định. Quan niệm của chủ nghĩa
thực chứng pháp lý cổ điển không chú trọng nhiều khía cạnh xã hội mà nhấn mạnh đến tính
hình thức, tính kỹ thuật. Trong vài thập niên gần đây, chủ nghĩa thực chứng pháp lý mới ở
các nước phát triển đã chủ trương “ mềm hóa” sự cứng nhắc của chủ nghĩa thực chứng cổ
điển theo hướng xích lại gần hơn với lý thuyết pháp luật tự nhiên. Đây có thể được coi là
điểm nổi bật, có ảnh hưởng sâu rộng trong tư duy pháp lý mới và trong quy trình làm luật tại
các quốc gia.
Trong khi đó, trường phái pháp luật tự nhiên là một trường phái học thuyết, quan niệm, pháp

luật được hiểu là những quy tắc không xuất phát từ Nhà nước mà xuất phát từ lẽ cơng bằng
và hợp lí của tự nhiên. Ngày nay, pháp luật và cách thức điều chỉnh pháp luật đối với mọi
hành vi xã hội đều phải tự nhiên và sát với cuộc sống, theo kịp nhu cầu cuộc sống với tồn bộ
sự đa dạng và khơng ngừng thay đổi trong nhu cầu của con người.
Từ nhận thức mới về đặc trưng chủ yếu của pháp luật là tính cơng bằng, phù hợp với lợi ích
chính đáng của các chủ thể quan hệ xã hội, tư tưởng về sự công bằng và công lý đã được coi
là tư tưởng pháp luật nền tảng và thiên chức của Tòa án là đưa những tư tưởng đó vào cuộc
sống thơng qua hoạt động xét xử
Từ thời cổ đại, các vấn đề pháp lý đã được tranh luận, chẳng hạn như mối quan hệ giữa luật
pháp và phong tục, luật pháp và đạo đức, và tôn giáo. Quy luật là sự phản ánh cái hiện hữu,
cái có thật, cái có sẵn hay cái tất yếu của quy luật. Có học thuyết coi pháp luật là lý tưởng cần
đạt tới và hướng tới, tức là pháp lý tưởng. Trong lịch sử tồn tại những quan niệm khác nhau
về pháp luật, tạo nên những trường phái đặc thù như trường phái tôn giáo về luật, luật tự
nhiên và luật thực tiễn; xã hội pháp luật, triết học pháp luật, tâm lý học pháp luật: quan niệm
giai cấp về pháp luật. Hiện nay, quan niệm coi pháp luật là thước đo của tự do và công lý
đang là xu thế của thời đại. Theo chúng tơi, mỗi trường phái luật đều có ưu điểm và hạn chế,
tất cả đều có thể đúng và cũng có thể gây tranh cãi. Pháp luật được hiểu và sử dụng theo cả
nghĩa khách quan và chủ quan. Theo nghĩa khách quan, pháp luật là tổng hòa các quy phạm
pháp luật của nhà nước, là trật tự pháp lý của cuộc sống. Quy luật khách quan là quy luật


thông thường, các chuẩn mực pháp luật được áp dụng chung cho mọi người, không thuộc về
một cá nhân cụ thể nào. Theo nghĩa chủ quan, pháp luật được hiểu là sự thể hiện cụ thể các
quy tắc trừu tượng trong các quyền cụ thể của cá nhân. Tự do, khả năng lựa chọn hành vi
theo quy định của quy luật khách quan, tức là quy luật chủ quan

GÓP PHẬN NHẬN THỨC VỀ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
–Nguyễn Minh ĐoanMở đầu bài viết Nguyễn Minh Đoan giải thích về vai trị và sự ra đời của quyền lực. Tác giả
cho rằng các tổ chức hoặc cá nhân có thể dùng quyền lực để bắt bên khác phục tùng mình.
Bên cạnh đó sự ra đời của quyền lực là từ các nhu cầu của xã hội và đảm bảo xã hội hoạt

động bình thường. Quyền lực thể hiện qua việc chủ thể áp đặt ý chí lên chủ thể dưới quyền.
Tuy nhiên mỗi chủ thể có thể nằm trong nhiều mối quan hệ quyền lực khác nhau. Do vậy
trong quan hệ quyền lực này chủ thể là người có quyền lực nhưng ở quan hệ khác chủ thể có
thể là người dưới quyền. Quyền lực nhà nước mang tính ý chí và gắn liền với chủ quyền quốc
gia được thể hiện qua những định chế. Nó ln thuộc về và phục vụ cho giai cấp thống trị,
biểu hiện cụ thể ở hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước và những nguyên tắc vận hành. Lý
thuyết phân chia quyền lực là việc quyền lực nhà nước trung ương chủ yếu được chia thành
ba quyền ( quyền lập pháp, quyền hành pháp và tư pháp ) nhằm tránh tình trạng độc đốn và
chuyên quyền. Lý thuyết này dù được sử dụng khá phổ biến ở các nước tư sản nhưng thực tế
tình trạng xung đột giữa các nhánh quyền lực vẫn thường xuyên xảy ra. Để hạn chế tình trạng
này, các nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tập trung thống nhất
trên cơ sở phân công và phối hợp thực hiện quyền lực giữa các cơ quan nhà nước một cách
hợp lý. Tác giả đã đưa ra một số quan điểm để nhận thức rõ hơn về những nguyên tắc này:
Trước hết, theo quy định của Hiến Pháp và các đạo luật thì ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức. Tuy nhiên, quyền lực tối cao được trao cho Quốc
hội. Quốc hội được coi là cơ quan quyền lực cao nhất, thay mặt nhân dân quyết định những
vấn đề cơ bản, trọng đại của đất nước. Bên cạnh đó, một số cơ quan khác cũng được Quốc
hội và hội đồng nhân dân trực tiếp và gián tiếp thành lập để cùng với Quốc hội và các cơ
quan thực hiện quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước ở nước ta luôn đảm bảo sự tập trung
thống nhất vào các cơ quan quyền lực nhà nước nhằm tránh hiện tượng mâu thuẫn và xung
đột. Không những thế, để đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực từ trung ương đến địa
phương, Hiến pháp quy định hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước không phải
của địa phương mà “của địa phương” mà ở “địa phương”, không chỉ “chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương” mà còn phải chịu trách nhiệm trước “cơ quan nhà nước cấp trên “mà
cao nhất là Quốc hội. Tuy nhiên, chủ thể trực tiếp mang và thực hiện quyền lực nhà nước là
Nhà nước chứ không phải nhân dân. Nếu cho rằng quyền lực nhà nước nếu tập trung ở nhân
dân sẽ là chính thể cộng hịa, quyền lực vừa tập trung ở nhân dân vừa tập trung ở cơ quan cao
nhất. Do đó tác giả chỉ ra quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng tập trung ở cơ quan
đại diện cao nhất. Cuối cùng, dù quyền lực nhà nước nước ta là tập trung thống nhất, không

phân chia nhưng trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước thì giữa các cơ quan phải có
sự phân cơng, phối hợp với nhau: Quốc hội thực hiện công việc lập pháp, quyết định những
vấn đề trọng đại của đất nước và có quyền giám sát tối cao với tồn bộ hoạt động của nhà
nước. Chính phủ là cơ quan hành pháp, đồng thời chấp hành Quốc hội nhưng quyền công bố


luật cũng khơng thuộc Chính phủ. Tịa án là cơ quan tư pháp thực hiện việc xét xử. Việc tổ
chức bộ máy nhà nước như trên sẽ giữ vững được sự tập trung thống nhất quyền lực nhà nước
cũng như phát huy tính chủ động, sáng tạo và tránh được tình trạng phân tán, cục bộ, phân
quyền cát cứ.
Theo tác giả muốn hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước CHXHCNVN cần tập trung vào một số
vấn đề :
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước của
nhân dân, nghiên cứu kĩ về vấn đề quyền lực nhà nước để tìm ra được cơ chế tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước đảm bảo sự kiểm soát của nhân dân với quyền lực nhà nước của
mình.
Cải tiến cơng tác bầu cử làm cho q trình bầu cử thật sự dân chủ
 Hồn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng cần phân công chuẩn xác chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn cho các cơ quan nhà nước cũng như xác định rõ mối quan hệ phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau, với công dân, với các tổ chức chính trị xã hội khác
mà đặc biệt là với Đảng.
Cuối bài viết, tác giả khẳng định quyền lực là vấn đề phức tạp và việc vận dụng lí thuyết về
quyền lực vào thực tiễn tổ chức và thực thi quyền lực lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Do
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để làm rõ các khía cạnh của quyền lực nhà nước và để đạt được
sự thống nhất về nhận thức là rất cần thiết. 
Theo quan điểm cá nhân của em Nhà nước đã đặt lợi ích của nhân dân làm đầu. Sửa đổi lại
các luật theo quyền lợi của nhân dân, hướng tới tâm lý lo lắng sợ hãi của nhân dân về các tệ
nạn xã hội và cần nhà nước chở che để sửa đổi.
Giải thích cho ta hiểu rằng quyền lực nhà nc có thể đc chủ thể có quyền hoặc khơng có quyền
sử dụng. Nền tảng quyền lực thuộc về nhân dân, nơng dân và lớp tri thức cịn quyền lực tối

