Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Những nhận định về tác phẩm Vợ Nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.34 KB, 9 trang )

Nhận định về Vợ Nhặt của Kim Lân
Nhà văn Nguyễn Khải nhận xét: " Là học trò của cụ Nguyễn Tuân, tôi vẫn
không tin Nguyễn Tuân viết " Chữ người tử tù" cũng như Kim Lân viết "Làng"
và "Vợ nhặt". Đó khơng phải là người viết mà là thần viết. Thần mượn tay
người để viết nên những trang bất hủ". Xét riêng truyện ngắn "Vợ nhặt", Kim
Lân quả xứng với lời khen đó. Thiên truyện về cái đói, cái chết mà làm lộ ra
sự sống, lộ ra chất người kì diệu. Tư tưởng nhân văn sâu sắc đó khơng phải là
truyện ngắn ồn ào mà được diễn đạt thấm thía qua nghệ thuật văn xuôi đặc
sắc đã đưa Kim Lân vào hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn
học hiện đại. Đọc "Vợ nhặt", không ai không bị hấp dẫn bởi một tình huống
hết sức độc đáo và bi hài mà cũng đậm chất nhân văn, thấm đẫm tình người.
Hiểu hơn về nhân vật “thị” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân

Khi trao đổi về nghệ thuật truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã nói với nhà
nghiên cứu – phê bình Văn học Hà Minh Đức: “Tôi quan niệm: truyện ngắn
cũng là tiểu thuyết và điều quan trọng là nhân vật. Nhân vật phải có tính
cách và phải hành động theo tính cách nhân vật một cách tự nhiên, không
giả tạo, sáo rỗng”. Mỗi nhân vật trong truyện được Kim Lân dựng mỗi cách
khác nhau, dù thiên về tính cách hay nội tâm đều rất chân thực, sống động.
Dung lượng viết về nhân vật “thị” – người đàn bà không tên – vợ Tràng,
không nhiều nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Bối cảnh của truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Những gia đình từ
vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên, xanh
xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như
ngả rạ. không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp
ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối
của rác rưởi và mùi gây của xác người…Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài
bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Cảnh chết chóc đói kém ấy theo chân
thị và Tràng về với căn nhà rúm ró rìa xóm ngụ cư: “Ngồi xa dịng sơng
trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người
chết theo gió thoảng vào khét lẹt”.


“Đói thì đầu gối phải bị’, “Chết thì phải giãy”. Cái bối cảnh của truyện theo
triết học phương Đông, đã ở mức “cùng”. “Cùng tắc biến…”. Thói thường, khi
đã “cùng”, để có miếng ăn – lúc này đây là miếng sống, phải tranh cướp,
thậm chí giết hại lẫn nhau. Kim Lân vẫn theo quy luật “cùng -> biến” ấy, tạo
điều kiện cho Tràng “nhặt” được vợ chỉ bằng bốn bát bánh đúc:


Trước cổng chợ, Tràng đang ngồi uống nước thì thị ở đâu sầm sập chạy đến,
mắng hắn xối xả:
- Điêu! Người thế mà điêu!
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
Mục đích của thị mắng Tràng cũng chỉ vì miếng ăn. Bộ dạng thị trong con
mắt của Tràng: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp
hẳn đi, trên cái khn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy hai con mắt”.
Cái “khôn” ở thị là xin ăn nhưng khơng nói đến miếng ăn. Trước mắt mọi
người thị gán cho Tràng cái tội bội tín. Câu “Người thế mà điêu!” vừa nâng
Tràng lên lại vừa đập Tràng xuống. “Người thế” chỉ con người ra dáng con
người, đáng mặt nam nhi. “Người thế mà điêu!” lại bóc mẽ anh ta chỉ có cái
vẻ bên ngồi là tử tế mà thơi. Tình thế ấy buộc Tràng phải chống chế, khơng
muốn bị xem là thất tín, mất mặt trước mọi người:
- Chả hơm ấy thì hơm nay vậy. Này hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
Tràng đã sập vào cái bẫy thị giăng ra. Chớp thời cơ, thị nói ln:
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Khi Tràng vỗ vào túi “Rích bố cu”, “hai con mắt trũng hốy của thị tức thì
sáng lên, thị đon đả”:
- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Hỏi rồi thị tự “chốt” lại ln. “Ừ ăn thì ăn sợ gì.” Như ăn vì thách thức chứ
khơng phải đói khát! Thế mà thị “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc
liền chẳng chuyện trị gì”. Chi tiết ăn xong “thị cầm dọc đơi đũa quệt ngang
miệng, thở” thật đắt. Nó vừa cho ta thấy hành vi văn hóa chẳng mấy đẹp,

