Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.36 KB, 75 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
LỜI CAM KẾT
Tôi là: Lê Thị Huệ
Sinh viên lớp: Kinh tế phát triển 48B
Tôi xin cam đoan bài chuyên đề này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi
và chưa từng được công bố trên bất kì phương tiện truyền thông nào. Các số liệu đưa
ra trong bài viết là hoàn toàn có thật. Trong quá trình nghiên cứu tôi có tham khảo
thêm một số tài liệu đã được liệt kê ở cuối chuyên đề.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2010.
Tác giả chuyên đề
Lê Thị Huệ
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy tôi
suốt thời gian ngồi trên ghế giảng đường đại học, cung cấp cho tôi những kiến thức
quý báu để tôi có thể vận dụng viết được bài chuyên đề này.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các cô chú, các anh, các chị cán bộ công chức
trong Sở Kế hoạch – Đầu tư Thành phố Hải Phòng đã giúp đỡ tôi thu thập tài liệu, bổ
sung kiến thức phục vụ chuyên đề, học hỏi kinh nghiệm cũng như phương pháp làm
việc trong quá trình thực tập.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới Ths. Nguyễn Thị Phương Thu là người đã
giúp đỡ tôi rất nhiều từ việc xây dựng đề cương đến việc hoàn thiện bài chuyên đề
này trong suốt thời gian thực tập.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2010.
Tác giả chuyên đề
Lê Thị Huệ
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
2


Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
DANH MỤC BẢNG
Hình 1: Kết quả thu hút FDI theo đối tác năm 2009 của Hải Phòng .................................
Hình 2: Biểu đồ thu hút FDI vào Hải Phòng qua các năm ................................................
Hình 3: Biểu đồ cơ cấu GDP theo ngành của Hải Phòng qua các năm ..............................
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BCC Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
BĐS Bất động sản
CNH – HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CSHT Cơ sở hạ tầng
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
EU Liên minh Châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm trong nước
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
KCN Khu công nghiệp
KCN Khu công nghiệp
KCX Khu chế xuất
KT – XH Kinh tế - xã hội
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
TNHH Trách nhiệm hữu hạng
TP Thành phố
WTO Tổ chức thương mại quốc tế

SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
3


Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
LỜI MỞ ĐẦU
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, vốn là một nhân tố không thể không
được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần có vốn hơn
nhiều hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ cần phải có cả vốn
từ nước ngoài, trong đó có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
FDI được xem như chiếc chìa khoá của sự tăng trưởng kinh tế. Nó đã và đang
đóng góp một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát
triển trên thế giới. Tại các quốc gia có chính sách đầu tư nước ngoài hợp lý, FDI
không chỉ làm tăng cung về vốn đầu tư mà còn có vai trò thúc đẩy chuyển giao công
nghệ, đặc biệt là thúc đẩy quá trình tích tụ vốn con người - một nhân tố thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn.
Khu vực FDI đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội (KT- XH),
FDI góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH- HĐH), tăng năng lực sản xuất, mở ra nhiều ngành
nghề sản phẩm mới, tạo việc làm và quan trọng hơn là đào tạo và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. FDI góp phần phát triển quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế,mở rộng quy mô và thị trường xuất khẩu. Tạo điều kiện để tiếp
thu, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và
học tập kinh nghiệm quản lý.
Điều này càng khẳng định sự lợi ích của FDI trong sự phát triển kinh tế, đặc
biệt là tại các quốc gia đang vươn mình cố gắng đạt đến giai đoạn cất cánh về kinh tế.
Việt Nam là một những trường hợp điển hình hiện nay đang cố gắng bắt kịp các
quốc gia lân cận trong vùng Đông Nam Á.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH của Hải Phòng đến năm 2010,
kinh tế đối ngoại luôn được xem là lĩnh vực kinh tế động lực của thành phố. Trong
đó hoạt động đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng, là động lực để thúc
đẩy phát triển KT- XH của thành phố theo định hướng CNH – HĐH.
So với nhiều địa phương khác trong cả nước, Hải Phòng có lợi thế đặc biệt về vị
trí địa lý với vai trò là một trong những cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm

Bắc Bộ, là cảng biển quốc tế lớn nhất Miền Bắc và thứ hai cả nước (sau Thành Phố
Hồ Chí Minh), là đầu mối giao thông của các tuyến đường bộ, đường thủy, đường
hàng không, đường sắt, là trung tâm thương mại du lịch lớn của Việt Nam, có hệ
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
thống thông tin liên lạc hiện đại, dân số trẻ với lực lượng lao động dồi dào… Chính
những lợi thế này giúp Hải Phòng là một trong những địa phương sớm nhất của Miền
Bắc xây dựng được khu công nghiệp (KCN) tập trung và có quy mô lớn để thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài.
Những năm gần đây, Thành Phố Hải Phòng luôn đứng trong “top” các tỉnh -
thành phố thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất cả nước. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài đem lại tốc độ phát triển nhanh cho nền kinh tế thành phố. Hải Phòng cần
thu hút FDI không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Với kết quả đạt được trong
thu hút FDI thời gian qua mở ra cho thành phố khả năng, triển vọng lớn trong tương
lai về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất phát từ tình hình thực tiễn nói trên
cùng với triển vọng phát triển của thành phố trong tương lai, em đã lựa chọn đề tài:
“Góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hải Phòng”. Nội dung của chuyên
đề gồm 3 chương: Chương I giới thiệu tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và
môi trường đầu tư. Chương II phân tích thực trạng thu hút vốn FDI theo đối tác, theo
hình thức đầu tư, theo ngành, lĩnh vực và thực trạng môi trường đầu tư ở thành phố
Hải Phòng từ đó đánh giá được những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn
chế và nguyên nhân. Trên cơ sở nguyên nhân của những tồn tại hạn chế và cơ hội,
thách thức, mục tiêu của thành phố trong thời gian tới cũng như giải pháp chung của
nhà nước và thành phố, chương III sẽ đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện
môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút FDI vào thành phố.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu

Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và
môi trường đầu tư.
1.1. Những lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư
a. Khái niệm về đầu tư:
Cho đến nay, đầu tư không còn là một khái niệm mới đối với nhiều người, nhất là
với những người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này
lại được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Có người cho rằng đầu tư là phải bỏ một cái gì
đó vào một hoạt động nhất định nhằm thu lại một lợi ích trong tương lai. Nhưng cũng
không ít người lại quan niệm đầu tư là các hoạt động sản xuất kinh doanh để thu lợi
nhuận. Thậm chí thuật ngữ này còn được sử dụng rộng rãi như câu cửa miệng để nói lên
chi phí về thời gian, sức lực và tiền bạc vào mọi hoạt động của con người trong cuộc
sống.
Theo Jonh Marnad Keynes: “Đầu tư là hoạt động mua sắm tài sản cố định để tiến
hành sản xuất hoặc có thể là mua tài sản tài chính để thu lợi nhuận. Đầu tư, theo cách
dùng thông thường là việc cá nhân hoặc công ty mua một tài sản tại sở giao dịch chứng
khoán”. Trong khái niệm của mình ông đã nói đến mua tài sản tài chính, song chủ yếu
tập trung vào khái niệm đầu tư tạo thêm tài sản vật chất mới (như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng…), kéo theo các hoạt động khác, tạo thêm việc làm mới để thu về một khoản lợi
nhuận trong tương lai, “khi một người mua hoặc đầu tư một tài sản, người đó mua quyền
để được thu một loạt các khoản lợi tức trong tương lai mà người đó hy vọng dành được
qua việc bán tài sản cố định làm ra…”. Theo quan niệm của ông: kết quả đầu tư về hình
thái vật chất là tăng thêm tài sản cố định, tạo ra tài sản mới về mặt giá trị, kết quả thu
được lớn hơn chi phí bỏ ra.
Còn theo P.A.Samuelson: đầu tư là hoạt động tạo ra vốn tư bản thực sự, theo các
dạng nhà ở, đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng và tăng thêm hàng tồn kho. Đầu tư cũng có thể dưới dạng vô hình như giáo dục,
nâng cao chất lượng nhân lực, nghiên cứu, phát minh… Đối với ông thuật ngữ tài chính,
đầu tư mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, dùng đầu tư để chỉ một loại chứng khoán…

hay nói cách khác, đó không phải là đầu tư thực sự của nền kinh tế. Trên góc độ làm
tăng thu nhập cho tương lai, đầu tư được hiểu là “hoạt động kinh tế từ bỏ tiêu dùng hôm
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
nay với tầm nhìn để tăng sản lượng cho tương lai”. Trên góc độ rủi ro của đầu tư, đầu tư
được hiểu là “canh bạc của tương lai” với niềm tin, kì vọng thu nhập do đầu tư đem lại
sẽ cao hơn chi phí đầu tư. Các vấn đề mà Samuelson nêu ra trong các cách tiếp cận về
đầu tư đã cho biết đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hôm nay để có thu nhập cao hơn trong
tương lai và đó là quá trình chứa đựng những rủi ro. Ngoài ra, ông cũng xác định các
dạng chính của đầu tư, trong đó có cả hoạt động đầu tư cho khoa học, kỹ thuật và phát
triển con người. Như vậy, có thể nói khái niệm về đầu tư mà P.A.Samuelson đưa ra là
khái niệm tương đối đầy đủ.
Tóm lại, có nhiều những quan niệm khác nhau về đầu tư nhưng có thể coi khái
niệm sau đây là đầy đủ nhất: đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các
kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải bỏ ra khi tiến
hành đầu tư. Kết quả đầu tư là năng lực sản xuất mới tăng thêm, tài sản cố định mới
được đưa vào sử dụng, số lượng và chất lượng nhân lực tăng thêm, tiềm lực khoa học,
công nghệ được tích lũy…
b. Đặc điểm của đầu tư:
Có ba đặc điểm quan trọng để phân biệt hoạt động đầu tư với các hoạt động khác là
hoạt động đầu tư có sử dụng vốn, có sinh lời và có rủi ro.
* Có sử dụng vốn:
Vốn là nguồn lực không thể thiếu trong các hoạt động kinh doanh., sản xuất của
các nhà đầu tư. Vốn đầu tư có thể tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau mà chủ yếu là 3
hình thái: tài sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, hàng hóa, nguyên vật liệu
v.v…), tài sản vô hình (bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, bí quyết kinh doanh,
nhãn hiệu, quyền sử dụng đất…), tài sản tài chính (tiền, cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu,

các giấy tờ có giá khác..).
* Có sinh lời: lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội
Người ta không thể bỏ ra một số lượng tài sản mà lại không dự tính thu được giá trị
cao hơn giá trị ban đầu. Lợi nhuận là chênh lệch giữa thu nhập mà hoạt động đầu tư đem
lại cho chủ đầu tư với chi phí mà chủ đầu tư phải bỏ ra để tiến hành hoạt động đầu tư đó.
Lợi ích kinh tế xã hội là chênh lệch giữa những gì mà xã hội thu được với những gì mà
xã hội mất đi từ hoạt động đầu tư. Lợi ích kinh tế xã hội được đánh giá qua các chỉ tiêu
định tính và các chỉ tiêu định lượng. Thông thường, tư nhân và doanh nghiệp theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận; còn chính phủ theo đuổi mục tiêu lợi ích kinh tế xã hội.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
* Có rủi ro:
Hoạt động đầu tư thường diễn ra trong thời gian dài vì vậy nó có tính rủi ro. Thời
gian càng dài mức độ rủi ro càng cao. Ngoài ra, trình độ quản lý của nhà đầu tư và thực
trạng nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro.
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) tuy không còn là
hình thức quá mới mẻ ở Việt Nam nhưng để đưa ra một khái niệm tổng quát về FDI
cũng không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên
thế giới đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về FDI.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF – International Monetary Fund), đầu tư trực tiếp
nước ngoài là một công cuộc đàu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư
trực tiếp (direct investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp (direct investment enterprise) trong một quốc gia khác.
Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền
mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối

với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: một doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp
nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền
biểu quyết.
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) lại đưa ra định nghĩa về FDI như sau: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước( nước chủ đầu tư) có
được một tài sản ở một nước khác( nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản
đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương Mại và phát triển (UNCTAD) cũng đưa ra
một khái niệm về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp( trực tiếp
hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư nước ngoài cho các doanh
nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp
FDI.
Còn luật đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào đó được chính phủ Việt Nam chấp thuận để
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này.
Luật đầu tư 2005 không có định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng
theo khoản 2 và khoản 12 điều 3 định nghĩa:
• “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham
gia quản lý hoạt động đầu tư”.
• “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc
gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào

quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể
kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình. Như vậy, FDI bao giờ
cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
b. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Tìm kiếm lợi nhuận: do chủ thể là tư nhân nên tìm kiếm lợi nhuận được coi là
mục đích ưu tiên hàng đầu của hoạt động FDI. Do đó, các nước nhận đầu tư, nhất là các
nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho
mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng
FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình
trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp
định hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền kiểm
soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là
10%, Pháp và Anh là 20%, Việt Nam theo luật hiện hành là 30% còn theo qui định của
OECD (1996) thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của doanh
nghiệp - mức được công nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia thực sự vào quản
lý doanh nghiệp. Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy
định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời đây cũng là căn cứ để phân chia lợi nhuận
và rủi ro. Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, trong doanh nghiệp liên doanh, các
bên chỉ định người của mình tham gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần
vốn góp vào vào vốn pháp định của liên doanh.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
- Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi
tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu tư,
hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình, tự đưa

ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Vì thế, hình thức này mang tính khả thi và hiệu
quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần
cho nền kinh tế nước nhận đầu tư.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư.
Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên
tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Ví dụ trong lĩnh vực bưu chính viễn thông của Việt
Nam, hầu hết công nghệ mới trong lĩnh vực này có được nhờ chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài.
* Tóm lại:
- Điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác là quyền kiểm soát,
quyền quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì ưu điểm của hình thức này là tính ổn định và
hiệu quả sử dụng vốn của FDI cao hơn các hình thức khác do nhà đầu tư trực tiếp sử
dụng vốn. Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang các hình thức đầu tư khác
nếu thấy sự bất ổn của nền kinh tế nước nhận đầu tư. Do đó mức độ ổn định của dòng
vốn đầu tư đối với nước tiếp nhận đầu tư cao hơn. Nhược điểm là nước nhận đầu tư bị
phụ thuộc vào kinh tế ở khu vực FDI.
- Đối với nhà đầu tư: Chủ động nên có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư,
lợi nhuận thu về cao hơn. Có thể chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai thác
nguồn nguyên liệu, nhân công giá rẻ và những lợi thế khác của nước nhận đầu tư, tranh
thủ những ưu đãi từ các nước nhận đầu tư. Tuy nhiên hình thức này mang tính rủi ro cao
vì nhà đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về dự án đầu tư. Hoạt động đầu tư chịu sự điều
chỉnh từ phía nước nhận đầu tư. Không dễ dàng thu hồi và chuyển nhượng vốn.
1.1.2. Các hình thức FDI cơ bản
FDI không chỉ là sự lưu chuyển vốn mà còn thường đi kèm theo công nghệ, kiến
thức kinh doanh và mạng lưới phân phối rộng khắp toàn cầu. Do vậy FDI là hình thức có
ưu thế đối với các nước đang phát triển. FDI có nhiều hình thức nhưng trong phạm vi
của chuyên đề tôi chỉ đề cập đến 3 hình thức chủ yếu và đây cũng là 3 hình thức cơ bản
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
7

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
được áp dụng ở Việt Nam. Đó là: hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, hình thức
doanh nghiệp liên doanh, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.1.2.1. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
BCC là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để cùng
nhau tiến hành thực hiện các hoạt động sản xuất và kinh doanh ở nước sở tại, trên cơ sở
quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên. Trên thế giới, biểu
hiện của hình thức BCC cũng khác nhau về tên gọi, địa vị pháp lý và mục tiêu áp dụng.
Theo luật ĐTNN Việt Nam, BCC là văn bản được ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để tiến
hành hoạt động đầu tư mà không hình thành pháp nhân mới. Quy định này thực tế làm
nhiều nhà đầu tư phải cân nhắc vì có thể hạn chế khả năng khuyếch trương thương hiệu
ra bên ngoài.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của hình thức BCC là các bên cùng nhau góp vốn, cùng
tham gia quản lý hoạt động kinh doanh thông qua một ban điều phối chung, cùng phân
chia kết quả kinh doanh theo vốn góp. Đối với các nhà ĐTNN, hình thức này có ưu điểm
là thủ tục thành lập và triển khai thực hiện tương đối đơn giản, giúp dự án nhanh đi vào
hoạt động. Hình thức này thường không đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hợp đồng thường
ngắn, cũng chính vì vậy mà ít thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng.
1.1.2.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghệp được thành lập tại nước nhận đầu tư
(nước chủ nhà) giữa các bên nước ngoài và nước chủ nhà trong đó các bên cùng đóng
góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn. Nó có
thể dựa trên cơ sở hợp đồng liên doanh, hoặc Hiệp định ký giữa chính phủ Việt Nam và
chính phủ nước ngoài, hoặc là do doanh nghiệp có vốn FDI hợp tác với doanh nghiệp
Việt Nam.
Đặc điểm pháp lý, tỷ lệ góp vốn pháp định và điều kiện áp dụng hình thức doanh
nghiệp liên doanh giữa các nước có sự khác nhau nhất định. Trung Quốc quy định trong
doanh nghiệp liên doanh, bên nước ngoài không được góp vốn ít hơn 25%. ở Malaysia
đưa ra nhiều mức vốn góp cho bên nước ngoài tùy theo tỷ lệ xuất khẩu. Nếu tỷ lệ xuất
khẩu đạt trong khoảng 51- 79% thì chỉ được sở hữu vốn tối đa đến 79%, đối với các dự

án có tỷ lệ xuất khẩu 20- 25% thì mức sở hữu vốn của bên nước ngoài chỉ từ 30- 51%.
Trong khi đó, Luật pháp Việt Nam quy định tỷ lệ góp vốn pháp đinh tối thiểu của bên
nước ngoài là 30%.
Lựa chọn hình thức doanh nghiệp liên doanh có thể mang lại cho nhà đầu tư một số
lợi thế nhất định. Thứ nhất, thông qua các đối tác sở tại, các nhà ĐTNN có thể am hiểu
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
thêm về môi trường đầu tư tại nước sở tại. Thứ hai, các nhà ĐTNN có thể chia sẻ bớt chi
phí và rủi ro với các đối tác ở nước sở tại. Thứ ba, do một số quốc gia bắt buộc áp dụng
hình thức doanh ngiệp liên doanh khi đầu tư vào một số ngành và lĩnh vực nhất định, khi
đó doanh nghiệp liên doanh được xem là phương thức thâm nhập thị trường duy nhất khi
muốn đầu tư vào lĩnh vực đó.
Bên cạnh đó, đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh cũng có những nhược
điểm nhất định. Thứ nhât, đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh có nguy cơ bị
lộ bí quyết công nghệ cho đối tác về lâu dài. Thứ hai, hạn chế khả năng kiểm soát đối
với các chi nhánh ở nước ngoài trong một số trường hợp. Ngoài ra, nước chủ nhà cũng
có thể gặp bất lợi nếu trình độ quản lý yếu kém hơn nhiều so với phía nước ngoài vì khi
đó sẽ dế bị phía nước ngoài chi phối, hiệu quả đầu tư có thể không cao như dự kiến.
1.1.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Có quan điểm cho rằng doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp
thuộc sở hữu hoàn toàn của nhà ĐTNN, được thành lập và hoạt động tại nước sở tại, do
nhà ĐTNN trực tiếp quản lý đối tượng bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Cũng có quan điểm cho rằng doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài là thực thể kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân trong đó nhà ĐTNN
góp 100% vốn pháp định, tự quản lý hoạt động kinh doanh và tư chịu trách nhiệm hoàn
toàn về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam có những đặc điểm cơ bản như thuộc quyền sở hữu của nhà ĐTNN,
do nhà ĐTNN thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh

doanh, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Sự khác nhau giữa các quốc gia là
đưa ra những điều kiện cho các nhà ĐTNN khi lựa chọn hình thức này. Malaysia quy
định muốn áp dụng hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án đó phải
có từ 80% sản phẩm xuất khẩu; hay Trung Quốc, Hàn Quóc và Thái Lan quy định chỉ áp
dụng hình thức này cho các dự án FDI trong các ngành kỹ thuật cao và phần lớn sản
phẩm xuất khẩu. Chính vì vậy mà hình thức này ít được khuyến khích ở một số quốc gia
và vùng lãnh thổ.
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có thể mang lại nhiều lợi thế
cho cả nước chủ nhà và nước đi đầu tư. Nước chủ nhà không phải góp vốn và không
phải chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của đầu tư đối với những lĩnh vực có độ rủi
ro cao hoặc với những ngành sản xuất mới. Với phía nước ngoài thì đây cũng là hình
thức được ưa chuộng bởi ngoài việc tuân thủ những quy định có tính pháp luật của nước
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
chủ nhà thì bên phía nước ngoài được toàn quyền trong việc điều hành và quản lý doanh
nghiệp của mình, không bị bất kỳ sự can thiệp nào khác, không mất thời gian cho việc
tìm “tiếng nói chung” với những người cùng tham gia điều hành như hình thức liên
doanh. Bên cạnh đó, hình thức này cũng có bất lợi là chi phí thành lập và rủi ro hoạt
động cao hơn so với các hình thức khác.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư
Trong thời đại và bối cảnh thế giới hiện nay, trên cơ sở đem lại lợi ích cho cả hai
bên, vai trò của hoạt động FDI được hiểu là do sự tác động đồng thời của bản thân hoạt
động đầu tư đối với cả nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư. Bài viết này chủ yếu đề cập
đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước phát triển khi ở vị trí các
nước đi đầu tư và các nước đang phát triển khi ở vị trí các nước nhận đầu tư.
a. Tích cực
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước đi đầu tư có thể tận dụng
được lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư. Đối với các nước đi đầu tư, họ nhận thấy tỷ

suất lợi nhuận đầu tư ở trong nước có xu hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện tượng
thừa tương đối tư bản. Bằng đầu tư ra nước ngoài, họ tận dụng được lợi thế về chi phí
sản xuất thấp ở nước nhận đầu tư (chủ yếu là các nước đang phát triển thường có nguồn
tài nguyên phong phú, nhưng do hạn chế về vốn và công nghệ nên chưa được khai thác,
tiềm năng còn rất lớn nên chi phí khai thác nguyên vật liệu thấp, giá lao động rẻ). Nhờ
đó, hạ giá thành sản phẩm. giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế
nhập khẩu của nước nhận đầu tư, vì vậy mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Thứ hai, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm thông qua chuyển giao công nghệ.
Thông qua đầu tư trực tiếp, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần
các sản phẩm công nghiệp (chủ yếu là các máy móc thiết bị) ở giai đoạn cuối của chu kỳ
sống của chúng sang nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như là sản phẩm mới ở
các nước này hay ít ra cũng như các sản phẩm đang có nhu cầu trên thị trường nước
nhận đầu tư, nhờ đó mà tiếp tục duy trì việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi
nhuận cho các nhà đầu tư. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật ngày
nay thì bất cứ một trung tâm kỹ thuật tiên tiến nào cũng cần phải luôn luôn có thị trường
công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ, kỹ thuật
mới.
Thứ ba, bành trướng sức mạnh kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép chủ
đầu tư bành trướng sức mạnh kinh tế nhờ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản phẩm là máy
móc thiết bị sang nước nhận đầu tư để góp vốn và xuất khẩu sản phẩm tại đây sang các
nước khác (do chính sách xuất khẩu ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm khuyến
khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chuyển giao công nghệ và sản xuất hàng xuất
khẩu của các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài) nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm,
tăng sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu tư nước khác.
b. Tác động tiêu cực
Mặc dù có rất nhiều lợi ích như vậy nhưng FDI vẫn có những ảnh hưởng tiêu cực

đối với nước chủ đầu tư. FDI làm vốn đầu tư chảy ra nước ngoài dẫn tới giảm tăng
trưởng GDP và việc làm trong nước. Việc đầu tư cho quốc gia khác sẽ dẫn đến chảy các
nguồn lực của quốc gia ra bên ngoài, do đó các nguồn lực tập trung cho phát triển và
tăng trưởng quốc gia sẽ ngày càng ít đi.
Vốn được đầu tư ra bên ngoài nên không được đầu tư trong nước sẽ không tạo
thêm việc làm, dễ làm gia tăng thất nghiệp trong nước. Tuy nhiên, cũng cần xem xét
cụ thể từng trường hợp vì có thể việc đầu tư ra bên ngoài lại có tác động làm gia
tăng việc làm trong nước nếu nó làm tăng các hoạt động xuất khẩu phục vụ cho
hoạt động đầu tư đó.
Vốn chảy ra bên ngoài có thể ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia vì mất thị
trường xuất khẩu. Bởi vì, nếu đầu tư một nhà máy ở nước ngoài sản xuất mặt hàng bán
cho thị trường đó thì coi như nước đầu tư sẽ mất luôn thị trường xuất khẩu mà trước đây
mình xuất hàng sang, thu ngoại tệ, nghĩa là mất đi một nguồn thu ngoại tệ quan trọng.
1.1.3.2. Vai trò của FDI đối với nước nhận đầu tư
a. Tác động tích cực
Để phát triển kinh tế xã hội, các nước đang phát triển trước hết phải đương đầu với
sự thiếu thốn gay gắt các nguồn lực cần thiết cho sự phát triển. Việc tiếp nhận đầu tư
trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tình trạng thiếu vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. FDI có
thể ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên,
đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ vọng lớn nhất của việc thu
hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. FDI là một trong những nguồn
vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư góp phần tạo động lực cho sự tăng
trưởng và phát triển. Đối với các nước đang phát triển, việc tiếp nhận vốn đầu tư nước
ngoài sẽ vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về mặt
tổng cầu, vì đầu tư là một bộ phận của tổng cầu nên khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng…

tăng lên. Sự thay đổi này làm cho tổng cầu tăng lên. Mức sản lượng cân bằng tăng lên.
Xét ở khía cạnh sản xuất, đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, làm tăng khả năng sản
xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung làm mức sản lượng cân
bằng tăng lên.
Ngoài ý nghĩa bổ sung một lượng vốn đáng kể cho đầu tư phát triển kinh tế, cần
nói đến chất lượng của vốn FDI. Sự có mặt của nguồn vốn này đã góp phần tạo điều
kiện cho nguồn vốn Nhà nước tập trung vào các vấn đề kinh tế xã hội ưu tiên (cơ sở hạ
tầng, các công trình phúc lợi xã hội...). Nguồn vốn này cũng góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước. Vốn trong dân được kích thích đưa vào sản
xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước phải tăng cường đầu tư và chú ý đến hiệu
quả đầu tư trong điều kiện phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn FDI. Các doanh
nghiệp có vốn FDI tạo ra các liên kết với các công ty trong nước nhận đầu tư thông qua
các mối quan hệ cung cấp dịch vụ, nguyên vật liệu, gia công. Qua đó FDI thúc đẩy đầu
tư trong nước phát triển, gắn kết các công ty trong nước với thị trường thế giới. Nhờ vậy,
các tiềm năng trong nước được khai thác với hiệu quả cao.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý.
Các nước đang phát triển thường có cơ cấu kinh tế bất hợp lý, chủ yếu phát triển khu vực
một do không có nhiều vốn. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con
đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư
nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ. Đầu tư sẽ
góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những
vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế về tài
nguyên, địa lý, kinh tế… Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động,
cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cung
cấp vốn để đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, dần dần mang tính chất của
một nền kinh tế phát triển.
Thứ ba, thúc đẩy chuyển giao công nghệ. Các nước đi đầu tư thường có tiềm lực về
vốn, có điều kiện nghiên cứu triển khai công nghệ kỹ thuật cao, luôn xuất hiện công
nghệ kỹ thuật mới dẫn tới xuất hiện công nghệ hạng hai, hạng ba và nhu cầu chuyển giao