cao thuộc về quốc hội. Tác giả đã cho thấy đc sự phức tạp của quyền lực.
Để hiểu rõ các khía cạnh của quyền lực và đạt đc sự thống nhất về nhận thức của quyền lực là
sự cần thiết.
Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992
Đầu tiên, tác giả trình bày một số hiểu biết về quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước có
thể hiểu là khả năng của nhà nước có thể buộc cá nhân, tổ chức trong nhà nước phải phục
tùng. Tuy nhiên, sự phục tùng ấy không phải chỉ dựa trên những “ khả năng “từ phía nhà
nước mà cịn bởi những tâm lý lo lắng, sợ hãi trước các hiện tượng bạo lực, tội phạm, mong
muốn được nhà nước chở che. Từ đó, tạo điều kiện cho các lực lượng cầm quyền phủ lên trên
nhà nước sức mạnh siêu nhiên, vơ hình – sức mạnh của thượng đế. Trong mối quan hệ giữa
nhà nước và cá nhân, tổ chức thì nhà nước là chủ thể của quyền lực – quyền lực nhà nước còn
các cá nhân, tổ chức là đối tượng của quyền lực ấy. Tuy nhiên, trong xã hội, các cá nhân, tổ
chức phải phục tùng nhà nước nhưng mặt khác nhà nước cũng phải phục tùng nhân dân.
Quan hệ giữa nhà nước với nhân dân không chỉ là quan hệ một chiều. Trong quan hệ giữa
nhà nước với cá nhân, tổ chức thì chủ thể này phải phục tùng nhà nước. Quan hệ giữa nhân
dân với nhà nước thì nhà nước phải phục tùng nhân dân.
Tác giả cho rằng trong xã hội chủ nghĩa nhân dân là chủ của xã hội, có quyền quyết định mọi
vấn đề của xã hội, cùng với cơng cụ quan trọng đó là nhà nước. Nhà nước thay mặt nhân dân


đứng ra tổ chức và quản lý đời sống với quyền lực nhà nước chính xuất phát từ nhân dân, do
nhân dân tạo ra. Bên cạnh đó, ý chí của nhà nước phải phù hợp với nhân dân, mặt khác, nhân
dân phải kiểm sốt việc thực hiện ý chí của nhà nước. Do vậy cần phải có trưng cầu ý dân
trong các vấn đề hay có các cơ quan đại biểu thay mặt nhân dân kiểm tra, giám sát các hoạt
động của nhà nước. Tác giả cũng cho rằng quyền lực ấy có thể sử dụng để tổ chức và quản lý
đời sống xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa... đem lại lợi ích cho xã hội và cũng có thể chỉ cho
một bộ phận nhỏ dân cư và trấn áp những người ni dưỡng nó. Đó chính là bản chất của giai
cấp. Tóm lại, nhân dân khi thực hiện quyền lực sẽ sử dụng nhà nước làm công cụ. Vì thế nhà
nước cần phải có quyền lực dù cho quyền lực nhân dân vẫn là tối thượng.
Cơ chế vận hành quyền lực nhìn chung là : chủ thể quyền lực thể hiện ý chí, đối tượng quyền

lực, bằng hành vi của mình thực hiện nội dung ý chí ấy. Để đảm bảo các đối tượng thực hiện
chính xác nội dung ý chí nhà nước, cơ chế vận hành phải bao gồm các khâu: thể hiện ý chí
nhà nước; cụ thể hóa, chi tiết hóa và cá biệt hóa nội dung ý chí và xử lý vi phạm xảy ra. Ba
khâu này tương ứng là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo Montesquyeu, nêu cả ba đều
nằm trong tay nhà vua sẽ nảy sinh sự lạm quyền, độc tài. Do vậy lập pháp, hành pháp, tư
pháp phải giao cho ba cơ quan khác nhau đảm nhiệm : lập pháp nên giao cho nghị viện, tư
pháp thuộc về tòa án, hành pháp nên giao cho chính phủ. Tuy nhiên, chỉ có sự phân chia các
mắt, khâu trong q trình thực hiện quyền lực nhà nước chứ không thể được chia thành quyền
lập pháp hành pháp hay tư pháp. Tác giả cũng giải thích rằng quyền lực nhà nước phải được
tập trung vào trung ương, quy về trung ương chứ không cát cứ, tản mạn.
Tác giả đồng thời cũng đưa ra một số vấn đề liên quan:
Thứ nhất, tác giả đưa ra phương án sửa đổi điều 2 Hiến pháp 1992 từ “tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân” thành “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Vì khơng phải tất cả
quyền lực trong xã hội đều thuộc về nhân dân, nhưng quyền lực của nhân dân luôn là tối cao.
Vậy nên điều 2 Hiến pháp 1992 nên được sửa lại là :” quyền lực tối cao trong xã hội thuộc về
nhân dân”
Thứ hai, điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định :” nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp” nên được sửa là :” nhân dân thực hiện quyền lực
của mình chủ yếu thơng qua Quốc hội và hội đồng nhân dân”
Thứ ba, Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp thay mặt nhân dân xây dựng Hiến pháp và
đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh. Bên cạnh đó, cịn giám sát các hoạt động của bộ máy nhà
nước, cơ quan nhà nước ở địa phương. Vì thế, dù do nhân dân bầu ra nhưng Quốc hội và hội
đồng nhân dân các cấp được coi là cơ quan quyền lực nhà nước. Hiến pháp quy định hôi đồng
nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân thì chỉ
thể hiện chức năng của cơ quan quyền lực nhân dân. Vì thế theo tác giả điều 119 Hiến pháp
năm 1992 nên sửa lại là “ Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan đại biểu nhân dân cấp trên”. Tác giả cũng chỉ ra cần
tăng cường chức năng giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân. Và để làm được điều đó,
đại biểu các cơ quan không thể đồng thời là thành viên các cơ quan khác.

Thứ tư, tác giả cho rằng quyền lực nhà nước khơng thể tập trung ở nhân dân vì đó là cộng
đồng người rất lớn. Và cũng khơng thể tập trung ở Quốc hội vì Quốc hội cũng chỉ tham gia
vào một mắt, khâu nhất định trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, chỉ thực hiện quyền
lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng cơ bản của đất nước. Quốc hội thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ với tư cách cơ quan quyền lực nhân dân 
 So sánh sự giống và khác giữa các tác giả


Giống nhau: 
Hai tác giả đều cho rằng: Quyền lực nhà nước được xem là khả năng của nhà nước có thể
buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phải phục tùng ý chí của mình và quyền lực này được
thể hiện trong các mối quan hệ xác định. Nhà nước là bộ máy quyền lực, được nhân dân ủy
quyền, do nhân dân tổ chức, thay mặt nhân dân đứng ra quản lý đời sống cộng đồng. 
Đồng khẳng định quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, là sự kiềm chế, kiểm soát và
phối hợp với nhau để tạo nên tính thống nhất. Để tránh sự chuyên quyền, cát cứ,  phân lập thì
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải được giao cho các cơ quan khác nhau. 
 Quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện ủy quyền cho Quốc hội và Hội
đồng nhân dân. Từ đó, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Như vậy
quyền lực tối cao thuộc về Quốc hội, Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng, nếu cần
thiết thì phải tìm cách trưng cầu ý dân.
  Cuối cùng, hai tác giả đều khẳng định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, Quốc hội giao quyền hành pháp cho Chính phủ, tư pháp cho tịa án, Viện kiểm sát thì chỉ
kiểm sát các cơ quan cấp bộ trở xuống.
Khác nhau:
        ThS. NGUYỄN MINH
ĐOAN

    Tác giả  NGUYỄN VĂN NĂM


Quyền lực nhà nước luôn thuộc
về giai cấp thống trị, chủ yếu
phục vụ lợi ích của giai cấp
thống trị.

Trong mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân thì nhà nước
là chủ thể của quyền lực còn nhân dân là đối tượng của
quyền lực. Mặt khác thì nhân dân có thể để nhà nước tồn tại
cũng có thể phá bỏ nó. Như vậy quyền lực thuộc về nhân
dân còn nhà nước là đối tượng của quyền lực này.

