Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

MÀU SẮC VÀ ÁNH SÁNG TÂM LINH NƠI THỜ TỰ Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG MỸ THUẬT doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.71 KB, 8 trang )





MÀU SẮC VÀ ÁNH SÁNG TÂM LINH
NƠI THỜ TỰ Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ



Hầu hết kiến trúc các nơi thờ tự ở khu vực đồng bằng bắc bộ
từ buổi sơ khai là kiến trúc kiểu chữ Nhất, rồi chữ Nhị, chữ
Công, chữ Đinh, chữ Tam, nội công ngoại quốc v.v với hệ
mái vì kèo đòn tay thượng lương, dùi, mè để đỡ mái. Lúc
đầu mái lợp lá, lợp rơm, lợp rạ, lợp cỏ tranh, sau này lại lợp
ngói để chống nắng mưa và có độ bền cao. Các công trình kiến trúc phục vụ tín
ngưỡng tôn giáo có đặc thù riêng với hệ mái cong và bốn góc theo kiểu tàu đao, lá
mái, lòng thuyền, rồi chồng mái, kéo mái, nối mái, vẩy mái Chiều cao mái
bằng 2/3 chiều cao công trình. Hệ mái này còn được gắn các tượng tròn, phù điêu,
hoa lá cách điệu, con kìm, hoặc tứ linh (long - li - qui - phượng) tạo ra các giá trị
thẩm mĩ cho kiến trúc công trình. Đồng thời che mưa, che nắng và tạo ánh sáng
lung linh huyền ảo cho nội thất kiến trúc nơi thờ tự.
Màu sắc và ánh sáng tâm linh trong nơi thờ tự nói chung tương tự nhau do kết cấu
và bố cục kiến trúc. Khu vực có ánh sáng mạnh nhất là ở ngoài sân, tiếp đến là tiền
tế hoặc tiền đường (ánh sáng giảm dần và gần như tối hẳn). Khi bước qua hàng
hiên và bậc cửa ta thường phải dừng lại giây lát rồi mới bước tiếp bởi ánh sáng đã
giảm đáng kể, tới hậu cung thâm nghiêm thì màu sắc và ánh sáng nơi đây đã khác
hẳn, nó đã hoàn toàn hoà nhập với kiến trúc trong không gian u tịch. Màu sắc và
ánh sáng được bộc lộ thật rõ khi nó được phân chia bởi hệ thống lớp lang của
không gian kiến trúc nơi tôn nghiêm của tín ngưỡng, tôn giáo Trong phạm vi bài
viết này xin được giới hạn ở màu sắc và ánh sáng tâm linh trong nơi thờ tự ở các
ngôi chùa thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ.