vừa cho thấy thị đói đến nhường nào.
Lần trước gặp Tràng, thị cùng mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa kho nhặt hạt
rơi hạt vãi, hay ai có cơng việc gì thì gọi đến làm. Từ “vêu” Kim Lân dùng
thật tuyệt, tơi dám khẳng định khơng có từ thay thế hay được như vậy. Thế
nhưng thị vẫn “cong cớn” đùa lại với Tràng, “vùng đứng dậy, ton ton chạy
lại" đẩy xe và "ban phát” cái “liếc nắt, cười tít” để Tràng sướng điên lên vì:
“Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ
như thế”. Nhắc lại chi tiết này để thấy, tuổi trẻ dù trong hoàn cảnh nào cũng
khát khao hạnh phúc.


Hai lần thị xuất hiện trước Tràng là “ton ton chạy lại, sầm sập chạy đến”, rất
nhanh và bất ngờ. Một lần là giúp người, một lần là cứu mình. Kim Lân để cho
thị xuất hiện như thế trái với hình ảnh người con gái đã được “mặc định”
trong tiềm thức xã hội phong kiến:
Em đi chàng theo sau
Em không dám đi mau
Sợ chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu
(Nguyễn Nhược Pháp)
Bước chạy cứu mình của thị cịn được Kim Lân đẩy cao hơn nữa, khi Tràng
đùa:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về.
Thị về thật. “Lộng giả thành chân”. Thị liều với số phận. mà nói thực, khi cái
chết cận kề như thế cịn gì để mà lựa với chọn, suy với tính nữa, thị đã ở thế
“cùng” rồi. Thị liều, Tràng cũng liều. Tràng liều nhưng khơng khỏi có những
phút giây sợ hãi: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi
khơng, lại cịn đèo bịng”. Khi đã liều là bất chấp tất cả, thế nhưng không,
đằng sau cái vẻ chao chát, chỏng lỏn là người phụ nữ hoàn tồn khác. Dưới

con mắt của dân xóm ngụ cư: “Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước.
Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng
che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội
chạy ra đón xem”. Khi nghe người ta cười lên rung rúc, bình phẩm: “Hay là
vợ anh cu Tràng? Ừ, khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trơng chị ta
thèn thẹn hay đáo để”, thì “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu vào
chân kia’. Cái nhanh nhẹn của đôi chân hai lần gặp Tràng để nên vợ nên
chồng đâu biến mất, cái chao chát chỏng lỏn đâu biến mất? Trước cửa chợ
khơng ai trêu chọc thì thị ngoa ngoắt, chao chát, bắt nạt người khác, còn bây
giờ, trẻ con trêu chọc, người lớn bình phẩm thì thị lại e thẹn, im lặng đúng
nghĩa “cô dâu mới về nhà chồng”. Những chi tiết dựng nhân vật thị, Kim Lân
đan cài với nhau thật tự nhiên, tôn lên cái thật nội tâm, tính cách nhân vật.
Trên đường về nhà, quãng vắng họ có những lời qua lại với nhau. Khi thị hỏi
nhà có mấy người, Tràng trả lời: “Chỉ mình tơi mấy u”, thị tủm tỉm cười:
- Đã mình tơi với mấy u. Bé lắm đấy!