công nghệ. Trong khi đó, nước sở tại khan hiếm vốn không có điều kiện nghiên cứu nên
mặt bằng công nghệ thường thấp hơn, luôn có nhu cầu tiếp nhận công nghệ song cũng
rất hạn chế việc tiếp nhận công nghệ thông qua con đường thương mại vì không có vốn.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
Do đó, việc thông qua FDI để tiếp nhận công nghệ là một ưu điểm lớn. Với hình thức
này, các nước tiếp nhận có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới và tận dụng được các
công nghệ hạng hai đã lỗi thời ở các nước đối tác song vẫn còn tiên tiến hơn so với công
nghệ trong nước với chi phí thấp, tiết kiệm được thời gian nghiên cứu, có điều kiện đi tắt
đón đầu, rút ngắn khoảng cách về mặt bằng công nghệ kỹ thuật. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài có tác dụng lan tỏa, thúc đẩy cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp nội địa ở các
nước đang phát triển. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài
được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vốn đầu
tư, mở rộng quy mô sản xuất. Hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới
công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng. sức cạnh tranh của hàng hóa
và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ tư, tạo việc làm phát triển nguồn nhân lực. FDI giúp các nước đang triển tận
dụng được lợi thế về nguồn lao động dồi dào. Ở nhiều nước, khu vực có vốn FDI tạo ra
số lượng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo. Nhìn chung,
số lượng việc làm trong khu vực có vốn FDI và tỷ trọng trong tổng lao động ở các nước
đang phát triển có xu hướng tăng lên. Bên cạnh đó, FDI còn góp phần vào việc đào tạo,
nâng cao trình độ cho người lao động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp có
vốn FDI thường cao hơn trong các doanh nghiệp trong nước. Với tiêu chí coi hiệu quả
làm việc là ưu tiên hàng đầu trong tuyển dụng và sử dụng lao động, các doanh nghiệp có
vốn FDI thường xây dựng được một đội ngũ công nhân, nhân viên lành nghề, có tác
phong công nghiệp, có kỷ luật cao. Đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu tư tham gia quản
lý hoặc phụ trách kỹ thuật trong các dự án FDI trưởng thành nhiều mặt. Phần lớn số lao
động cấp cao này được tham gia đào tạo, huấn luyện ở trong và ngoài nước, được tiếp

thu những kinh nghiệm quản lý điều hành của các nhà kinh doanh nước ngoài. Đặc biệt
với hình thức doanh nghiệp liên doanh, chủ đầu tư của nước chủ nhà tham gia quản lý
cùng các nhà đầu tư nước ngoài nên có điều kiện tiếp cận và học tập kinh nghiệm quản
lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng dần kiến thức kinh doanh
hiện đại của mình lên, ví dụ như: kinh nghiệm xây dựng và đánh giá dự án, kinh nghiệm
tổ chức và điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính, kế toán, quản lý công nghệ, nghiên
cứu thị trường, nghệ thuật tiếp thị, thông tin quảng cáo, tổ chức mạng lưới dịch vụ...
Ngoài các tác động đã trình bày ở trên, FDI còn có nhiều ảnh hưởng tích cực đến
các nước nhận đầu tư như: FDI góp phần ổn định các cân đối vĩ mô của nền kinh tế (cân
bằng cung – cầu hàng hóa trong nước, xuất – nhập khẩu, thu – chi ngân sách nhà
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
nước…), mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường
thế giới, củng cố và mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới…
b. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, FDI cạnh tranh với sản xuất trong nước. Cái hại rõ nhất là FDI sẽ cạnh
tranh và nhiều khả năng “bóp chết” sản xuất trong nước nếu cùng một kỹ nghệ với nhau
vì công ty FDI có khả năng khoa học kỹ thuật và tính hiệu quả cao hơn. Giá thành sản
phẩm có thể rẻ hơn mà chất lượng tốt hơn trong nước. Ví dụ: ngành công nghiệp giấy
Việt Nam hiện nay thừa nguyên liệu bột giấy nhưng thiếu sản phẩm giấy cao cấp (giấy
tráng), phải nhập cảng gần như toàn bộ loại này, trong khi đó lại xuất cảng gỗ dăm. Các
nhà máy Việt Nam chỉ làm ra được các loại giấy in báo, giấy in và viết, giấy lụa, giấy
bao bì không tráng với trình độ khoa học kỹ thuật khá thấp. Trên nguyên tắc, ngành giấy
Việt Nam là một môi trường thích hợp để thu hút FDI. Tuy nhiên, nếu tiến hành không
khéo, rất nhiều khả năng giá thành FDI làm ra sẽ rẻ hơn mà chất lượng tốt hơn, từ từ sẽ
giết chết sản xuất giấy trong nước.
Thứ hai, FDI có thể gây ra lạm phát. Hiện nay các công trình nghiên cứu tập trung
nhiều vào hiện tượng các quốc gia có lạm phát thấp và tỉ giá hối đoái ổn định là môi

trường tốt nhất để thu hút nguồn FDI. Điều này cũng dễ hiểu vì doanh nghiệp FDI lo
ngại nếu lạm phát cao và tỉ giá hối đoái không ổn định, lợi nhuận tạo ra có thể bị triệt
tiêu khi chuyển đổi trở lại ngoại tệ mạnh. Việt Nam hiện nay có lạm phát khá cao
(khoảng 28%) nhưng có thuận lợi là tỉ giá hối đoái VND và USD tương đối ổn định nhờ
có dự trữ ngoại tệ mạnh khá dồi dào (khoảng 15 tỷ dollar, trong đó kiều hối đóng góp
một phần quan trọng). Tuy nhiên cũng cần lưu ý là FDI có thể là nguyên nhân gây ra lạm
phát trong nước vì lương nhân công sẽ được trả cao hơn, giá cả nguyên vật liệu sẽ tăng
vọt cũng như tiền thuê mướn mặt bằng, giá sinh hoạt dịch vụ ngoại vi sẽ tăng dần lên và
đưa đến lạm phát.
Thứ ba, FDI ảnh hưởng đến môi trường và làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Một trong những chi phí lớn của doanh nghiệp nước ngoài là chi phí bảo toàn môi
trường và luật lệ của các quốc gia phát triển rất nghiêm ngặt về vấn đề này. Hiện nay vẫn
còn nhiều sự tranh cãi về ảnh hưởng của FDI đến môi trường với giả thuyết “nơi trú ẩn
của ô nhiễm” ám chỉ các FDI muốn vào các quốc gia chậm tiến vì luật lệ và kiến thức về
ô nhiễm còn thấp nên họ có khả năng tiết giảm chi phí về khoản này. Hiện tượng FDI
làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên là một thực tế có thể xảy ra nhất là đối với các loại
FDI nhằm vào tài nguyên và lao động rẻ tiền.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
Thứ tư, tác động tới đời sống xã hội. Điều đầu tiên dễ thấy là sự cách biệt giàu
nghèo giữa các khu công nghiệp có doanh nghiệp FDI trú đóng và phần còn lại của quốc
gia sẽ tăng dần lên và người dân có thể sẽ bỏ dần nông thôn và di chuyển về các nơi
thành thị. Có rất nhiều trường hợp vì muốn thu hút FDI nên quốc gia sở tại đã nới lỏng
các quy định về lao động khiến quyền lợi của công nhân có thể bị xâm phạm, phúc lợi
tập thể không được giải quyết thỏa đáng mà thiếu sự giúp đỡ của chính quyền địa
phương.
1.2. Những lý luận cơ bản về môi trường đầu tư
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của môi trường đầu tư
a. Khái niệm về môi trường đầu tư

