1
ĐÁNH GIÁ NGUỒN TÀI NGUYÊN LÂM SẢN NGOÀI GỖ
(LSNG) TẠI VÙNG ĐỆM KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN PÙ
HUỐNG, NGHỆ AN
Phan Quang Tiến
Trung tâm Bảo vệ Tài nguyên và Môi trường rừng Nghệ An
Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thị Kim Thanh
Đại học Quốc gia Hà Nội
TÓM TẮT
Bước đầu điều tra các loài LSNG ở vùng đệm khu BTTN Pù Huống cho thấy nơi đây
có tới 609 loài thuộc 423 chi của 143 họ thuộc 4 ngành Thông đất, Dương xỉ, Hạt trần và
Hạt kín. Phân tích và đánh giá tính đa dạng sinh học cho thấy có 10 họ giàu nhất với 208
loài chiếm 43,21% và 36 họ có từ 5 loài trở lên với 400 loài chiếm 65,79% và 6 chi có từ 5-
8 loài chiếm 6,40% tổng số loài. Tổng số 609 loài LSNG được phân loại thành 9 nhóm
công dụng khác nhau, trong đó, nhóm cây làm thuốc chiếm tỉ lệ cao nhất với 455 loài, tiếp
đến nhóm cây ăn được 143 loài bao gồm: 76 loài làm rau và gia vị, 55 loài có quả ăn được
và 12 loài cho bột ăn; nhóm cây làm cảnh có 69 loài; nhóm cây thủ công mỹ nghệ có 27
loài, nhóm cây dầu béo có 18 loài, nhóm cây hương liệu 14 loài; nhóm cây cho tanin và
nhuộm có 9 loài. Bộ phận được sử dụng nhiều nhất là lá chiếm 276 loài; tiếp đến sử dụng rễ
và củ: 206 loài; thân: 193 loài; cả lá, thân và rễ: 92 loài; quả: 92 loài; vỏ: 45 loài; hạt: 36
loài và 15 loài sử dụng hoa.
Từ khoá: Lâm sản ngoài gỗ, Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
MỞ ĐẦU
Từ ngày xưa đến nay, nói đến giá trị của rừng, ông cha ta thường kể đến các loài gỗ quý như
Lim, Đinh, Sến, Táu, Dổi, Vàng Tâm, để xây dựng nhà cửa, đóng đồ mộc trang trí ở trong
nhà chứ ít ai nhắc đến các sản vật khác lấy từ rừng. Đôi khi những sản phẩm tưởng như rất
đơn giản này lại chính là cứu cánh cho sự sống còn, tồn vong và phát triển của con người;
đó là các loài cây cho lương thực, thực phẩm thu hái trong rừng vào những năm giáp hạt
hay những căn bệnh hiểm nghèo duy nhất chỉ trông chờ vào các phương thuốc quý giá từ
cây cỏ trong thiên nhiên. Những loại sản vật trên nói theo cách ngày nay gọi là lâm sản
ngoài gỗ (LSNG).
Trong một thời gian dài thời bao cấp, người ta cho rằng chỉ có gỗ là đóng góp cho nền
kinh tế đất nước mà không quan tâm đến các sản phẩm khác lấy từ rừng. Ngày nay, với sự
phát triển của khoa học và công nghệ người ta phát hiện được nhiều tính năng công dụng
của các loài động, thực vật trong đó có nhiều loài LSNG được điều tra, phát hiện, khai thác
và sử dụng.
Rừng nước ta thuộc vùng nhiệt đới nên rất đa dạng và phong phú, cho đến nay đã ghi
nhận 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 2.524 chi của 378 họ (Nguyễn Nghĩa Thìn,
2
1997). Nghệ An là một trong những tỉnh có tài nguyên và diện tích rừng lớn nhất cả nước,
riêng vườn Quốc gia Pù Mát đã ghi nhận 2.494 loài thực vật và 919 loài động vật, còn hai
Khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) là Pù Huống và Pù Hoạt cũng đang chứa đựng nhiều loài
động – thực vật khác có giá trị.