Sau câu nói của thị, Tràng mới nhận ra mình hớ hênh. Phản ứng ngôn từ rất
nhanh ấy, một lần nữa cho ta thấy thị là người khá thông minh.
Khi cùng Tràng bước vào trong cái nhà rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những loại cỏ dại, “Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhơ lên nén
một tiếng thở dài”. Thị nén lại vì sợ Tràng buồn, sợ Tràng hiểu lầm thị trách
phận. Căn nhà ấy, mảnh vườn ấy như mách bảo với thị rằng cái đói đã có sẵn
ở đây rồi, đang chầm chậm đẩy Tràng và bà mẹ đến thế “cùng’ như thị chỉ
trong nay mai mà thôi. Thị ngồi xuống mép giường sau lời mời của Tràng.
Ngồi mớm vì mất tự nhiên. Tự nhiên sao được khi về nhà chồng với những cái
không: không tấm áo lành lặn, không họ hàng đưa tiễn, không một chút hiểu
biết về gia cảnh nhà chồng, không cưới hỏi…Tóm lại, thị về nhà Tràng là theo
khơng; nói theo khơng cịn có giá trị một chút, đúng ra Tràng đã “nhặt” được
thị. Nhặt thị về làm vợ dễ dàng như vậy thì vứt đi có khó gì đâu. Cái thế ngồi

mớm vào mép giường để sẳn sàng cho sự từ chối chăng, bởi vì Tràng cịn
“mấy u”? Biệt tài của Kim Lân là không miêu tả tâm trạng thị mà để hành
động nói lên tâm trạng. Sau cái ngượng nghịu của cả hai, “Thị vẫn ngồi mớm
ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần”. Ý thức về hoàn
cảnh của bản thân pha chút lo sợ đối diện với mẹ chồng chưa một lần gặp
mặt nên thị ngồi mớm ở mép giường như pho tượng. Suy nghĩ của người vô
tư, liều lĩnh, cả nể như Tràng về thị lúc ấy: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?...Ồ
sao nó lại buồn thế nhỉ?...”tơ đậm thêm tâm trạng lo âu, thắc thỏm, buồn tủi
của thị mà thôi.
Lời chào thứ nhất của thị với bà cụ Tứ có lẽ lí nhí, sợ sệt. Kim Lân miêu tả sự
ngạc nhiên, băn khoăn của bà cụ để làm bật lên tâm trạng, tính cách thị:
“Qi, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng
ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?”. Bà cụ
chưa trả lời, thị chủ động chào lần nữa.. Dấu chấm than Kim Lân đặt sau câu
chào cho thấy sự rõ ràng của lời nói. Có lẽ nói được bốn từ” U đã về ạ!” là
một sự cố gắng lắm của thị. Bởi vì, khi bà cụ đã chấp thuận, “Tràng thở đánh
phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi” thì “thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”.
Chỉ sau một đêm có vợ, sáng hôm sau, trong mắt Tràng: “Hắn chớp chớp
mắt mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh hắn có cái gì vừa thay
đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu
dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm
niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khơ
cong dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hành ngay lối đi
đã hót sạch”.


Sự thay đổi ấy bắt đầu từ bàn tay của thị, của người vợ đảm: “thị hôm nay
khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao
chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngồi tỉnh. Khơng biết có phải vì mới
làm dâu mà thị ta chí thú làm ăn khơng?...”