Quyền lực nhà nước thuộc về Nhà nước là chủ thể của Quyền lực nhà nước; trong khi đó
nhân dân và nhân dân sử dụng nhân dân có Quyền lực nhân dân và là quyền lực tối thượng
thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân. 
Quyền lực nhà nước có thể phân Quyền lực nhà nước khơng có sự phân chia mà đó là  “sự
chia được theo đơn vị lãnh thổ phân công lao động quyền lực” giữa các cơ quan nhà nước.
giữa trung ương và địa phương
hoặc giữa các cơ quan nhà nước
theo chiều ngang.


Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự phân công, phối
hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
-Lê Minh TâmGiáo sư, tiến sỹ - Lê Minh Tâm đã trình bày những khái niệm về quyền lực và quyền lực nhà
nước một cách chi tiết. Từ đó, ơng đã làm rõ tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự
phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền cũng như sự phân định tương đối của
quyền lực nhà nước, giới hạn, tương tác giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đầu tiên về khái niệm quyền lực. Có thể thấy rằng quyền lực được sinh ra từ nhu cầu tổ chức
hoạt động chung, nhu cầu lao động xã hội và quản lí xã hội. Và quyền lực thể hiện mối quan

hệ chỉ huy – lệ thuộc hoặc mệnh lệnh – phục tùng. Cũng giống với quyền lực nhà nước, nó
mang tính tương tác xã hội, tính mục đích, tính cưỡng ép và tính chính đáng. Nhưng sự khác
nhau giữa hai quyền lực kể trên là quyền lực nhà nước gắn liền với sự ra đời của nhà nước,
theo đó nhà nước được áp đặt ý chí và buộc những chủ thể trong xã hội phải phục tùng mệnh
của mình nhằm duy trì xã hội. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước và
quyền lực xã hội ln thống nhất với nhau.
Có nhiều quan điểm cho rằng sự thống nhất của quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc Hội
bởi vì Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất cho dân nhân bầu ra. Nhưng quan điểm đó cũng
có những điểm khơng hợp lý thể như thiếu sự phân định phạm vi quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan nhà nước, nhất là thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước đối với quyền lập pháp.
Vì thế, ta cũng có thể hiểu tính thống nhất theo một cách là thống nhất quyền lực nhà nước là
toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tập trung ở nhân dân chứ không thuộc về
Quốc hội. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mặc dù có chức năng nhiệm vụ khác
nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở chính trị chung là xây dựng nhà nước phát triển, dân
chủ dân minh. 
Về việc phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì như tóm tắt ở
trên, quyền lực nhà nước là do dân nhân chủ quyền. Do nhân dân tuy có quyền lực nhưng
khơng thể thực hiện trực tiếp nên phải ủy quyền cho nhà nước. Xã hội ngày càng phát triển,
nhu cầu quản lí ngày càng cao nên việc phân định ba quyền là cách thức cần thiết để phát huy
vai trị của nhà nước trong cơng cuộc xây dựng đất nước. Do quyền lực nhà nước là thống
nhất nên cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp luôn đi cùng nhau chứ không tách rời
nhau, hoạt động cùng nhau. Việc phân công quyền lực nhà nước nhằm mục đích đảm bảo
tính pháp quyền của nhà nước và mang tính xã hội chủ nghĩa, ngồi ra còn phân định nhiệm
vụ quyền hạn cũng như giới hạn của bộ máy nhà nước để nhà nước làm việc có hiệu quả và
ngày càng phát triển hơn.

Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
-Nguyễn Minh ĐoanNguyên tắc quyền lực nhà nước là một khái niệm cơ bản phác thảo sự phân chia thẩm quyền
và sự phối hợp giữa các cơ quan chính phủ khác nhau trong việc thực hiện các quyền lập



pháp, hành chính và tư pháp. Nguyên tắc này đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện
một cách thống nhất và có tổ chức, từ đó giúp duy trì sự ổn định và trật tự xã hội. Bằng cách
phân chia các chức năng khác nhau của nhà nước cho các cơ quan, bộ phận khác nhau,
nguyên tắc quyền lực nhà nước cho phép mỗi cơ quan chun mơn hóa và tập trung vào các
trách nhiệm cụ thể của mình, do đó nâng cao hiệu quả và hiệu quả trong việc cung cấp các
dịch vụ của nhà nước cho người dân. Đồng thời, nguyên tắc quyền lực nhà nước còn đảm bảo
các cơ quan nhà nước phối hợp với nhau một cách thống nhất, đa dạng hóa cơng việc và tối
đa hóa trong việc sử dụng các nguồn nhân lực xã hội.
Mọi xã hội đều phải đối mặt với câu hỏi làm thế nào để giải quyết tranh chấp. Nhiều xã hội
sơ khai đã chọn một hệ thống trả thù riêng để giải quyết tranh chấp, nhưng khi các nền văn
minh phát triển, các cộng đồng bắt đầu chỉ định các tổ chức giải quyết tranh chấp một cách
hợp pháp, theo cách chuẩn mực và tuân theo hiến pháp. Từ những đòi hỏi khách quan trên,
quyền lực nhà nước thường được định lượng bằng các quy định của Hiến pháp để phân định
nhiệm vụ, quyền hạn của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhờ có sự phân định
như vậy mà nhân dân sẽ có thể đánh giá được hiệu quả các cơng việc mình đã đưa cho các cơ
quan mà khơng sợ bị lạm quyền vì nhân dân không thể giải quyết các quyền của nhân dân. 
Mục đích của việc phân cơng, phối hợp quyền lực nhà nước là nhắm kiểm sốt nhà nước,
đảm bảo cho tính pháp quyền của nhà nước và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Một đất
nước muốn phát triển bền vững và bền lâu thì sự chỉ huy thì cần có sự liên kết của các tổ
chức thiết chế và các nhánh quyền lực nhà nước với nhân dân về tính pháp quyền. Phân công
nhiệm vụ quyền hạn cho Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân nhìn chung cũng là để đáp
ứng các yêu cầu quản lí xã hội và tận dụng nguồn nhân lực một cách hợp lí cũng là cơ sở để
kiểm sốt nhà nước. 
Tóm lại, ngun tắc quyền lực nhà nước là một thành phần quan trọng của quản trị tốt, vì nó
cung cấp một khn khổ cho việc phân phối và phối hợp quyền lực trong nhà nước, cho phép
nhà nước phục vụ hiệu quả nhu cầu của người dân. Việc phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng nhằm bảo đảm rằng
nhà nước mang tính thống nhất và thuộc về dân, do dân làm chủ vì những nước duy trì được

sự ổn định lâu dài về kinh tế - xã hội là những nước tuân theo tinh thần pháp quyền.
 
 

Về vai trò và chức năng của nhà nước
-Nguyễn Thị HồiCó thể nói, từ trước đến nay sự cải cách trong việc tổ chức hoạt động bộ máy Nhà nước ta
luôn là một vấn đề quan trọng. Điều đó sẽ thể hiện được việc Nhà nước có đang hoạt động
hiệu quả hay khơng, có điều gì cần chú ý để sửa đổi hoặc nâng cao lên để ngày càng phát
triển. Vai trò của Nhà nước rất quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế, xã hội để đất
nước ngày càng thành công hơn. Xã hội là cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà
nước. Trong xã hội, vai trò của nhà nước sẽ được thể hiện chủ yếu qua việc đề ra các chủ
trương, đường lối, các chính sách, chiến lược phù hợp để phát triển đất nước. Qua các giai
đoạn thì vai trị của nhà nước ngày càng phát triển, đi lên hơn. Ban đầu, vai trò của nhà nước
thấp hơn nhiều so với hiện nay, tính giai cấp thể hiện rõ vì nhà nước chỉ thực hiện chức năng
trấn áp để thống trị giai cấp. Bước ngoặt về vai trò của nhà nước đối với xã hội đã được đánh
dấu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cách mạng tháng Mười Nga đã xoá bỏ chế độ sở hữu