Để góp phần bảo tồn và sử dụng bền vững tính đa dạng sinh học của KBTTN Pù
Huống, việc kiểm kê và đánh giá về các loài LSNG của vùng đệm Pù Huống là một trong
những nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành điều tra và đánh giá
tính đa dạng về nguồn LSNG ở KBTTN Pù Huống. Bài báo này giới thiệu những kết quả
bước đầu trong suốt 4 năm qua chúng tôi đã đạt được.
ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm
Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống nằm trong vùng có toạ độ địa lý từ 104
0
13’ đến
105
0
16’ độ kinh Đông, từ 19
0
15’ đến 19
0
29’ độ vĩ Bắc. Vùng đệm của khu bảo tồn nằm
trên địa bàn hành chính của 12 xã thuộc 5 huyện gồm: Huyện Quế Phong có 2 xã: Cắm
Muộn, Quang Phong; Huyện Quỳ Hợp có 3 xã: Châu Thành, Châu Cường, Châu Thái;
Huyện Quỳ Châu có 2 xã: Châu Hoàn, Diễn Lãm; Huyện Tương Dương có 4 xã: Nga My,
Yên Hoà, Yên Tĩnh, Hữu Khuông; Huyện Con Cuông có 1 xã: Bình Chuẩn.
Đối tượng
Tất cả thực vật bậc cao có mạch đã được nhân dân địa phương sử dụng.
Phương pháp nghiên cứu
Đối với LSNG, theo phương pháp tổng hợp bao gồm kết hợp nhiều phương pháp điều tra:
Phương pháp kế thừa: Thu thập các tài liệu, văn bản hiện hành của các cơ quan, đơn vị, cá
nhân có liên quan đến vùng nghiên cứu và các loài LSNG.
Điều tra: Căn cứ vào sự phân bố của dân cư, chúng tôi đã xác định tuyến điều tra phát hiện
thành phần loài: theo phương pháp điều tra LSNG trên 4 tuyến di động, mỗi tuyến từ 2-3
km:
Điều tra phỏng vấn người dân về công dụng: Để biết các bộ phận sử dụng và cách sử
dụng bằng cách phỏng vấn người dân, quan sát hiện trường. Trong các loài LSNG thì số
lượng cây thuốc chiếm một số lượng lớn và khó khăn nhất. Bốn Thầy lang đại diện cho một
số bản, xã vùng đệm, là các Thầy lang có kinh nghiệm về vùng thu hái, hiểu biết đặc tính
sinh thái nhiều loài cây địa phương, chữa được nhiều bệnh, biết được tên tiếng Thái, một số
Thầy biết được tên loài bằng tiếng Việt, xác định thành phần loài, công dụng, bộ phận sử
dụng, cách sử dụng của chúng để chữa bệnh cho cộng đồng và được ghi vào biểu có sẵn.
Việc thu thập mẫu vật từ hiện trường tiến hành theo Phương pháp nghiên cứu thực
địa thu vật mẫu (Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Nguyễn Nghĩa Thìn, Ngô Trực Nhã và Nguyễn
Thị Hạnh (2001)), đồng thời chụp ảnh một số loài cây thuốc có tại hiện trường, lập danh lục
các loài LSNG của vùng đệm khu BTTN Pù Huống.
3
Làm mẫu, xử lý mẫu và xác định tên khoa học cũng như lập bảng đánh giá tính đa
dạng sinh học theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997, 2007).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Đa dạng ngành
Kết quả nghiên cứu cho thấy LSNG vùng này có tính đa dạng sinh học cao với 609 loài
thực vật bậc cao có mạch thuộc 420 chi của 142 họ thuộc 4 ngành Thông đất, Dương xỉ,
Hạt trần và Hạt kín.