Trong hệ thống kiến trúc tín ngưỡng, tôn giáo, chùa làng là một trong những thể
loại kiến trúc tạo nên nhiều nét đẹp truyền thống. Đây là những công trình kiến
trúc gỗ kết hợp với đá, đất nung, ở vài nơi còn dùng cả đá ong thô nhám rất thẩm
mĩ. Hầu hết các chùa làng đều có trang trí trên hệ thống kết cấu kiến trúc, các hình
chạm khắc hay phù điêu gỗ được trang trí, tập trung nhất vẫn là ở khu vực phật
đường, đây là khu thờ tự chính. Mật độ chạm khắc thường dày đặc trên cốn, ván
bưng, vì kèo, cửa võng, hoành phi câu đối, đại tự Tuy các hình trang trí trên kiến
trúc còn phụ thuộc vào độ lớn, nhỏ của gỗ, nhưng nó rất tinh vi, uyển chuyển bởi
những bàn tay tài khéo của các nghệ nhân làng nghề, họ đã mang hết tâm, hết sức
vào công việc của nhà Phật
Khu vực tòa thượng điện có mật độ ánh sáng tự nhiên giảm tới mức tối đa và
nhường chỗ cho ánh sáng nhân tạo tác động vào không gian nội thất. Hơn nữa ở
phật điện, lớp trên cùng trong xa nhất thờ hết thảy các chư Phật, lớp dưới ở giữa là
điện thờ phật và bồ tát chủ việc tiếp dẫn chúng sinh về cõi cực lạc, lớp thứ ba thờ
Phật và bồ tát chủ việc giáo hoá chúng sinh ở cõi sa bà (là cõi thế giới ta ở đây),
lớp thứ tư thờ Phật Thích Ca mới giáng sinh ra ở đời và hai vị Thiên Vương làm
chủ tể trên cõi trời, các lớp ngoài thờ bốn vị Thiên Vương và Thiên Thần chủ việc
hộ trì Pháp Phật Theo cái lí ấy thì ở trong điện Phật phải có bốn lớp hay sáu lớp
từ trong cùng điện ra đến ngoài bái đường. Các lớp tượng khá dày đặc được bài trí
từ cao đến thấp, từ trong ra ngoài, do vậy ánh sáng ở nơi đây lại càng âm u, huyền
ảo, tĩnh mịch Mặt khác, nhiệt độ không khí ở nơi đây so với bên ngoài cũng giảm
hẳn, khiến ta có một cảm giác nhẹ nhàng, dễ chịu như đang bước vào một thế giới
khác với thế giới bên ngoài, để tĩnh tâm hướng tới cảnh Phật.
Phụ thuộc vào qui luật của tự nhiên mà ánh sáng trong kiến trúc, điêu khắc ở chùa
cũng thay đổi theo, nhưng ở một góc độ nào đó thì nội thất chùa đã giải quyết được
những ưu điểm của ánh sáng trong nội thất bằng ánh sáng nhân tạo mang tính khả
quan. Xét chi tiết về ánh sáng trong chùa tôi xin có mấy nhận xét sau:
Trong chùa luôn có sự thay đổi không gian ánh sáng theo mùa khác nhau. Mùa hạ,
mùa thu ánh sáng nhiều; mùa đông, mùa xuân ánh sáng ít.
Ngay trong ngày nơi đây cũng luôn có sự thay đổi không gian ánh sáng theo thời

gian, từ mờ sáng đến trưa, chiều, tối và đêm.
Mật độ và vị trí bày đặt tượng pháp khác nhau, dẫn đến cường độ ánh sáng của
từng nơi trong chùa cũng không hoàn toàn giống nhau.
Trong khuôn viên chùa cho thấy: khu sáng nhất là hành lang, rồi đến tiền đường, ít
hơn là thiêu hương. Toà thượng điện là ít ánh sáng hơn cả, nên tối nhất.
Dựa vào những điều kiện khách quan của ánh sáng tự nhiên và điều kiện bắt buộc
của việc bài trí tượng pháp trong chùa mà ta phải có hệ thống ánh sáng nhân tạo
cho phù hợp với không gian kiến trúc nơi thờ tự.
Toà bái đường có ánh sáng mạnh nên các pho tượng hiện diện nhiều chi tiết, mỗi
pho tượng lại có vai trò và tư thế biểu lộ khác nhau, các nghệ nhân lại sơn các màu
cụ thể khác nhau để diễn tả các chất liệu khác nhau trên các pho tượng. Do vậy khi
được ánh sáng chiếu vào, làm khối thay đổi về ảo giác, đã tạo nên sự sống động
cho các pho tượng. Mặt khác bản thân mỗi pho tượng tự bộc lộ hình khối riêng,
nhưng lại hoà nhập được với quần thể chung để tạo nên nét đẹp hài hoà của tổng
thể không gian nghệ thuật. Tòa bái đường có nhiều ánh sáng nhất nên sự va đập
của ánh sáng tự nhiên đã ảnh hưởng trực tiếp đến các pho tượng, làm nổi bật các
chi tiết trang trí và khối điêu khắc trong thủ pháp thể hiện tính cách nhân vật. Do
vậy, đã in sâu ấn tượng cho các tín đồ khi đứng trước các tác phẩm nghệ thuật
mang phong cách tả thực này.
Khu vực thiếu ánh sáng nhất là toà thượng điện. Nơi đây là thế giới tượng pháp các
chư phật, bồ tát, thiên vương và thiên thần Ta chỉ nhìn thấy và cảm thấy hình
bóng của các ngài đứng, ngồi, lớp trước, lớp sau chứ hoàn toàn không thể thấy cụ
thể được các chi tiết. Các pho tượng ở khu vực này chỉ phủ hoàng kim và sơn son
thiếp vàng, khi được đón ánh sáng từ các đèn dầu và nến, ánh sáng kim loại của
từng pho tượng sẽ tự phát sáng như ánh hào quang, lung linh và huyền ảo vì bản
thân mỗi pho tượng là một nguồn sáng tự thân, nên đã tạo ra được sự hư hư, thực
thực phù hợp với triết lý sắc sắc không không của nhà Phật.
Phía sau điện thờ Phật có nhà tổ (còn gọi là Tăng đường), ở Việt Nam các nhà tổ
trong chùa thường thấy thờ đức Ananđà làm thánh tăng.
Trên bàn thờ các vị tổ ở tăng đường còn thờ đức “Tổ tây” chính Pháp danh của