tài sản tư nhân, nhà nước có quyền kiểm sốt các hoạt động kinh tế. Tiếp đến là việc suy
thoái kinh tế năm 1930 và sự sụp đổ các đế chế ở châu  u sau chiến tranh thế giới thứ hai đã
làm nhà nước thay đổi chính sách. Kế hoạch tập trung, can thiệp và phân bổ tài nguyên, kiểm
tra ngành công nghiệp là một trong việc quan trọng của nhà nước. Nhà nước đóng vai trị cốt
lõi trong việc thúc đẩy phát triển lâu dài qua việc cung cấp cơ sở hạ tầng, an ninh và môi
trường kinh tế ổn định. Sự quản lý của nhà nước vô cùng cần thiết trong nền kinh tế thị
trường hiện tại nhằm kiểm soát sự vận hành. Đặc biệt trong xu thế tồn cầu hố nền kinh tế ở
hiện tại, việc hợp tác giữa các quốc gia và doanh nghiệp để phát triển hơn đồng thời họ cũng
phải chịu sự cạnh tranh, ganh đua, lúc này vai trò quản lý của nhà nước vô cùng cần thiết.
Nhà nước ban hành và tổ chức thơng qua các chính sách, tiền tệ, thuế,... để can thiệp vào nền
kinh tế trong quốc gia. Nhà nước cũng thành lập các cơ quan với trách nhiệm điều tiết, quản
lý kinh tế. Đảm bảo về việc phân hoá giàu nghèo, thu thuế, lương lao động, phòng chống các

dịch bệnh hiệu quả hay là bảo vệ môi trường... 
Về phần chức năng của nhà nước, chức năng nhà nước xuất phát từ bản chất, vai trò đối với
xã hội của nhà nước và những nhiệm vụ cơ bản của nó. Và những yếu tố trên có sự thay đổi
nhất định trong các nhà nữa khác nhau và qua các giai đoạn phát triển của nhà nước nên chức
năng của nhà nước cũng có sự biến động theo các yếu tố đó. Bên cạnh đó, chức năng của nhà
nước có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhiệm vụ của nhà nước và mối quan hệ ấy có sự thay
đổi theo từng loại nhiệm vụ. Tùy theo tính chất của chúng mà nhiệm vụ nhà nước được chia
làm hai loại. Thứ nhất, nhiệm vụ cơ bản, chiến lược hay lâu dài. Hai là, nhiệm vụ cụ thể, cấp
bách, trước mắt; Tiếp đến, chức năng của nhà nước rất đa dạng và phong phú nên có thể phân
loại theo nhiều cách khác nhau. Đối với, Trong khoa học pháp lý nước ta có một cách phân
loại phổ biến và truyền thống là căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước để chia chức
năng nhà nước thành hai loại: Một là các chức năng đối nội, tức là những mặt hoạt động chủ
yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước. Hai là chức năng đối ngoại, tức là nữa hoạt động cơ
bản của nhà nước thể hiện mối quan hệ giữa nó với các quốc gia, dân tộc khác như phòng thủ
đất nước để chống xâm lược, tiến hành chiến tranh xâm lược để bành trướng thế lực, mở rộng
thị trường và nô dịch các dân tộc khác… Và ta cũng có thể phân loại các chức năng của nhà
nước theo một số cách khác: Đầu tiên, nếu căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động của nhà nước,
có thể chia chức năng của nó thành các chức năng như: chức năng kinh tế nhằm điều tiết,
quản lý nền kinh tế của đất nước ; chức năng xã hội nhằm giải quyết nữa vấn đề chung vì sự
phát triển của xã hội, chức năng quốc phòng để chống xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền
của đất nước…. Thứ hai, nếu căn cứ vào mục đích hoạt động của nhà nước có thể chia chức
năng của nó thành hai loại là chức năng tổ chức và quản lý. Bao gồm một số chức năng cụ
thể như: chức năng kinh tế, xã hội , thiết lập các mối quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế…;
chức năng bảo vệ như bảo vệ tổ quốc, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội  Ngoài ra, nếu
căn cứ vào khả năng và mức độ tác động của nhà nước tới xã hội thì có thể chia chức năng
của nó thành các loại: chức năng tối thiểu, chức năng trung gian, chức năng tích cực.

Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về ‘bàn tay nhà nước’
-Nguyễn Minh Phong-



Sự sụp đổ bất ngờ và nhanh chóng của hệ thống kinh tế hoá tập trung cao độ của Liên Xô và
khủng hoảng kinh tế phố Wall là hồi chuông cảnh bảo cho 1 thế giới đang thay đổi, đòi hỏi 1
tư duy mới thích ứng về “bàn tay quản lý kinh tế của Nhà nước”. 
Vậy thế giới đã thay đổi như thế nào? Đầu tiên, xu thế đối thoại vừa cạnh tranh, vừa hợp tác
khiến cho hệ thống sản xuất, thương mại và tài chính quốc gia ngày càng được mở rộng và
quốc tế hoá. Đồng thời, sẽ ngày càng đậm nét hơn xu thế hội tụ và “đồng nhất hoá” giữa các
khối kinh tế cũng như các quốc gia về mô thức tổ chức, môi trường và nguyên tắc quản lý kinh
tế chủ yếu trong nước, khu vực và cả tồn cầu. 
Tăng cường q trình tái cấu trúc mới, đa dạng hoá về đa cực và trung tâm, mơ hình, động lực
và mục tiêu phát triển phương hóa việc quản lý và giải quyết các vấn đề của mỗi quốc gia cũng
như quốc tế là sự biến đối tiếp theo của thế giới. Sự biến đổi này làm cho các sản phẩm hàng
hoá dịch vụ ngày càng đa dạng và rẻ hơn dẫn đến vai trị của thơng tin ngày càng quan trọng và
trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của cá nhân, doanh nghiệp và của cả quốc gia. Các
cơng ty xun quốc gia có vai trị ngày càng lớn do có ưu thế vượt trội trong việc huy động
nguồn vốn. Hình thức chia cổ phần cịn là biểu hiện mới và sẽ là mơ hình hiệu quả nhất so với
bất kì loại hình doanh nghiệp nào khác. Các nền kinh tế quốc gia và quốc tế sẽ chuyển dịch
theo hướng thu hẹp và mất dần đi các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống và
hàng loạt ngành sản xuất mới sẽ xuất hiện và phát triển mạnh mẽ hơn. Đồng thời các ngành
dịch vụ sẽ dần chiếm tỉ trọng lớn và đem lại nhiều lợi nhuận. Các công nghệ mới, xa lộ thơng
tin ngày càng phát triển trên phạm vi tồn cầu đẩy nhanh hơn tốc độ lưu chuyển, các yếu tố tái
sản xuất kinh tế-xã hội. Con người sẽ có tri thức tồn diện hơn, đơ thị hố sẽ tăng nhanh dẫn
đến các cấu trúc chính trị và giao lưu văn hoá-xã hội sẽ chuyển dịch tương ứng. “Nền kinh tế
nợ” sẽ trở thành đặc trưng của mọi công ty ở mọi quốc gia kéo theo những xung lực tiềm ẩn
gây bất ổn định tài chính- tiền tệ ở quốc gia và quốc tế. Tuy vậy, chu kỳ kinh tế tư bản khơng
dần mất đi mà sẽ có sự rút ngắn, những cuộc khủng hoảng chu kỳ mang tính quốc tế rất cao
với những nguyên nhân rất đa dạng đòi hỏi phải có những giải pháp. Để chống khủng hoảng
Chính phủ các nước tuân theo các công thức: 1 là mở rộng nhu cầu xã hội thơng qua nới lỏng
chính sách tài chính- tín dụng, hai là khai thác thị trường quốc tế, ba là điều chỉnh hướng năng
lực sản xuất và cơ cấu sản phẩm cung ứng sao cho phù hợp cầu hoặc kích thích lượng cầu mới

có khả năng thanh toán cao. 
Thế giới đang bước vào thời đại kinh tế mới, kinh tế thị trường có điều tiết thích hợp của chính
phủ. Trong đó, u cầu cao hơn về tăng cường vai trò của pháp luật, chế tài, điều tiết nhà nước,
kiểm soát thể chế thị trường, thắt chặt cho vay tín dụng, thiết lập hệ thống thơng tin công khai,
minh bạch, phát triển các công cụ dự báo, cảnh báo và trừng phạt các sai trái, gian lận… Chính
vì thế, tư duy mới về “bàn tay Nhà nước” đang và sẽ ngày càng trở nên rõ nét, bao quát và chi
phối toàn diện các hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội quốc gia và quốc tế
với các biểu hiện chủ yếu sau: 1 khơng duy ý chí, giáo điều, cực đoan hoặc q nhấn mạnh
tuyệt đối hố vai trị chỉ huy tập trung, mang tính áp đặc một chiều của Nhà nước. 2 chủ
động tham khảo, đan xen và phối hợp chính sách giữa các quốc gia trong khu vực, cũng
như toàn cầu hoá với mức tăng tiến cùng chiều với sự gia tăng khối lượng trao đổi quốc
tế song và đa phương. 3 Nhà nước có vai trị ngày càng to lớn trong cuộc chiến chống với
các chấn động cơ cấu hoặc chu kỳ kinh tế bộc phát nhất là khủng hoảng kinh tế tài
chính- ngân hàng dù là diễn ra trong nước hay nước ngồi, đồng thời là vai trị công tác
thông tin, dự báo là giám sát, cảnh báo an toàn. 4 “Bàn tay” điều chỉnh của nhà nước cần
chuyển dịch theo hướng giảm can thiệp hành chính, trực tiếp để chuyển sang hình thức
can thiệp gián tiếp. Tóm lại, thế giới mới đang định hình, địi hỏi tư duy mới thích ứng về
bàn tay bàn tay quản lý của Nhà nước trong khi thực hiện các nguyên tắc kinh tế thị