Môi trường được hiểu một cách đơn giản là một không gian hữu hạn bao quanh
những hiện tượng sự vật, yếu tố hoặc một quá trình hoạt động nào đó như: môi trường
khí, môi trường nước, môi trường văn hóa, môi trường thể chế, môi trường sống, môi
trường làm việc… Nói một cách khác chính xác hơn, môi trường là tập hợp các yếu tố,
những điều kiện tạo nên khung cảnh tồn tại và phát triển của một chủ thể. Môi trường
đầu tư là một thuật ngữ đã được đề cập nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế và quản trị
kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, thực thi chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế hội nhập với thế giới, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài thì vấn đề môi trường đầu tư mới được quan tâm nghiên cứu
nhiều hơn và vấn đề cải thiện môi trường đầu tư được đặt ra như là một giải pháp cho
phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế thế giới và thực thi các cam kết của Việt Nam với
quốc tế.
Tuy nhiên, môi trường đầu tư được nghiên cứu và xem xét theo nhiều cách khác
nhau, tùy thuộc vào mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề.
Sau đây là một số khái niệm về môi trường đầu tư tiêu biểu:
Khái niệm 1: Môi trường đầu tư được hiểu là tổng hợp các yếu tố, điều kiện về
pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, nguồn lực tăng
trưởng và cả các lợi thế của một quốc gia… có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của các
nhà đầu tư tại một quốc gia.
Khái niệm 2: Môi trường đầu tư là tập hợp các yếu tố có tác động tới các cơ hội,
các ưu đãi, các lợi ích của các doanh nghiệp khi đầu tư mới, mở rộng sản xuất kinh
doanh, các chính sách của chính phủ có tác động chi phối tới hoạt động đầu tư thông qua
chi phối rủi ro, cạnh tranh…
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
Khái niệm 3: Môi trường đầu tư là tất cả các yếu tố có tác động dến lợi ích của nhà
đầu tư mà có thể dự tính được. Các yếu tố đó có liên hệ tương tác lẫn nhau như vấn đề
về co sở thượng tầng, chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống pháp luật minh bạch và hiệu
quả (là vấn đề được các nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất) và một yếu tố không kém phần

quan trọng là số và chất lượng vật chất cơ sở hạ tầng kỹ thuật như: điện, nước, giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ tài chính – ngân hàng, trình độ lao động…
Như vậy, các khái niệm về môi trường đàu tư dù là tiếp cận ở góc độ nào cũng đề
cập đén môi trường tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư,
những yếu tố, điều kiện có ảnh hường, tác động đến sự tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp. Do đó, có thể khẳng định: môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố và
điều kiện khách quan, chủ quan bên ngoài, bên trong của doanh nghiệp hoặc các nhà đầu
tư, có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt
động kinh doanh của các nhà đầu tư.
b. Đặc điểm của môi trường đầu tư
* Tính khách quan của môi trường đầu tư: bất kỳ một nhà đầu tư nào hay một
doanh nghiệp nào muốn tồn tại một cũng phải đặt mình trong một môi trường đầu tư
kinh doanh nhất định, ngược lại cũng không thể có môi trường đầu tư nào mà lại không
có một nhà đầu tư hay một đơn vị sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, ở đâu có hoạt
động đầu tư sản xuất kinh doanh thì ở đó sẽ hình thành môi trường đầu tư. Môi trường
đầu tư tồn tại một cách khách quan, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn
cho các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư một mặt tạo ra các ràng buộc cho các hoạt động
đầu tư, mặt khác lại tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư.
* Tính tổng hợp: tính tổng hợp thể hiện ở chỗ nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành
có mối quan hệ qua lại ràng buộc lẫn nhau. Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã
hội, trình độ quản lý mà số lượng và những bộ phận cấu thành cụ thể của môi trường đầu
tư có sự khác nhau.
* Tính đa dạng: môi trường đầu tư là sự đan xen của các môi trường thành phần,
các yếu tố của các môi trường thành phần có tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Do
đó, khi nghiên cứu và phân tích môi trường đầu tư phải xem xét tổng thể trong mối
tương quan giữa các môi trường thành phần và giữa các yếu tố với nhau.
* Môi trường đầu tư có tính động: môi trường đầu tư và các yếu tố cấu thành luôn
luôn vận động và biến đổi. Sự ổn định của môi trường đầu tư chỉ mang tính tương đối
hay ổn định trong sự vận động. Môi trường đầu tư luôn vận động và biến đổi bởi ngay
nội tại của hoạt động đầu tư cũng là một quá trình vận động và biến đổi không ngừng.

SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
Các nhà đầu tư muốn nâng cao hiệu quả đầu tư của mình cần có được một dự báo về sự
thay đổi của môi trường đầu tư để từ đó có các quyết định đầu tư chuẩn xác, phù hợp với
môi trường đầu tư. Để cải thiện môi trường đầu tư phải tìm cách ổn định các yếu tố của
môi trường đầu tư trong xu thế vận động của nó và phải cải thiện nó liên tục. Nói cách
khác là khi nghiên cứu và phân tích môi trường đầu tư phải đứng trên quan điểm động,
phải xem xét và phân tích các yếu tố của môi trường đầu tư trong trạng thái vừa vận
động, vừa tác động tương hỗ lẫn nhau, tạo thành những tác lực chính cho sự vận động và
phát triển của môi trường đầu tư.
* Tính hệ thống: môi trường đầu tư có mối liên hệ và chịu tác động của các yếu tố
thuộc môi trường rộng lớn hơn, theo từng cấp độ như: môi trường đầu tư ngành, môi
trường đầu tư quốc gia, môi trường đầu tư quốc tế… Sự ổn định của môi trường đầu tư
phụ thuộc vào tính phức tạp và tính biến động của các môi trường tương tác.
1.2.2. Nội dung của môi trường đầu tư
Nghiên cứu môi trường đầu tư là rất cần thiết cho công tác quản lý vĩ mô của nhà
nước. Hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư đều chịu sự tác động của các yếu tố cấu
thành môi trường đầu tư, các yếu tố của môi trường đầu tư lại luôn biến động, luôn thay
đổi theo từng thời điểm, từng ngành, từng khu vực và từng quốc gia. Các yếu tố của môi
trường đầu tư có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen lẫn nhau, có những yếu tố
vừa thuộc phạm vi kinh tế, vừa thuộc phạm vi chính trị. Do vậy, việc phân chia thành
các nhóm yếu tố môi trường chỉ có tính chất tương đối và khi phân tích sẽ khó tránh khỏi
trùng lặp. Sau đây sẽ là các nhóm yếu tố môi trường cơ bản của môi trường đầu tư quốc
gia hay còn gọi là môi trường đầu tư kinh doanh tổng quát.
1.2.2.1. Môi trường chính trị - xã hội
Sự ổn định về chính trị, thể chế chính trị, sự nhất quán trong chủ trương, đường lối,
chính sách cơ bản của nhà nước luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút
ĐTNN bởi nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở
hữu vốn đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của một

