Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

MỸ THUẬT VÀ TẦM NHÌN LỊCH SỬ MỸ THUẬT docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.54 KB, 10 trang )






MỸ THUẬT VÀ TẦM NHÌN LỊCH SỬ MỸ THUẬT


Đọc Nora Annesly Taylor viết về cố Hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh qua chất liệu lụa
truyền thống - hiện đại, ta thấy người viết có tầm nhìn khách quan, khoa học, khá
chuyên nghiệp của nhà lịch sử và phê bình mỹ thuật.
Nora Annesly Taylor đã từng có mặt ở Việt Nam, đã có thời gian thâm nhập thực
tế, tìm hiểu mỹ thuật Việt Nam qua tác phẩm, cũng như qua các nguồn văn bản sử
liệu mỹ thuật.
Tuy nhiên, đọc công trình của tác giả, ngoài ưu điểm về tính khách quan, khoa học,
tôi thấy còn những điều chưa thoả mãn, cần phải được trao đổi thêm.
Xin tóm tắt nội dung mà tác giả đã viết:
- Tranh lụa cổ Việt Nam trước Mỹ Thuật Đông Dương (MTĐD) các học giả
trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) xếp vào loại tranh (trục) cuốn (Peinture
rouleau), chỉ là tranh tín ngưỡng, tranh thờ. Không phải là tranh mỹ thuật - hiểu
theo nghĩa trang trí.
- Tranh lụa từ MTĐD trở đi, mới gọi là "tranh mỹ thuật", tức "hội hoạ giá vẽ
(Peinture chevalet), du nhập từ Phương Tây vào Việt Nam.
- Trước MTĐD chưa có thuật ngữ "Hội Hoạ" (Peinture), chưa có thuật ngữ "Mỹ
Thuật" (Beaux - arts), chỉ có thuật ngữ "Mỹ Nghệ" (artisanal) thủ công.
- Các nhà nghiên cứu Mỹ thuật Việt Nam cũng như các hoạ sĩ Việt Nam đa số
đồng thuận về cách nhận định của trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp: Việt Nam xưa
chỉ có tranh lụa về đề tài tín ngưỡng, chứ không có tranh mỹ thuật trang trí.
- Tranh thờ, tranh lụa tín ngưỡng, không được các
nhà nghiên cứu Mỹ thuật
Việt Nam quan tâm, vì nó không có chỗ đứng ở chế độ xã hội chủ nghĩa.


- Không giống như tranh sơn mài, tại trường MTĐD, tranh lụa không được coi là
nghề thủ công, nhưng được xếp vào loại nghệ thuật truyền thống bản địa. Trong
khi đàn ông thích nghề sơn, những nghề thủ công khác, phụ nữ có nghề kéo tơ
(nuôi tằm) và dệt lụa.
- Tranh lụa (trục) cuốn, theo đề tài tín ngưỡng cổ nhất tại miền Bắc Việt Nam rất
có thể là của người Dao, dân tộc ít người miền núi di cư từ miền Nam Trung Quốc
mang đến.
- Tranh Nguyễn Phan Chánh là những đường nét bằng mực tinh tế và gam màu
trầm lắng mang đến một quang cảnh, một cuộc sống dân dã, rất đúng với hình ảnh
một Đông Dương thuộc địa Pháp mang vẻ ngoại lai mà vẫn nguyên sơ.
- Nguyễn Phan Chánh - tác giả công trình nhắc lại lời một nhà sử học mỹ thuật
Việt Nam với thái độ đồng tình - là sản phẩm của chủ nghĩa thực dân, nhưng
không làm việc theo những gì mà họ yêu cầu.
Trường MTĐD là một tác nhân trong hiện đại hoá nghệ thuật Việt Nam và Nguyễn
Phan Chánh là sản phẩm của tác nhân đó. Cả trường học lẫn người nghệ sĩ đã phát
triển nên những hình thức nghệ thuật mới qua việc nhìn lại những yếu tố văn hoá
Việt Nam truyền thống dưới ánh sáng tiêu chuẩn thẩm mỹ ngoại lai.
- Nguyễn Phan Chánh không sáng tác nên những tác phẩm giống tranh nước Pháp,
nhưng ông có chịu ảnh hưởng văn hoá và nền giáo dục Pháp hiển hiện rõ ràng tại
trường MTĐD.
- Dẫn lời cố hoạ sĩ Sĩ Ngọc, người cùng tốt nghiệp trường MTĐD, rằng: "Pháp có
ảnh hưởng đến nền văn hoá mở của xã hội Việt Nam, đặc biệt là trong lãnh vực
nghệ thuật giai đoạn thuộc địa là một sự phục hưng hay hồi sinh văn hoá (Việt
Nam) ". Những hoạ sĩ tốt nghiệp trường MTĐD cũng có chung ý kiến đó, dù
những nhà sử học hiện thời tại Hà Nội không theo quan điểm đó (Nora annesly
Taylor. Peinters in Hà Nội. Tạp chí Mỹ thuật Hội mỹ thuật Việt Nam. Số 173
tháng 5/2007. Đ.H. Ngọc lược dịch)
Với tôi đây là công trình có tầm nhìn lịch sử bao quát, lý giải vấn đề khá logic. Tuy
nhiên, vẫn cần trao đổi với tác giả một đôi điều còn tồn tại:
- Về cách phân loại tranh của các học giả trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp là Việt