trường, tránh các thái cực cực đoan , phiến diện trong nhận thức , tăng cường sự chi phối
hợp đồng bộ các công cụ và cấp độ quản lý, giám sát chặt chẽ và chủ động xử lý kịp thời
các tác động mặt trái của chính sách lựa chọn trong thực tiễn bằng hợp lực của sức mạnh
tổ chức và tài chính của trong và ngồi Nhà nước.
Thực tế cho thấy, “bàn tay Nhà nước” Việt Nam về cơ bản đã bắt kịp được với xu thế chung
của thế giới, nhờ đó đã góp phần chèo lái đúng hướng và vững vàng con thuyền kinh tế Việt
Nam vượt qua bao thách thức to lớn. Tuy vậy, để nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả kinh
tế Nhà nước đối với quá trình kinh tế-xã hội ở nước ta, vượt qua các cuộc khủng hoảng trong
một thế giới đang biến đổi tồn diện và nhanh chóng, liệu pháp “bàn tay Nhà nước” ở Việt
Nam cần được hoàn thiện theo một số phương hướng như sau: 1 Tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận

và thực tiễn về một số vấn đề lớn và mới trong chủ trương phát triển và quản lý nhà nước. 2
Tôn trọng yêu cầu khách quan của các quy luật và quy trình quản lý kinh tế, các cam kết hội
nhập và sự hài hoà các lợi ích phát triển, khơng ngừng cải thiện mơi trường kinh doanh. 3 Coi
trọng công tác dự báo, thông tin, phản biện chính sách trong quản lý nhà nước. 4 Đảm bảo sự
gắn kết, hài hòa giữa phát triển kinh tế với quan tâm phát triển văn hoá, giải quyết các vấn đề
bức xúc xã hội-môi trường, nâng cao chất lượng và yêu cầu phát triển bền vững.

Quan niệm về pháp luật: Một vài suy nghĩ
-Hoàng Thị Kim QuếBàn về khái niệm pháp luật, pháp luật là gì, các quan niệm và cách tiếp cận khác nhau về
pháp luật, sự nhận thức, đánh giá, đánh giá và vận dụng pháp luật trong đời sống rất xưa, nay,
vừa quen vừa lạ.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp, có nhiều biểu hiện. Từ những thập kỷ cuối của
thế kỷ trước, các luật gia Liên Xô đã giải quyết vấn đề nhận thức pháp luật và định nghĩa
pháp luật. Từ năm 1975, Giáo sư E. A. Lykaseva đã đề cập đến các quan niệm pháp luật khác
nhau liên quan đến việc áp dụng các khái niệm này, tính tương đối và giới hạn của bất kỳ
định nghĩa pháp lý nào. Theo giáo sư O.E. Leyxo, rất khó để đạt được một định nghĩa chung
về pháp luật vì pháp luật là một hiện tượng xã hội đặc biệt phức tạp. Từ xa xưa, nhà triết học
người Đức Kanto đã nhận xét: các luật gia ln đi tìm một định nghĩa về luật, câu nói này
vẫn cịn ngun giá trị cho đến ngày nay.
Trong suốt chiều dài lịch sử, người ta luôn tranh cãi về một câu hỏi lớn, pháp luật là gì, thế
nào được coi là pháp luật, chủ nghĩa pháp chế, từ lý luận đến thực tiễn, từ các góc độ khác
nhau, người ta có những quan niệm và cách nhìn nhận khác nhau về pháp luật. Nó bắt nguồn
từ đâu và mục đích tồn tại của pháp luật là gì? Từ thực tiễn đến lý luận cổ đại, các hồng đế,
dù nói ngơn ngữ nào, cai trị ở đâu, đều tuyên bố một điều: “Pháp là ta, ta là luật”. Khi buộc
phải thi hành luật nhân danh trật tự công cộng, điều này được coi là "luật là sự đau khổ cần
thiết". Từ quan điểm về mối quan hệ của nó với đạo đức, pháp luật được xác định: pháp luật
là một hiện tượng đạo đức. Từ góc độ công lý và tự do, pháp luật là lượng công lý, lượng tự


do. Tiếp cận theo quan điểm chức năng, pháp luật được xác định là công cụ - phương tiện

điều chỉnh hành vi và quan hệ xã hội.
Quan niệm vật chất về pháp luật tức pháp luật thực định là hệ thống các quy phạm được ban
hành và tồn tại chính thức trong xã hội. Pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp, đa dạng.
Điều quan trọng trong nhận thức về pháp luật khơng chỉ ở nội dung mà cịn ở các hình thức
thể hiện của nó. Phải nghiên cứu, đánh giá cả đầu vào, đầu ra, cả pháp luật ở trạng thái tĩnh
và trạng thái động của pháp luật. Theo quan niệm rộng về pháp luật, pháp luật thực định chỉ
là một bộ phận của pháp luật. Khái niệm pháp luật thực định, tư duy về pháp luật thực định
cũng đã hàm ý nói lên rằng, ngồi pháp luật thực định ra cịn có những bộ phận khác của
pháp luật, cũng thuộc phạm trù pháp luật rộng lớn. Khoa học pháp lý khơng những chỉ phân
tích hệ thống pháp luật mà cịn phải đưa ra những tiêu chí đánh giá pháp luật. Do vậy, bên
cạnh những quan điểm pháp luật thực định (phân tích pháp lý) cịn phải đưa ra hệ thống các
tiêu chí đánh giá pháp luật, pháp luật cần phải như thế nào, tiêu chí để phân biệt cái xấu, cái
tốt của pháp luật trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Trên đây là những vấn đề có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong nhận thức pháp luật và cơ sở để xác định khái niệm, định nghĩa pháp
luật. Hiện nay đang có những quan điểm cho rằng định nghĩa truyền thống lâu nay của chúng
ta về pháp luật cần phải được xem xét lại. Về vấn đề này chúng tơi có ý kiến như sau. Tuy
được diễn đạt khơng hồn tồn giống nhau ở các ấn phẩm khoa học, song về cơ bản, định
nghĩa truyền thống của chúng ta về pháp luật xưa nay là: pháp luật là hệ thống các quy
phạm pháp luật do nhà nước đặt ra hay thừa nhận thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị xã hội, có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội theo đường lối của nhà nước.
Định nghĩa truyền thống này vẫn đúng, khơng sai nhưng chưa đầy đủ, chưa hồn tồn phù
hợp với xã hội đương đại. Về định nghĩa pháp luật, trước hết theo chúng tôi, cần đi từ các
xác định định nghĩa pháp luật. Nhìn lại định nghĩa truyền thống này có thể thấy rằng, trong
định nghĩa đó các thuộc tính cơ bản của pháp luật, xuất xứ trực tiếp của pháp luật và mục
đích của pháp luật đã cố gắng được đưa vào. Định nghĩa về pháp luật như là hệ thống các
quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hay thừa nhận… mới chỉ đề cập pháp luật thực định.
Và, điều này cũng là một trong những lý do chủ yếu làm nên sắc thái đặc thù của chúng ta
trong nghiên cứu, đánh giá, áp dụng, giảng dạy, học tập luật là nặng về phân tích quy phạm
pháp luật. 

Theo chúng tôi, bất kỳ một định nghĩa nào về pháp luật cũng đều mang tính tương đối vì khó
có thể bao qt hết các thuộc tính của pháp luật, các biểu hiện đa dạng của pháp luật, các
yếu tố có giá trị pháp luật. Cần có một định nghĩa pháp luật cả về phương diện nội dung xã
hội và hình thức pháp lý. Một định nghĩa pháp luật mang tính chính thức, phù hợp với chúng
ta hiện nay và như trên đã đề cập cũng chỉ là tương đối, theo chúng tôi là: “pháp luật là hệ
thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, được
xác định chặt chẽ về hình thức thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi
nhận các nhu cầu, các lợi ích của tồn xã hội, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội vì sự trật tự, ổn định, phát triển bền vững của xã hội; bảo đảm và
bảo vệ các quyền con người”. Thể hiện được những thuộc tính đặc trưng nhất của pháp luật
và mục đích điều chỉnh của pháp luật trong xã hội hiện đại. Đồng thời, cũng cần bổ sung các
thành tố khác trong quan niệm pháp luật cho phù hợp với cuộc sống quốc gia và quốc tế.


Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức

- Nguyễn Văn Năm-

Bài viết đã chỉ ra được mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật từ đó chỉ ra được những điểm
giống, khác nhau và sự tác động qua lại giữa đạo đức và pháp luật; đồng thời khẳng định vị
trí, vai trị của đạo đức và pháp luật là những công cụ rất quan trọng để quản lý xã hội.
Đầu tiên là những đặc điểm giống nhau cơ bản giữa đạo đức và xã hội. Trước hết, đạo đức và
pháp luật là những phương tiện điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với các quan hệ xã hội;
đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển trong ổn định, trật tự. Từ đó, cùng với các công cụ
khác mà trật tự xã hội được thiết lập, củng cố và duy trì, hạn chế sự phát triển và đi tới loại bỏ
những mối quan hệ xã hội không phù hợp hoặc trái với những lợi ích hiện tại. Thứ hai, cả đạo
đức và pháp luật đều mang tính quy phạm phổ biến, tác động lên tất cả các cá nhân, tổ chức
và hầu hết các lĩnh vực trong đời sống. Thứ ba, Thứ ba, giữa pháp luật và đạo đức ln có
những sự phù hợp nhất định, “đạo đức của một cồng đồng bao hàm pháp quyền của nó; pháp
quyền của một cộng đồng là đạo đức tối thiểu của nó”. Thứ tư, pháp luật và đạo đức đều

thuộc phạm trù ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử. Mặt khác, có thể nói rằng pháp luật và đạo đức đều thuộc kiến trúc thượng
tầng, chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng và tác động ngược lại chúng. Cuối cùng, trong xã hội
có giai cấp, cả pháp luật và đạo đức đều vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội.
Hai là những điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức. Con đường hình thành pháp
luật chỉ có thể thơng qua con đường xây dựng pháp luật của nhà nước, đạo đức lại hình thành
trên cơ sở tự phát hoặc do các cá nhân tiêu biểu trong xã hội hoặc do các thiết chế xã hội
khác. Hình thức thể hiện của đạo đức khá phức tạp bao gồm hai hình thức chính là khơng
thành văn (ca dao, tục ngữ...) và thành văn (các kinh sách tôn giáo, chính trị, các thiết chế xã
hội khác). Cịn pháp luật hình thức thể hiện dù thành văn hay khơng thành văn thì ln thể
hiện dưới dạng xác định và xu hướng chung ngày càng tồn tại phổ biến dưới dạng các văn
bản quy phạm pháp luật. Về tính xác định của hình thức, pháp luật có tính xác định về hình
thức chặt chẽ hơn đạo đức. Tính chặt chẽ của pháp luật có thể cho chủ thể biết trong điều
kiện nào họ được làm gì, phải làm gì, khơng được làm gì và những hậu quả họ phải gánh chịu
nếu như phạm phải. Ngược lại, tính xác định hình thức trong đạo đức là những quan điểm,
quan niệm mang tính khái quát, hình thành trên cơ sở đa dạng và phức tạp và thường khơng
có những biện pháp chế tài như pháp luật. Về phạm vi điều chỉnh, đây là phạm vi còn gây
nhiều tranh cã song theo tác giả, phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn pháp luật bởi pháp
luật chỉ điều chỉnh những mối quan hệ xã hội mang tầm quan trọng nhất định, điều chỉnh
hành vi con người đến một mức xác định còn đạo đức lại điều chỉnh cả các mối quan hệ xã
hội mà chủ thể của nó là những con người có tình cảm, cảm xúc, lý trí; điều chỉnh hành vi
con người bất kể độ tuổi hay địa vị xã hội nào.    
 

Pháp luật và đạo đức xã hội
-Nguyễn Thị Ngọc MaiBài viết “Pháp luật và đạo đức xã hội” của giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Mai trình bày những
vấn đề cơ bản nhất về pháp luật và đạo đức xã hội thông qua những điểm tương đồng, sự


khác biệt cũng như mối quan hệ giữa chúng. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao

hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật và đạo đức xã hội.
Pháp luật được hiểu là phép tắc do nhà nước đặt ra để quy định hành vi của con người, là hệ
thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý
chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của tồn xã hội,
được đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định,
vì sự phát triển bền vững của xã hội. 
Về nguồn gốc, pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan vừa
mang tính chủ quan. Pháp luật khơng đơn thuần chỉ là ý chí của lực lượng cầm quyền mà còn
là sự phản ánh tập trung các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, là biểu hiện các
quan hệ lợi ích của nhóm cộng đồng người trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
Pháp luật có những dấu hiệu (thuộc tính, đặc trưng) mà các loại quy phạm khác khơng có
như: tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, tính quy phạm phổ biến, tính được đảm bảo bởi
Nhà nước,...Trong đời sống xã hội, pháp luật được đánh giá là công cụ quản lý quan trọng,
hiệu quả và không thể thiếu của bất kỳ một Nhà nước nào. 
 Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi,
quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Là chuẩn mực ứng xử của con người,
đạo đức có vai trị chi phối, tác động tới hành vi của con người trong các mối quan hệ với
cộng đồng nói chung. Như vậy, đạo đức là một phạm trù mang tính cá nhân vừa mang tính xã
hội. Về vai trị, đạo đức vơ cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối sống của
cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân. Bên cạnh việc giúp con người hình thành nhân cách cá
nhân, đạo đức cũng góp phần quan trọng trong việc củng cố, duy trì sự ổn định, trật tự trong
gia đình và xã hội. 
Bàn về những điểm giống nhau cơ bản giữa Pháp luật và Đạo đức, thứ nhất, pháp luật và đạo
đức đều là công cụ điều chỉnh xã hội, là chuẩn mực, khuôn mẫu cho hành vi của các cá nhân,
tổ chức. Thứ hai, pháp luật và đạo đức đều hình thành trên cùng một nền tảng cơ sở kinh tế
xã hội. Thứ ba, trong nhiều trường hợp cả pháp luật và đạo đức đều vừa phục vụ cho lợi ích
của giai cấp cầm quyền vừa phục vụ cho lợi ích của xã hội nói chung. 
Bàn về những điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức xã hội, thứ nhất về nguồn
gốc hình thành, đạo đức chủ yếu hình thành một cách tự phát trong đời sống xã hội do thành
viên xã hội tự đặt ra được xã hội chấp nhận và tự nguyện tuân theo. Pháp luật, theo các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ xuất hiện khi nhà nước ra đời, xã hội đã phát triển
đến trình độ nhất định. Thứ hai, về hình thức thể hiện, đạo đức được hình thành chủ yếu do tự
phát nên các quy tắc thường khơng có hình thức xác định, thường thể hiện dưới dạng bất
thành văn và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Pháp luật do nhà nước ban hành nên
có hình thức xác định như tập qn, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. Tùy từng thời
kỳ lịch sử, từng nhà nước khác nhau và hình thức pháp luật nào được coi là phổ biến. Thứ ba,
về phạm vi tác động, xuất phát từ nguồn gốc hình thành cũng như hình thức thể hiện của đạo
đức trong đời sống xã hội cho nên phạm vi tác động của đạo đức là rất rộng so với pháp luật.
Thứ tư, về khả năng áp dụng và cơ chế điều chỉnh, cả pháp luật và đạo đức đều là khuôn mẫu
hành vi. Tuy nhiên, nếu các quy định của pháp luật thường chặt chẽ chính xác được áp dụng
thống nhất trong phạm vi hiệu lực của nó thì các quy định của Đạo đức thường rất khoái quát,
chung chung. Thứ năm, về biện pháp đảm bảo thực hiện, các quy phạm pháp luật được nhà
nước đảm bảo thực hiện trên hai phương diện cụ thể là: (i) sự phù hợp về mặt nội dung của
quy phạm pháp luật với nhu cầu điều chỉnh xã hội; (ii) đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp
cụ thể như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục hãy áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước,
bằng các biện pháp tổ chức, hành chính, kinh tế. Trong khi đó, các quy phạm đạo đức được