Bảng 1. Sự phân bố họ, chi, loài LSNG và tỷ lệ % của chúng theo ngành
Ngành Loài Chi Họ
Tên khoa học Số loài Tỷ lệ % Số chi Tỷ lệ % Số họ Tỷ lê %
Lycopodiophyta 3 0,49 2 0,48 2 1,41
Polypodiophyta 10 1,64 10 2,38 10 7,04
Gymnospermatophyta 3 0,49 2 0,48 2 1,41
Angiospermatophyta 593 97,38 406 96,66 128 90,14
Cộng 609 100 420 100 142 100
Đa dạng về họ
Sự phân bố các loài trong mỗi họ không giống nhau. 10 họ giàu loài nhất được chỉ ra ở
Bảng 2. Các họ đáng chú ý như họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 36 loài, họ Lúa
(Poaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Cà phê (Rubiaceae) mỗi họ có 24 loài,
Bảng 2. Các họ da dạng LSNG vùng đệm khu BTTN Pù Huống
H
ọ
Chi
L
o
à
i
TT
T
ê
n khoa h
ọ
c
T
ê
n Vi
ệ
t Nam
S
ố
l
ư
ợ
ng
T
ỷ
l
ệ
%
S
ố
l
ư
ợ
ng
T
ỷ
l
ệ
%
1
Euphorbiaceae
H
ọ
Th
ầ
u d
ầ
u
23
5,
48
36
5,91
2
Poaceae
H
ọ
L
ú
a
18
4,29
24
3,94
3
Asteraceae
H
ọ
C
ú
c
20
4,76
24
3,94
4
Rubiaceae
H
ọ
C
à
ph
ê
12
2,86
24
3,94
5
Fabaceae
H
ọ
Đ
ậ
u
14
3,33
18
2,9
6
6
Moraceae
H
ọ
D
â
u t
ằ
m
9
2,14
18
2,96
7
Caesalpiniaceae
H
ọ
Vang
11
2,62
17
2,79
8
Lamiaceae
H
ọ
Hoa m
ô
i
12
2,86
17
2,79
9
Orchidaceae
H
ọ
Lan
10
2,38
16
2,63
10
Cucurbitaceae
H
ọ
B
ầ
u b
í
11
2,62
14
2,30
10 họ giàu nhất 140 33,33 208 34,15
Nhiều họ có số loài ít nhưng có các loài có giá trị kinh tế cao và cho thu nhập chính
cho đồng bào trong thời gian thiếu ăn đó là họ Bách bộ (Stemonaceae) có loài Bách bộ
(Stermona tuberosa Lour.), họ Kim cang (Smilacaceae) có Thổ phục linh (Smilax glabra
Roxb.), họ Hương bài (Phormiaceae) có Hương bài (Dianella nemorosa Lam. ex Schiller
4
f.), họ Huỳnh tinh (Marantaceae) có Lá dong (Phrynium parviflorum Roxb.), họ Đay
(Tiliaceae) có Dây nhớt (Tiliacus sp.), họ Củ nâu (Dioscoreaceae) có Củ mài (Dioscorea
persimilis Prain et Burk.),
Đa dạng chi
Tính đa dạng bậc chi được thể hiện sự phân bố số loài trong các chi khác nhau. Trong
đó có 7 chi đa dạng nhất có 5 loài trở lên có 39 loài chiếm 6,40%, trong đó có 1 chi có 8
loài như chi Ficus (Moraceae); 1 chi có 6 loài: chi Hedyotis (Rubiaceae); 5 chi có 5 loài:
Cinnamomum (Lauraceae), Prunus (Rosaceae), Vitex (Verbenaceae), Calamus (Palmaceae),
Dioscorea (Dioscoreaceae) (Bảng 3). Ngoài ra theo tính toán có 11 chi có 4 loài chiếm
7,22%; 26 chi có 3 loài chiếm 12,81% tổng số loài và như vậy có thể thấy số chi có từ 1-2
loài chiếm phần lớn trong tổng số loài LSNG có tới 453 loài chiếm 74,38%.