nước. Ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi roc ho
các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc trưng nổi bật về sự tác động của
những yếu tố chính trị đối với hoạt động đầu tư thể hiện ở những mục đích mà thể chế
chính trị nhắm tới. Thể chế chính trị giữ vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt
động trong xã hội trong đó các hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư thông
qua vai trò của nhà nước cầm quyền.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
Tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn định về chính sách và
đường lối phát triển không nhất quán. Khi gặp rủi ro chính trị, các biến cố và hoạt động
chính trị có thể gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường đầu tư, với lợi nhuận
dài hạn tiềm tàng của các dự án đầu tư đem lại cho các nhà đầu tư. Ngoài ra còn có một
số yếu tố rất quan trọng của môi trường chính trị là xung đột với nước ngoài. Xung đột
với nước ngoài là mức độ thù địch của một quốc gia với một quốc gia khác, khi xảy ra
xung đột các quốc gia thường áp dụng chính sách cấm vận, trừng phạt kinh tế, chính
trị… mà hậu quả hay các thiệt hại của nó thì các nhà đầu tư sẽ phải gánh chịu đầu tiên.
Như vậy, ổn định môi trường chính trị xã hội có vai trò đặc biệt quan trong trong việc
thu hút FDI.
1.2.2.2. Môi trường cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: mạng lưới giao thông vận tải, đường sá,
cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống cung cấp năng lượng, phương tiện vận
chuyển, mạng lưới thông tin – bưu chính – viễn thông, tính hữu hiệu của các dịch vụ môi
giới, dịch vụ ngân hàng, tài chính… Những yếu tố này có ảnh hưởng quan trọng đối với
hoạt động của các nhà đầu tư, các nhà đầu tư có thể sẽ không đầu tư vào khu vực nhiều
nhân công giá rẻ nhưng chưa qua đào tạo chuyên môn hoặc những nơi mà hệ thống giao
thông khó khăn, thiếu phương tiện vận chuyển, liên lạc hay không đủ các ngành dịch vụ
hỗ trợ cho quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, yếu tố công nghệ cũng được
phản ánh trong môi trường cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông qua các chỉ số như trình độ phát
triển công nghệ, các yếu tố hạ tầng công nghệ, nền tảng kiến thức khoa học – công nghệ,

tốc độ đổi mới công nghệ, nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ… Hiện nay, công
nghệ là nhân tố có sự thay đổi mạnh nhất trong môi trường kinh doanh có sức thách thức
lớn và hấp dẫn mạnh đối với các nhà đầu tư. Do đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật là điều kiện mang tính tiên quyết đối với sự phát triển của một nền kinh tế, tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả.
1.2.2.3. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế phản ánh những đặc trưng của một hệ thống kinh tế sẽ chi phối
và tác động đến hoạt động của các nhà đầu tư. Trong môi trường kinh tế, các yếu tố như
tốc độ tăng trưởng kinh tế, các chính sách kinh tế, chu kỳ kinh doanh, tỷ lệ lạm phát, tỷ
giá hối đoái, hệ thống tài chính… sẽ được tập trung nghiên cứu. Tăng trưởng kinh tế
được coi là việc mở rộng sản lượng tiềm năng của một quốc gia trong một giai đoạn nhất
định, hay tăng trưởng kinh tế là một sự gia tăng khả năng sản xuất hàng hóa – dịch vụ
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
nhằm nâng cao mức sống của toàn xã hội. Khi kinh tế tăng trưởng thì các yếu tố và điều
kiện kinh tế sẽ rất thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển, nó sẽ tạo rất nhiều cơ hội đầu
tư kinh doanh và ngược lại nếu nền kinh tế kém phát triển với tỷ lệ lạm phát cao sẽ có
tác động tiêu cực đến các nhà đầu tư. Chu kì phát triển kinh tế là sự thăng trầm về khả
năng tạo ra của cải nền kinh tế trong những giai đoạn nhất định. Mỗi chu kỳ thường trải
qua bốn thời kì: thời kì phát triển, thời kì hưng thịnh, thời kì suy thoái và thời kì phục
hồi. Thời kì phát triển là giai đoạn nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh và quy mô
mở rộng, dung lượng và sức mua của thị trường lớn, trong giai đoạn này môi trường đầu
tư rất thuận lợi, các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để kinh doanh. Thời kì hưng thịnh là thời
kì mà nền kinh té phát triển đạt đến mức cao nhất và chuẩn bị bước vào giai đoạn suy
thoái, nó thường xảy ra khi nền kinh tế đã đạt tới mức toàn dụng về mọi tiềm năng. Thời
kì suy thoái là thời kì nền kinh tế có mức tăng trưởng chậm, hàng hóa không tiêu thụ
được, dung lượng và sức mua thị trường giảm, các nhà đầu tư phải thu hẹp sản xuất, quy
mô hoạt động của các nhà đầu tư và nền kinh tế bị giảm sút, môi trường đầu tư chứa
đựng nhiều rủi ro và không có sự hấp dẫn. Thời kì phục hồi là thời kì nền kinh tế đã