Nam chỉ có một loại tranh lụa cuộn là loại tranh thờ, tín ngưỡng, không có tranh
mỹ thuật. Thực tế qua khảo cứu, nhìn hiện tượng có như thế. Nhưng nếu nhìn sâu
thì không chỉ có tranh lụa tín ngưỡng, thực tế còn có cả một kho tranh giấy dó khắc
gỗ mầu và tranh in nét tô tay màu nước của một số dòng tranh làng nghề còn tồn
tại đến ngày nay - như Đông Hồ (Thuận Thành - Bắc Ninh); Kim Hoàng (Hà Tây);
Hàng Trống - Hàng Nón (Hà Nội); Huế (miền Trung) Đó là kho tranh tết và cả
tranh thờ (trục) cuốn và tờ rời, vốn là sản phẩm nghệ thuật và phong cách phổ biến
của hội hoạ truyền thống Việt Nam, Châu á, Phương Đông. Hai bức chân dung lụa
màu nước cổ vẽ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Trãi là dẫn chứng điển
hình. Với lối vẽ tinh tế, thuần thục, rõ ràng Việt Nam đã có những người hoạ sĩ vẽ
lụa truyền thống từ lâu đời. Tranh lụa ít, vì nó đắt, khó thực hiện, không phổ cập
như tranh giấy chứ không phải vì Việt Nam không có nền mỹ thuật tranh lụa. ở
Châu Âu từ Trung cổ đến phục hưng (TK 14 - 16) đa số tranh tượng là đề tài cơ
đốc giáo, sao vẫn được xem là mỹ thuật ? Còn ở Việt Nam
lại không ?
- Thuật ngữ "hội hoạ” (peinture) và "mỹ thuật" (beaux-arts) thực tế ra đời từ khi có
trường mỹ thuật Đông Dương. Nhưng không phải vì Việt Nam không có hai thuật
ngữ đó mà không có tranh Mỹ thuật. Có khác chăng là khác về tên gọi và phương
pháp thực hiện nghệ thuật. Cụ thể Phương Tây đứng vẽ (trước giá vẽ, ngược lại
Việt Nam - Phương Đông - Châu á thì trải giấy hay lụa trên bàn, trên phản, trên
chiếu, dưới đất mà vẽ theo cách đứng, ngồi, hoặc cúi (một tay tỳ, một tay vẽ ).
Cách viết chữ thư pháp, thư hoạ cũng gần như cách vẽ và cũng rất gần với cảm xúc
nghệ thuật của nhau. Vấn đề là hiệu quả của cái đẹp, chứ không phải ở thuật ngữ
và tên gọi mà xếp hạng cao thấp.
- Mỹ thuật truyền thống Việt Nam không sử dụng giá vẽ và bệ làm tượng xoay tròn
như Phương Tây, nên không có thuật ngữ "mỹ thuật giá vẽ", "điêu khắc bục bệ".
Chỉ có thuật ngữ "vẽ tranh", "tạc tượng", "nặn tượng", "ngai khám" (đặt tượng
thờ). Còn thuật ngữ "mỹ thuật" chỉ là khái niệm dùng chung cho cái đẹp mà thôi.
- Người Việt Nam có tiếp thu hội hoạ Phương Tây qua Mỹ thuật Đông Dương. Cụ
thể là học cách tạo hình theo tỷ lệ, luật thấu thị sáng tối, xa gần, đường chân trời,