Bảng 3. Chi đa dạng LSNG vùng đệm khu BTTN Pù Huống
TT Tên chi Tên họ Số loài Tỷ lệ (%)
1 Ficus Moraceae 8 1,31
2 Hedyotis Rubiaceae 6 0,99
3 Cinnamomum Lauraceae 5 0,82
4 Prunus Rosaceae 5 0,82
5 Vitex Verbenaceae 5 0,82
6 Calamus Palmaceae 5 0,82
7 Dioscorea 5 0,82
Tổng số chi có 5 loài trở lên 39 6,40
Đa dạng các nhóm công dụng
Để biết được giá trị nhiều mặt của LSNG, chúng tôi đã phân loại 609 loài LSNG
thành 7 nhóm công dụng khác nhau, trong đó có 457 loài được sử dụng làm dược liệu
chiếm 75,04% tổng số loài; 143 loài ăn được chiếm 23%, bao gồm: 76 loài làm rau và gia
vị, 55 loài có quả ăn được và 12 loài cho tinh bột; 69 loài làm cảnh chiếm 11,33%; 27 loài
đan lát, thủ công mỹ nghệ chiếm 2,96%; 19 loài cây cho dầu béo chiếm 2,96%; 17 loài
cho hương liệu chiếm 2,79%; 10 loài cho ta nanh, nhuộm chiếm 1,64%.
Trong số loài thuộc danh mục quý hiếm (Sách đỏ Việt Nam, 1996 và Nghị định
32/CP của Chính phủ 2006) có 29 loài hiếm và 12 loài nguy cấp cần bảo vệ.
Những loài dùng làm dược liệu có nhiều cây quý, trước đây được sử dụng nhiều nay
trở nên khan hiếm như Thổ phục linh (Smilax glabra Roxb.), Cẩu tích (Cibotium barometz
(L.) J.E. Sm.), Lá khôi tím (Ardisia sylvestris Pit.), Cốt toái bổ (Drynaria bonii Christ.),
Đẳng sâm (Condonopsis javanica (Blume) Hook.f.), Ba kích (Morinda officinalis
F.C.How.),
Những loài dùng làm rau, gia vị không thể thiếu được trong các bữa ăn hàng ngày
của cộng đồng các dân tộc thiểu số sống xung quanh khu vực vùng đệm Khu bảo tồn,
trong đó có những loài được thị trường rất ưa chuộng như các loại măng Luồng
5
(Dendrocalamus barbatus Hsueh et D.Z. Li), Rau sắng (Meliantha suavis Pierre), Măng
đắng (Indosasa crassiflora McClure),
Những loài cho quả và hạt ăn được có 55 loài có nhiều loài được cộng đồng thu hái và bán
trên thị trường, một phần cải thiện đời sống của cộng đồng đó là các loài Gắm (Gnetum spp.), các
loài Trám (Canarium spp.), Dâu da xoan (Spondias lakonensis Pierre), Tai chua (Garcinia cowa
Roxb.), Dẻ (Castanopsis sp.),
Những loài cho củ, hạt làm lương thực, thực phẩm có 12 loài. Những loài này là cứu
cánh cho những năm đói kém hoặc vào thời gian giáp hạt như củ Mài (Dioscorea persimilis
Prain & Burkill), củ Từ (Dioscorea eslulenta (Lour.) Burk.), khoai Sọ (Colocasia esculenta
(L.) Schott),
Hai họ có nhiều loài được dùng phổ biến cho đan lát thủ công, mỹ nghệ là họ Cau dừa
(Palmaceae) có 12 loài và họ Cỏ (Poaceae) có 13 loài. Có nhiều loài được trao đổi, mua bán
trên thị trường đó là Luồng (Dendrocalamus barbatus Hsuch et D.Z. Li.), Tre gai (Bambusa
blumeana Schultes), Nứa (Schizostachyum funghomii Mc.Clure), Giang (Maclurochloa sp.),
Lùng (Bambusa sp), Mây tắt (Calamus tetradactylus Hance), Mây nước (Calamus balasaeanus
Becc.).
Những loài dùng làm cảnh đáng chú ý là các loài thuộc họ Lan (Orchidaceae) có (15
loài). Nhiều loài làm cảnh đẹp như Tuế rừng (Cycas balansae Warb.), Móng bò trang sức
(Bauhinia oxysepala Gagnep.), Thu hải đường (Begonia aptera Blume), Lan gấm Trung bộ
(Anoectochilus lylei Rolfe.),
Những loài dùng làm hương liệu hoặc chưng cất tinh dầu có giá trị cao trên thị trường,
trong đó có những loài quý như Trầm hương (Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte), Quế
(Cinnamomum burmannii (Ness) Blume, Re hương (Cinnamomum parthenoxylon Meisn),
Vù hương (Cinnamomum balansae Lecomte, Hương lâu (Vetiveria zizanioides (L.) Nash.