ngài là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Đáng lẽ ở nhà tăng đường chỉ thờ vị Thánh
Tăng và Chư Tổ đã tu ở chùa mà thôi. Song ta thường thấy ở gian giữa nhà ấy có
ban thờ Phật, gian bên hữu có ban thờ các Tổ, ban bên tả có ban thờ Chư Vị.
Chư vị nói chung là các vị thánh thần của Điện tứ phủ là thiên phủ, địa phủ, thuỷ
phủ và nhạc phủ, cùng các thánh mẫu ở tam toà là Đệ Nhất Thượng Thiên, Đệ Nhị
Thượng Ngàn, Đệ Tam Thoải Cung Chư vị thánh thần của điện thờ tứ phủ không
có quan hệ gì đến đạo Phật, nhưng trong tín ngưỡng dân gian, dân ta thường tin các
vị thần thánh ấy có can dự đến sinh mệnh, hoạ, phúc của đời người nên chùa
thường làm ra điện tứ phủ bên cạnh để thờ chư vị. Khu vực này thường là nhà một
lớp kiểu chữ Nhất, chan hoà ánh sáng nên các tượng thờ thấy rất rõ hình khối,
đường nét và đặc tính của từng ngôi vị. Được tô vẽ sơn màu, tả chất và còn có cả
xiêm y như tượng Đệ Nhất Thượng Thiên mặc áo lụa đỏ, Đệ Nhị Thượng Ngàn
mặc áo lụa màu xanh lá cây, Đệ Tam Thoải Cung mặc áo lụa trắng v.v
Nhìn chung các pho tượng thờ tự trong chùa đã kết hợp chặt chẽ ánh sáng thiên
nhiên, ánh sáng nhân tạo, cộng với phong cách nghệ thuật và vị trí bày đặt tượng
pháp đã tạo nên các giá trị tâm linh ở từng ngôi vị phật và thánh cụ thể.
Tóm lại: Chùa là không gian thờ tự và tu hành của các tín đồ đạo Phật, nên chùa đã
định hình và có chuẩn mực về kiến trúc, chuẩn mực về tượng pháp và cách bài trí
các tượng pháp. Chùa đã có vị trí tọa lạc theo đúng các nguyên tắc và chuẩn mực
của phong thuỷ, chùa đã trồng các loại cây có hương, có sắc, có hình để có ý nghĩa
ở nơi thờ tự. Đồng thời cũng tạo ra kiến trúc cảnh quan giữa con người hòa hợp với
thiên nhiên. Cây mộc, cây đại, cây ngâu đã trở thành biểu tượng không thể thiếu
được trong không gian chùa Việt ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Đèn dầu và cây
nến kết hợp với chừng mực ánh sáng của thiên nhiên đã tạo ra các giá trị triết lí
Phật Giáo trong không gian ánh sáng chùa Việt.
Ngày nay nguồn năng lượng chính là sử dụng điện năng. Khi sử dụng nguồn ánh
sáng này đã không ít nơi thờ tự dùng đèn có công suất quá lớn, làm mất đi các giá
trị văn hoá và tâm linh tinh tuý của dân tộc ta. Hi vọng rằng, việc bài trí ánh sáng
ngày nay nên có nghiên cứu đúng cách và kế thừa vốn cổ của người xưa thì đấy
cũng là cách bảo tồn các giá trị văn hoá của dân tộc trong thời hội nhập.


×