xuống tới mức thấp nhất của chu kì, các hoạt động đầu tư kinh doanh bị ngưng trệ để
chuẩn bị cho sự chuyển tiếp sang một chu kì phát triển kế tiếp. Chu kì kinh tế có thể diễn
ra ngắn hay dài tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố và chu kì kinh tế có ảnh hưởng rất mạnh
đến các quyết định quản trị doanh nghiệp của các nhà đầu tư. Nhiều nhà kinh tế cho
rằng các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư là những yếu tố có ảnh hưởng quyết
định trong thu hút FDI.
1.2.2.4. Môi trường luật pháp, chính sách
Mỗi quốc gia đều có một hệ thống luật quy định rõ các nhà đầu tư hay các doanh
nghiệp được đầu tư kinh doanh sản phẩm hàng hóa, dịch vụ gì, cấm các mặt hàng gì,
nghĩa vụ và quyền lợi của các nhà đầu tư… Hệ thống các công cụ chính sách và những
quy định của nhà nước có liên quan đến những hoạt động đầu tư kinh doanh như: chính
sách tài chính – tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách bảo
vệ môi trường, chính sách lao động – tiền lương, chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần… Chính sách kinh tế thể hiện quan điểm, định hướng phát triển nền kinh tế
của nhà nước, thông qua các chủ trương và chính sách, nhà nước, thông qua các chủ
trương và chính sách, nhà nước điều hành và quản lý nền kinh tế và các doanh nghiệp
hay các nhà đầu tư trên phương diện quản lý nhà nước về kinh tế. Các chính sách kinh tế
thể hiện những ưu đãi, khuyến khích đối với một số khu vực, ngành, lĩnh vực kinh tế nào
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
đó, đồng thời các chính sách cũng sẽ là các biện pháp, chế tài để kiểm soát các lĩnh vực
đó.
Một quốc gia được coi là có chính sách kinh tế mở khi những chính sách đó có sức
hấp dẫn và mang lại sự thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chính sách kinh
tế có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn.
Cơ chế quản lý, điều hành của Chính phủ sẽ quyết định trực tiếp đến tính hiệu lực của luật
pháp và các chính sách kinh tế, nếu một nhà nước mạnh, điều hành chuẩn mực thì sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh chính đáng.
Hệ thống pháp luật được xây dựng nhằm quy định những điều mà các thành viên

trong xã hội được làm và không được làm, nó là cơ sở để xem xét những hành động vi
phạm các mối quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Nhà nước giữ một vai trò quan trọng
trong tạo lập một môi trường đầu tư kinh doanh thuân lợi thông qua việc nhà nước quy
định những khuôn khổ pháp lý và thiết lập các chính sách chủ yếu nhằm tạo điều kiện
cho mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, duy trì trật tự
kỷ cương trong xã hội và các hoạt động kinh tế.
Nhìn chung các chủ đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào những nước có hành
lang pháp lý, cơ chế, chính sách đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng, minh bạch và có thể
dự đoán được. Điều này đảm bảo cho sự an toàn của vốn đầu tư.
1.2.2.5. Môi trường lao động, tài nguyên
Một trong những yếu tố quan trọng trong môi trường đầu tư là nguồn nhân lực và
giá cả sức lao động, đây là những yếu tố rất cần thiết để các nhà đầu tư lập kế hoạch kinh
doanh. Một nhà đầu tư muốn mở một nhà máy thì trên phương diện nguồn nhân lực nhà
đầu tư sẽ chọn những khu vực đáp ứng được những yêu cầu về số lượng, chất lượng lao
động và giá cả sức lao động. Chất lượng lao động là một lợi thế cạnh tranh đối với các
nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao hoặc có sử dụng công nghệ
hiện đại. Như vậy, yếu tố lao động là một trong những điều kiện quan trọng ảnh hưởng
đến quyết định tiến hành kinh doanh của các nhà đầu tư, tuy nhiên để có một lực lượng
lao động tốt thì lại phụ thuộc vào hệ thống giáo dục và đào tạo cơ bản, đào tạo nghề và
chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Chính phủ.
Tài nguyên thiên nhiên là tất cả các nguồn lực của tự nhiên bao gồm đất đai, không
khí, nước, các loại năng lượng và những khoáng sản trong lòng đất… Để thỏa mãn
những nhu cầu đa dạng của mình con người đã khai thác và sử dụng những ích lợi do tài
nguyên thiên nhiên ban tặng. Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên thiên nhiên phân bố
không đồng đều giữa các vùng trên trái đất, phụ thuộc cấu tạo địa chất, thời tiết, khí hậu
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
từng vùng. Nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm cùng với sự lạm dụng tài nguyên đã
gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng buộc các chính phủ phải có những chính sách quản lý

chặt chẽ tài nguyên thiên nhiên. Các chính phủ thường khuyến khích thăm dò khảo sát
tìm kiếm tài nguyên tại những vùng xa và có khả năng phục hồi, khuyến khích sử dụng
tài nguyên hiệu quả hơn và tiết kiệm hơn… Sự hạn chế tài nguyên này đã khiến các nhà
đầu tư thường tìm kiếm nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên và chính phủ có những chính
sách thông thoáng về quản lý tài nguyên thiên nhiên để đầu tư.
1.2.3. Sự cần thiết phải cải thiện môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư có vai trò rất quan trọng tới sự tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư sẽ quyết định bỏ vốn đầu tư mới hoặc mở rộng đầu tư kinh
doanh nếu như họ tìm được một môi trường đầu tư thuận lợi, các quốc gia sẽ thu hút
được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nếu tạo lập được một môi trường đầu tư tốt, khi thu
hút được nhiều vốn đàu tư, các chính phủ sẽ giải quyết được nhiều vấn đề liên quan tới
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Một môi trường đầu tư tốt sẽ có tác động đến hiệu quả kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, tại bất kỳ thời điểm nào, mọi lúc mọi nơi trên thế giới. Các doanh nghiệp hay
các nhà đầu tư thường phải cân nhắc tính toán với những quyết định đầu tư quan trọng,
từ quyết định mở rộng trang trại của một người nông dân hay quyết định mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh của một công ty vừa và nhỏ cho đến quyết định của các tập đoàn
kinh tế lớn, các công ty xuyên quốc gia, những quyết định của các doanh nghiệp khi thực
hiện sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới mục tiêu, chỉ số tăng trưởng của từng khu vực, từng
quốc gia, từng địa phương..Tuy nhiên, các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp được
thực hiện hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào một tập hợp các yếu tố mà ta thường
gọi đó là môi trường đầu tư. Khi các doanh nghiệp thực hiện một quyết định đầu tư đúng
sẽ tạo ra nhiều giá trị sản xuất, việc làm và các giá trị khác mà nó sẽ làm cho của mục
tiêu tăng trưởng và giảm nghèo của mỗi quốc gia thành hiện thực, chính vì vậy cải thiện
môi trường đầu tư luôn là nhiệm vụ trọng tâm của các chính phủ. Ngày nay, khi cả thế
giới có khoảng 1,2 tỷ người đang sống dưới mức 1USD/ngày, khi lực lượng lao động thế
giới ngày nay đang phải đối mặt với một tỷ lệ thất nghiệp cao và thậm chí một số nước
có tỷ lệ thất nghiệp cao gấp đôi tỷ lệ thất nghiệp trung bình của thế giới, khi tỷ lệ tăng
dân số nhiều khi cao hơn mức tăng trưởng kinh tế thì việc tạo ra nhiều việc làm, giá trị
sản phẩm gia tăng là hết sức cần thiết cho một thế giới cân bằng, hòa bình và phát triển.

Với mục đích thu lợi nhuận, các nhà đầu tư sẽ bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh
với những ý tưởng mới, với những cơ sở vật chất mới và đó chính là những yếu tố cấu
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
21

×