Andropogon squamosus Hack.),
Những loài cho dầu béo có 19 loài, đáng chú ý là những loài được thị trường thu mua
nhiều như dầu Sở (Camellia sasanqua Thunb. ex Murray (Thea sasanqua Pierre), Trẩu
(Vernica montana Lour), Trám (Canarium sp.).
Những loài cho ta nanh và nhuộm như Gấc (Momordica cochinchinensis Spreng.),
Dành dành (Gardenia philostrei Pierre ex Pit.) dùng nhuộm thực phẩm. Trước đây có một
số loài đồng bào thường hay dùng làm nhuộm vải như Vang (Caesalpinia sappan L.), Củ
nâu (Dioscorea cirrhosa Lour.),
Một số loài có công dụng khác được trao đổi buôn bán nhiều trên thị trường với số
lượng lớn như rễ Chay rừng (Artocarpus rigidus Blume), Lá dong (Phrynium parviflorum
Roxb.),
Các bộ phận sử dụng
Để làm cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển LSNG, chúng tôi đã điều tra đánh giá các
bộ phận sử dụng. Kết quả điều tra có 276 loài sử dụng lá; 206 loài sử dụng rễ và củ; 193
6
loài sử dụng thân; 92 loài sử dụng cả lá, thân và rễ; 92 loài sử dụng quả; 45 loài sử dụng vỏ;
36 loài sử dụng hạt và 15 loài sử dụng hoa.
Trong số 276 loài sử dụng lá thì có 242 loài chỉ riêng dùng làm thuốc, 29 loài vừa sử
dụng làm thuốc vừa sử dụng làm gia vị, 12 loài chỉ sử dụng làm rau và 5 loài dùng đan lát.
Trong số 206 loài sử dụng rễ, củ có 195 loài làm thuốc, 8 loài dùng làm thực phẩm, 2 loài
dùng làm hương liệu, 1 loài dùng làm gia vị. Nhóm sử dụng rễ và củ là nhóm cần quan tâm
trong công tác bảo tồn vì nguy cơ bị huỷ diệt rất cao như Bách bộ (Stemona tuberosa
Lour.), Sắn dây rừng (Pueraria montana (Lour.) Merr.), Thổ phục linh (Smilax glabra
Roxb.), Củ bình vôi (Stephania rotunda Lour.),
Trong số 193 loài sử dụng thân thì có 173 loài sử dụng làm thuốc, 20 loài sử dụng đan
lát. Trong nhóm này loài họ Cau dừa (Palmaceae) và họ Lúa (Poaceae) được sử dụng nhiều
nhất. Trong đó một số loài đang khan hiếm dần như Mây tắt (Calamus tetradactylus
Hance), Mây nước (Calamus balansaeanus Becc.), Mây đắng (Calamus tonkinensia Becc.),
Song mật (Calamus platycanthus Warb.),
Trong số 92 loài sử dụng quả có 45 loài sử dụng quả để ăn, 34 loài sử dụng làm thuốc,
13 loài làm rau. Tuy nhiên, một số ít người dân khi khai thác một số loài như Trám trắng
(Canarium album (Lour.) Raeusch. ex DC.), Trám đen (Canarium tonkinense Engl.) Tai
chua (Garcinia cowar Roxb.) đã đốn ngang cây để lấy quả, làm giảm sản lượng và năng
suất cho các vụ thu hoạch sau.
KẾT LUẬN
Nhóm LSNG thuộc thực vật có mạch ở vùng đệm khu BTTN Pù Huống có tới 609 loài
thuộc 423 chi của 143 họ thuộc 4 ngành Thông đất, Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín. Trong
đó ngành thực vật Hạt kín chiếm ưu thế lần lượt: 90,14% tổng số họ, 96,66% tổng số chi và
97,38% tổng số loài.