đảm bảo thực hiện trị bằng các biện pháp mang tính xã hội như sự lên án của cộng đồng, sự
tẩy chay của xã hội…
Bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức đức xã hội: Thứ nhất, pháp luật được hình
thành chủ yếu trên cơ sở nền tảng đạo đức xã hội. Thứ hai pháp luật thể chế nhiều kiếp phạm
đạo đức thành pháp luật, đã có nhiều quy tắc đạo đức đã được luật hóa để bảo vệ, giữ gìn.
Thứ ba, pháp luật góp phần hình thành những quan điểm chuẩn mực đạo đức mới, với những
quy định của mình, pháp luật góp phần định hình quan niệm, chuẩn mực đạo đức mới. Thứ
tư, đạo đức hỗ trợ góp phần đưa pháp luật vào đời sống. Bên cạnh đó, khơng phải lúc nào
pháp luật và đạo đức cũng có tác động cùng nhiều mà cũng có tác động ngược. 
Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật và đạo
đức. Bên cạnh những mặt tích cực, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong xã hội Việt
Nam hiện nay phần tồn tại nhiều hạn chế định như: 

Trong một số trường hợp, ranh giới điều chỉnh giữa pháp luật và đạo đức chưa rõ ràng, sự thể
chế hóa các quy phạm đạo đức của nhà nước khơng cụ thể dẫn đến khó ứng dụng vào đời
sống, cùng một hành vi nhưng có thể có các đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Trong xã hội hiện nay còn nhiều quan niệm tư tưởng cổ hủ vẫn tồn tại mà chưa bị ngăn chặn
đúng mức cần thiết. Vì vậy, trên cơ sở phân tích tác giả đã đề xuất: Thứ nhất, xác định đúng
vị trí vai trò của pháp luật và đạo đức trong đời sống xã hội. Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật cũng như các chuẩn mực đạo đức phù hợp kết hợp với việc nâng cao ý
thức cá nhân. Thứ ba, tăng cường công tác phổ biến pháp luật giáo dục đạo đức. Bên cạnh đó,
Nhà nước cần tạo môi trường xã hội minh bạch, thuận lợi để pháp luật được thực hiện
nghiêm minh, các chuẩn mực đạo đức tốt đẹp được phát huy trong các mối quan hệ xã hội.

Tập tục với pháp luật
-Nguyễn Minh ĐoanTập tục trong xã hội
Tập tục được hiểu là cách nói tắt của tập quán và phong tục (tập là tập quán, tục là phong
tục). Tập tục tồn tại và ra đời như một thiết yếu khách quan, một nhu cầu không thể thiếu
trong đời sống cộng đồng của con người, nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ của con người.
Tập tục là quy ước của mỗi cộng đồng dân cư nên mang tính cục bộ, địa phương, mỗi cộng
đồng dân cư thường có những tập tục khác nhau. Hình thức phổ biến của tập tục là truyền
miệng nên có tính chính xác không cao nên việc áp dụng dẫn đến rất tùy tiện.
Tập tục nói chung có vai trị vơ cùng to lớn đối với đời sống cộng đồng, chúng là những
chuẩn mực cho hành vi của con người trong những hình thức tổ chức xã hội.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của văn hóa- xã hội vai trị của tập tục ngày càng bị thu hẹp
lại. Nhà nước, xã hội ngày càng can thiệp nhiều hơn vào các lĩnh vực tự quản của các cộng
đồng, cũng như các mối quan hệ xã hội mà cư dân đã xây dựng được. Nhưng vào các năm
gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhiều tập tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp
đã được khơi phục, tập tục có điều kiện thay đổi và phát triển và phát huy vai trị trong đời
sống xã hội. Có thể nói, ở nước ta hiện nay, tập tục đã, đang và sẽ còn tiếp tục thể hiện vai trò


tích cực và những giá trị xã hội của mình trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, phần lớn các

quan hệ xã hội vẫn chủ yếu được điều chỉnh bởi tập tục đặc biệt là trong các lĩnh vực như
tranh chấp tài sản, giải quyết vay, nợ, hôn nhân và gia đình,....
Những nội dung cơ bản của tập tục và việc áp dụng tập tục
Tập tục là những là những quy ước có tính chất tổng hợp về nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, trong đó thường có phần nội dung đề cập đến những quy tắc,
quy định, cách ứng xử cần tuân theo và phần xác định những hình thức khen thưởng hoặc xử
lí những vi phạm, các cách thức và biện pháp trừng phạt.
Phần nội dung của tập tục thường tập trung vào các lĩnh vực chính của đời sống xã hội như
quy định về các vụ việc dân sự, các việc liên quan đến hơn nhân và gia đình, hay một số một
số quy định liên quan đến những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội,...
Những biện pháp xử lý vi phạm tập tục phần lớn là các biện pháp gây hậu quả bất lợi cho chủ
thể về mặt kinh tế, danh dự. Những biện pháp này thường rất khắc nghiệt và có tác dụng răn
đe rất lớn cho nên số người vi phạm tập tục trên thực tế thường rất ít.
Mục đích của tập tục đều là hướng thiện, vươn tới những điều tốt đẹp cho mỗi cá nhân và cho
cả cộng đồng- vì một cộng đồng đồn kết, gắn bó, tình nghĩa với nhau. Tuy vậy, do nhiều lý
do khác nhau trong các cộng đồng cũng tồn tại khơng ít những tập tục phản tiến bộ, có hại
cho xã hội cũng như mỗi thành việc trong cộng đồng. Tập tục cũng chính là cơng cụ điều
chỉnh của những cộng đồng tự quản và nhiều khi càn cản trở việc thực hiện pháp luật của
Nhà nước.
Nghĩa vụ chấp hành tập tục khơng chỉ có tính bắt buộc đối với những người trực tiếp liên
quan mà những người thân trong gia đình, cộng đồng cũng phải có nghĩa vụ tham gia thực
hiện như là một loại “trách nhiệm liên đới”.
Tập tục trong quan hệ với Pháp Luật
(Quan điểm của Mác: Pháp luật chỉ ra đời tồn tại gắn liền với với xã hội có giai cấp)
Ở mục này, tác giả chỉ ra rằng: Tập tục đã được hình thành và tồn tại trước pháp luật.
Pháp luật chỉ thay thế một phần chứ không thay thế tập tục một cách hoàn toàn trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội
Để có thể giải quyết các vấn đề trong xã hội một cách ổn thỏa và hài hòa, chúng ta nên kết
hợp giữa cả hai là Pháp luật và Tập tục, vì chúng đều là những cơng cụ có chức năng tương
tự nhau.

=> QUAN HỆ GIỮA TẬP TỤC VỚI PHÁP LUẬT THỂ HIỆN TRÊN CẢ BA
PHƯƠNG DIỆN: XÂY DỰNG PHÁP LUẬT, THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ.
a) Trong hoạt động xây dựng pháp luật, một số tập tục có thể được thừa nhận
thành pháp luật.
Pháp luật thực định phải ghi nhận, kế thừa và phát triển tập tục để tạo ra một trật tự xã hội
mới. 


Một người vi phạm pháp luật = vi phạm tập tục: Chế độ 1 vợ 1 chồng, vay mượn phải
trả,...
Nếu như tập tục út thay đổi thì pháp luật thực định ln có những thay đổi rất lớn mỗi khi
có một xã hội mới ra đời
b) Trong thực hiện và áp dụng pháp luật, một số tập tục có thể được áp dụng (là
nguồn luật bổ sung khi được pháp luật chỉ định) để giải quyết vụ việc
Cho phép giải quyết một số vấn đề phức tạp theo tập tục của mỗi địa phương. 
“Trường hợp pháp luật không quy định và các bên khơng thỏa thuận thì có thể áp dụng
tập quán hoặc quy định tương tự của pháp luật, nhung không được trái với những quy tắc
trong Bộ luật này”
c) Một số tập tục không liên quan đến lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh 
Tổ chức cúng giỗ, việc mời nhau khi ăn
d) Pháp luật ngăn cấm. Loại bỏ những tập tục trái với pháp luật, có hại cho xã hội
Có hai trường hợp



Các quy định khơng khoa học, công bằng, biện pháp trừng phạt tàn bạo, xâm hại thô
bạo danh dự, nhân phẩm cá nhân
Tập tục ấy ra đời vì quy định đã trở nên lỗi thời khơng còn phù hợp nhưng chưa được
sửa đổi hoặc hủy bỏ


Những tập tục có nội dung trái với pháp luật sẽ bị pháp luật kìm hãm, cấm đốn hay loại
bỏ
Một số kiến nghị 
Tiến hành sưu tầm, tập hợp hóa các tập tục được xem là quan trọng, có giá trị đang tồn tại
trong khắp các miền của đất nước. Giúp cho các cơ quan xét xử thuận lợi hơn mỗi khi cần áp
dụng tập tục để giải quyết một vụ việc nào đó.
Chú trọng đúng mức tới việc xây dựng hương ước, quy ước mới. Chuyển hóa dần những tập
tục khơng thành văn vào hương ước hay quy ước mới. Giúp hỗ trợ tích cực cho việc quản lý
nhà nước bằng pháp luật
Củng cố vị trí, vai trị của những người đứng đầu cộng đồng (già làng, trưởng thôn,...) là
những người vừa vận dụng pháp luật vừa kết hợp với tập tục để trực tiếp giải quyết hầu như
mọi việc lớn nhỏ trong cộng đồng của mình. 

Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã hội
-Lê Vương Long-


Bài viết “Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã hội” của tác giả Lê Vương Long
bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán cũng như các vấn để nảy sinh trong mối quan
hệ ấy.  Theo tác giả, Tập quán Việt Nam được định nghĩa theo từ điển tiếng việt là thói quen
được hình thành từ lâu, được mọi người tuân theo. Giá trị của tập quán được thể hiện ở tính
quy phạm nhưng lại mang tính tự phát, cục bộ và khó thay đổi. Tập qn có nhiều loại, được
hình thành ở nhiều cấp độ khác nhau và mang các đặc tính tiêu biểu cho loại hình tập qn
đó. Trong đời sống xã hội có giai cấp, pháp luật và tập quán là các phương tiện điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội, đảm bảo các mối quan hệ xã hội được phát triển trong trật tự có lợi
cho giai cấp cầm quyền. Nếu so với tính bắt buộc chung của pháp luật thì đối với tập qn, nó
cịn mang tính bảo thủ, tồn tại chủ yếu qua hình thức truyền miệng, chưa cụ thể về nội dung
nên q trình áp dụng cịn thụ động và phạm vi tác động, tính bắt buộc hay biện pháp đảm
bảo cũng còn thấp. Từ lâu, lịch sử nước ta gắn liền với nền văn hoá lúa nước nên với lối sống

quần cư như vậy thì giá trị thực tế của tập quán trong điều chỉnh và quản lí xã hội là rất lớn.
Có thể nói lúc bấy giờ, tập quán đã trở thành yếu tố cần thiết trong văn hoá làng xã và lối
sống cộng động mang tính bền vững. Nhưng trong ngày nay, với lối sống theo pháp luật, nó
lại trở thành yếu tố vừa góp phần thúc đẩy vừa gây nên trở ngại cho việc xác lập các hành vi
hợp pháp. Tác giả đã nêu lên ba trường hợp mà pháp luật và tập quán có thể “chung sống”
với nhau trong việc điều chỉnh xã hội. Thứ nhất, sự ra đời của tập quán pháp khi một tập quán
thoả mãn hai điều kiện: là một tập quán hữu ích, được sử dụng rộng trong đời sống và được
nhà nước thừa nhận, nâng lên thành các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Thứ hai,
các tập quán tốt đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc được nhà nước bảo vệ bằng việc tạo
lập mơi trường pháp lí cần thiết cho sự phát triển thuận lợi của chúng trong đời sống xã hội.
Thứ ba, tập quán được sử dụng để giải quyết các vụ việc trong trường hợp pháp luật không
quy định. Như đối với trường hợp thứ ba, việc áp dụng tập quán sẽ mang tính cá biệt, độc lập
cho từng trường hợp. Nhìn chung, khả năng tương hợp giữa tập quán xã hội với pháp luật là
tương đối cao qua một số quy định trong Bộ luật dân sự nước ta được tác giả đem ra phân
tích. Từ đó, tác giả đưa ra những vấn đề chúng ta cần làm rõ trong việc áp dụng tập qn vì
nó có nhiều điểm khác biệt so với áp dụng quy phạm pháp luật. Chúng xoay quanh những câu
hỏi về thời gian, điều kiện áp dụng, nguyên tắc,.... cụ thể bao gồm: Việc lựa chọn tập quán để
áp dụng là quyền của toà án hay là sự thoả thuận của các bên đương sự? Những căn cứ đặt ra
để lựa chọn tập quán áp dụng? Nguyên tắc, trình tự thủ tục áp dụng tập quán? Xung đột tập
quán trong áp dụng và biện pháp xử lí? Hiệu lực về thời gian của tập quán được xác định như
thế nào? Có thể áp dụng tập quán đã bị mai một từ lâu hay tập quán đương thời?. Ngồi
những khả năng tương hợp thì pháp luật đối với tập qn cịn có khả năng tương khắc xảy ra
bởi những tập tục đã trở thành hủ tục làm ảnh hưởng đến lối sống mới bị pháp luật kìm hãm
hoặc triệt tiêu tính phổ biến của nó. Hoặc cũng có thể là các sản phẩm trực tiếp của những hủ
tục đó có thể gây độc hại đến sự an toàn của các quan hệ xã hội, truyền thống tốt đẹp của dân
tộc bị pháp luật phủ nhận. Nhìn chung, sự tương hợp hoặc tương khắc giữa pháp luật với tập
quán trong điều chỉnh quan hệ xã hội có thể xảy ra dưới góc độ giữa pháp luật quốc gia với
tập quán dân tộc; giữa các điều ước quốc tế mà Nhà nước tham gia kí kết hoặc pháp luật nước
ngồi có liên quan đến nội dung điều chỉnh cụ thể với tập quán dân tộc; giữa pháp luật quốc
gia và tập quán quốc tế. Từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với tập quán trong

điều chỉnh quan hệ xã hội ở nước ta, thì tác giả đã nêu lên những vấn đề cần quan tâm. Đầu
tiên, cần sưu tầm, tuyển chọn các tập quán điển hình, tích cực, có khả năng tương hợp cao với
pháp luật để pháp luật hoá hoặc hỗ trợ cho việc giải quyết các tranh chấp khi chưa có quy
định pháp luật điều chỉnh. Thứ hai, nước ta có 54 dân tộc anh em, đa số dân cư sống ở nông
thôn nơi mà sự ràng buộc bởi phong tục tập quán là cịn rất lớn, dân trí pháp lí thấp, do đó
phải xây dựng hương ước, tộc ước và chuẩn hố lệ làng, luật tục trong điều kiện hiện nay.
Thứ ba, cần có những giải pháp mang tính tổng thể về xây dựng các thiết chế làng xã văn
hoá, thực hiện xố đói giảm nghèo, giảm dần sự khác biệt xã hội nhằm bảo tồn, phát triển các


giá trị văn hoá phi vật thể. Cuối cùng, giữ gìn và phát triển những di sản văn hố dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá thế giới, sáng tạo, chọn lọc, vun đắp lên những giá trị mới để loại trừ
những tập quán lạc hậu, những thói hư tật xấu trong thời đại nền kinh tế thị trường có thể gây
nên sự lệch chuẩn các thang giá trị xã hội có thể làm mai một phong tục tập quán tốt. Tóm
lại, sự tương hợp giữa pháp luật và tập quán chỉ đem lại hiệu quả nếu chúng ta sử dụng tập
qn với tính cách là cơng cụ bổ sung điều chỉnh một số quan hệ xã hội trong đời sống xã
hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của cơng dân. Thiết nghĩ, đây cũng là vấn đề có ý nghĩa về lý
luận và thực tiễn trong việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy tính đặc thù văn hố pháp lý trong
bản sắc văn hoá dân tộc.

Các loại nguồn của pháp luật việt nam hiện nay

-Nguyễn Thị Hồi 
Khi xem xét về nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, cần phải quan tâm cả nguồn nội
dung và nguồn hình thức của nó. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối.
Đầu tiên, TS. Nguyễn Thị Hồi đã nêu ra một số nguồn nội dung của pháp luật Việt Nam là :
Đường lối, chính sách của Đảng
Đường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp luật bởi vì chúng định
ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong một giai đoạn nhất
định cũng như những phương pháp, cách thức cơ bản để thực hiện những mục tiêu, phương

hướng này. Và những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức đó sẽ được Nhà
nước thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế.
Nội dung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), từ Hiến pháp, luật
cho đến các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, khơng được trái với đường lối, chính sách
của Đảng.Về mặt lý luận, đường lối, chính sách của Đảng chỉ có thể là nguồn nội dung mà
khơng thể là nguồn hình thức của pháp luật. Nói tóm lại, việc áp dụng thẳng đường lối, chính
sách của Đảng vào các lĩnh vực của xã hội là một hạn chế cần khắc phục.
Nhu cầu quản lý kinh tế- xã hội của đất nước
Đây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật, một trong những cơ
sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật cụ thể
nhằm xây dựng đồng bộ các loại thị trường và cụ thể hóa các chính sách tài chính, thuế, tiền
tệ, giá cả,.. sắp xếp, cơ cấu lại các ngành kinh tế, điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo chiều
hướng mà Nhà nước mong muốn, chiều hướng và thúc đẩy sự tăng trưởng, vừa bảo đảm sự
cân đối và ổn định của nền kinh tế – xã hội.
Các tư tưởng, học thuyết pháp lý



×