luật giải phẫu cơ thể của trường phái hội hoạ Cổ điển và Tân Cổ điển Châu Âu, tạo
ra tác phẩm mới cho mình. Nhưng với họ chỉ là sự tiếp biến văn hoá, làm giàu cho
vốn văn hoá của mình, chứ họ không từ bỏ nền mỹ thuật phong phú độc đáo của
dân tộc. Đó là hội hoạ đường viền, thấu thị tẩu mã, giàu tính biểu hiện, khái quát
hoá, điển hình hoá của nghệ thuật truyền thống. Nói cách khác, đó là sự giao thoa,
giao hoà thuận chiều theo dòng chảy lịch sử, theo cách "văn hoá hoá văn hoá"
(acculturation), mà các nhà sử học nghệ thuật và văn hoá học nghệ thuật đã biểu
trưng bằng hình tam giác đều thuận chiều của nó, đúng với ý nghĩa hội nhập - phát
triển.
Riêng thuật ngữ "mỹ nghệ", giờ đây được gọi là "mỹ thuật thủ công". Lý do: Tuy
làm bằng tay, nhưng nó đẹp, thì phải gọi là mỹ thuật (beaux-arts). Một chiếc bình
gốm, một tấm thổ cẩm đẹp của nghệ nhân dân gian, vẫn hơn hẳn những bức tranh
hay pho tượng tồi của các hoạ sĩ - nhà điêu khắc "sáng tác". Tại sao không gọi là
mỹ thuật, trong khi ấy nghệ thuật sắp đặt bằng mọi thứ vật liệu bất kỳ, vẫn được
gọi là mỹ thuật ? Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam bày tranh tượng và cả đồ mỹ thuật
thủ công truyền thống đẹp với lý do ấy.
- “Tranh thờ, tín ngưỡng không được các nhà nghiên cứu quan tâm, vì nó không có
chỗ đứng trong chế độ xã hội chủ nghĩa” chỉ là cách nói chung chung theo quy luật
phủ định về quan điểm chính trị. Thực tế nghiên cứu mỹ thuật của Việt Nam không
có như thế. Việt Nam có Bảo tàng Mỹ thuật (từ 1966) tại Hà Nội. Hệ thống trưng
bày có tranh thờ miền núi, miền xuôi - trong đó có tranh thờ của người Dao - được
xem là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, còn bảo lưu được những yếu tố mỹ
thuật thời nguyên thủy cùng với nhiều dân tộc ít người anh em. Đó là chưa kể đã
xuất bản ấn phẩm mỹ thuật tranh thờ của người Dao rất trang trọng. Chính vì nó đã
chứng minh được lịch sử lâu đời của người Việt trong đại gia đình "Bách Việt" mà
địa vực xưa kia đã trải dài từ động Đình Hồ xuống đến tận địa bàn Đông Nam
Châu á ngày nay, gọi là Việt Nam (trước đó gọi là Nam Việt - thế kỷ III trước
Công nguyên, bị nhà Tần và Triệu Đà, tướng nhà Tần xâm chiếm).
- Quan niệm tranh lụa có trục cuốn của người Dao từ Trung Quốc nhập vào Việt
Nam là một quan niệm quen dùng của các nhà sử học và sử học nghệ thuật nước

ngoài. Họ thường chỉ chú ý đến nước Tàu từ thời "Tần - Hán " trở về sau mà quên
hẳn rằng trước đời Tần "Không có đế quốc Tàu nào cả , chỉ có nhiều nước nhỏ, vào
khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên, với Tứ cường: Tề - Tần - Sở - Việt, trong
đó có lúc Việt mạnh nhất Trung Hoa trước đời Tần Thuỷ Hoàng là nói chuyện
không tưởng: Lúc ấy chỉ có đế quốc Thái (tức Việt), theo nhận xét của nhà sử học
Eikstedt và giáo sư Wiens (Herold J.Wiens, qua công trình "Han Chinese
expansion inc 1967- Kim Định. Triết lý cái đình. NXB Nguồn Sáng. Sài Gòn
1971) đều cho đó là đúng sự thực, cần phải được thừa nhận dứt khoát. Chính Tần
Thuỷ Hoàng đã chiếm đoạt và thống trị lãnh thổ phương Nam của người Việt vốn
là chủ nhân có nền văn hoá Việt nho sâu rộng mà xưa kia lãnh địa đã trải rộng ở
phần đất phía Nam Trung Quốc ngày nay. Thực tế nhà Tần đã đồng hoá văn hoá
Việt làm của mình. Vì vậy, đã tạo ra những định kiến "văn hoá Trung Hoa du
nhập” sai lầm thành nếp, khó cải chính "nỗi oan lịch sử” của người Việt đối với
các nhà nghiên cứu hôm qua và hôm nay.
Phải có tầm nhìn lịch sử về sử cổ đại, mới thấu hiểu được căn nguyên văn hóa
Việt, Mỹ thuật Việt. Cách hiểu của các nhà sử học và sử học nghệ thuật ngày nay
thường chỉ hiểu lịch sử Tàu từ thời Tần - Hán về sau, nên nó chỉ mang ý nghĩa địa -
chính trị - hành chính về biên giới theo nghĩa tượng trưng mà thôi.
Với tư cách là người nghiên cứu tự thấy cần phải xác nhận một cách trân trọng,
nhưng chính xác những điều có thật của lịch sử, qua công trình của người bạn đồng
nghiệp Nora Annesly Taylor. Công trình thực sự đáng quý, có tầm nhìn khách
quan, nhưng cũng cần bổ sung đôi điều thiết yếu theo sử liệu với người bạn nước
ngoài giàu tâm huyết với mỹ thuật Việt Nam, thì người đọc mới đồng cảm và thoả
mãn cùng tác giả.


×