Trong số 143 họ, 423 chi, có 10 họ giàu nhất với 208 loài chiếm 43,21% tổng số loài
và 6 chi giàu loài nhất (có từ 5-8 loài) chiếm 6,40% tổng số loài.
Tổng số 609 loài LSNG được phân loại thành 9 nhóm công dụng khác nhau, trong đó
nhóm cây làm thuốc chiếm tỉ lệ cao nhất với 455 loài, tiếp đến nhóm cây ăn được 143 loài
bao gồm: 76 loài làm rau và gia vị, 55 loài có quả ăn được và 12 loài cho bột ăn; nhóm cây
làm cảnh có 69 loài; nhóm cây thủ công mỹ nghệ có 27 loài, nhóm cây dầu béo có 18 loài,
nhóm cây hương liệu 14 loài; nhóm cây cho ta nanh và nhuộm có 9 loài.
Bộ phận được sử dụng nhiều nhất là lá chiếm 276 loài; tiếp đến sử dụng rễ và củ: 206
loài; thân: 193 loài; cả lá, thân và rễ: 92 loài; quả: 92 loài; vỏ: 45 loài; hạt: 36 loài và 15
loài sử dụng hoa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Charler M. Peters, 1994. Sustainable Harvest of Non-Timber Plant Resources in Tropical
Moist Forest: An Ecologycal Primer. Printed by Corporate press Ins, Landover, MD.
Đỗ Tất Lợi, 2005. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nxb Y học Hà Nội.
7
Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997. Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật. Nxb Nông Nghiệp.
Nguyễn Nghĩa Thìn, 2007. Các phương pháp nghiên cứu thực vật. Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thị Hạnh, Ngô Trực Nhã, 2001. Thực vật học dân tộc: Cây
thuốc của đồng bào Thái Con Cuông, Nghệ An. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Võ Văn Chi, 1997. Từ điển cây thuốc Việt Nam. Nxb Y học, Tp Hồ Chí Minh.
ASSESSMENT ON NON - TIMBER FOREST PLANT
RESOURCES IN THE BUFFER ZONE OF THE PU HUONG
NATURE RESERVE, NGHE AN PROVINCE
Phan Van Tien
The Centre of Natural Resource Conservation and Forest Environment Protection in Nghe
An
Nguyen Nghia Thin, Nguyen Thi Kim Thanh
Vietnam National University, Hanoi
SUMMARY
Non - timber forest plant resources in the buffer zone of the Pu Huong Nature Reserve,
Nghe An province was collected and assessed. They include 609 species, 423 genera, 143
families of 4 divisions: Lycopodiophyta, Polypodiophyta, Gymnospermae and
Angiospermae. In of them there are 10 species - rich families with 208 species representing
43.21% of species total and 36 families above 5 species with 400 species representing
65.79% and 6 species - rich genera from 5-8 species per one with the total of 39 species
representing 6.40% of total species. 609 species of non – timber forest products in the buffer
zones of the Pu Huong Nature Reserve were classified into 9 groups of different uses, of
which the group of plants for medicine is the most diverse with 455 species; then the group
of edible plants - 143 species including 76 for spice and vegetable, 55 for edible fruit and
12 species for edible starch; the group of ornamental plants: 69 species; the group of
handicraffts articles: 27 spcies; the group of plants for oil: 18 species; the group of
aromatic plants for essential oil: 14 species and the group of plants for tanin and dye: 9
species. Part used the most common is leaves: 276 species; then roots, rhizomes and tuber:
206 species; stems: 193 species; three parts: leaves, roots, rhizomes and tuber and stem : 92
species; fruit: 92 species; bark: 45 species; seed: 36 species and flowers: 15 species.
Keywords: Non - timber forest, Pu Huong Nature Reserve
* Bài báo hoàn thành nhờ sự tài trợ của Đề tài trọng điểm Đại học Quốc gia Hà Nội (Mã số
QGTĐ 0701) và Chương trình Khoa học cơ bản trong Khoa học sự sống (Mã số 6 090 06)