Từ khi thị xuất hiện, khơng gian sống tối tăm ngột ngạt, đói kém dường như
loãng ra. Bà cụ Tứ hi vọng vào tương lai, nói tồn chuyện vui. Đối với Tràng
thì: “Một nguồn vui sướng, phấn khởi đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn phải có bổn phận phải lo lắng cho
vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một
việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.
Cầm bát cháo cám mẹ chồng đưa cho, “hai mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn
“điềm nhiên và vào miệng”. Cịn Tràng thì “Mặt hắn chun ngay lại, miếng
cám đắng chát nghẹn bứ trong cổ”. Những chi tiết dùng để đối chiếu tâm lý,
thái độ trước bát cháo cám giữa thị và Tràng, một lần nữa kim Lân khắc sâu
nét đẹp nết na, lễ phép, biết làm vui lịng người khác của “cơ dâu mới” dù
trong lịng khơng mấy vui. Câu nói của bà cụ Tứ với Tràng: “Xóm ta khối nhà
chả có cám mà ăn đấy”, một lần nữa cho chúng ta thấy cái xóm ngụ cư nói
riêng, xã hội Việt Nam nói chung đã ở thế “cùng”.
“Cùng tắc biến, biến tắc thơng”. Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới hiện ra
trong óc Tràng và thơng tin: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta cịn phá kho thóc của Nhật chia cho
người đói nữa đấy”, cộng với câu hỏi âu yếm: “Sao nhà biết?” của thị đã gợi
cho hắn: “thấy ân hận, tiếc vẩn vơ, khó hiểu”. Và để cứu mình, cứu dân tộc,
chắc chắn thị, Tràng sẽ đi sau lá cờ đỏ ấy; bởi vì nếu mất họ chỉ mất cuộc đời
đói kém, bần hàn, cịn được, họ được cả cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc.
Lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó.
Gấp trang sách lại, chúng ta thêm quý trọng nhân phẩm người xưa, dù đói
đến chết người ta vẫn giữ gìn đạo lý, vẫn bao bọc che chở cho nhau. Trong
cái không gian u tối đau thương chết chóc mà Kim Lân đã hồi tưởng lại ấy,
nhân vật thị là điểm sáng của truyện. Thị đã “làm cho Tràng nên người”, khơi
dậy tâm hồn héo úa của bà cụ Tứ bằng niềm tin vào tương lai, và giờ đây,
càng làm cho chúng ta thêm tin yêu cuộc sống.
Quay trở về với cô vợ nhặt, trước hết ta có thể thấy,hành động cơ gặp Tràng,
địi ăn, rồi đi theo Tràng, khơng phải là hành động của một kẻ bị cái đói làm

mất hết lí trí, mất hết nhân phẩm. Khơng phải ngẫu nhiên mà cô vợ nhặt bảo
Tràng:


-“Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố!”
Câu nói ấy hẳn nhiên khơng phải chỉ là một câu thể hiện sự cảm thông, lo
ngại cho Tràng, sự xuất hiện của từ “chị ấy” cho ta thấy đây là một câu dị
hỏi: “Tràng có vợ hay chưa?”. Và câu dị hỏi ấy đã tỏ ra là có tác dụng, anh
Tràng trả lời:
-Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi
cùng về.
“Này nói đùa chứ” nhưng lại thành chuyện thật! Quyết định theo không
Tràng ngay tức khắc của cô vợ nhặt cho ta thấy câu nói đã trích dẫn
bên trên của cơ rõ ràng cịn ẩn chứa một mong mỏi sau cái ướm
hỏi.  Nạn đói như một cơn lũ siết dìm chết con người, cơ vợ nhặt – quay
cuồng trong cơn lũ ấy đã vớ được Tràng – một cái cọc cứu sinh! Đây là vấn
đề bản năng sinh tồn, hay như tiến sĩ Chu Văn Sơn gọi: bản năng ham sống.
Con người ta sẽ tìm mọi cách để sống, để tồn tại dù cho nghịch cảnh có khắc
nghiệt như thế nào, đó là một điều tất yếu. Cơ vợ nhặt trong trường hợp này
cũng vậy, theo không một người đàn ông về nhà làm vợ, lại mang tiếng vợ
nhặt, lại có những câu hỏi dị, khơng phải là khơng tự trọng, mà là sự trỗi dậy
của bản năng ham sống. Đó là sự lựa chọn giữa sống và chết mà lằn ranh có
khi chỉ trong tích tắc!
 Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng nhận xét: “Con người là tổng hòa của các đối cực”,
ngay trong diễn biến nội tâm cô vợ nhặt ở đoạn này, cũng đã có thể thấy sự
giao tranh, giằng co quyết liệt giữa bản năng ham số và nhâm cách làm
người. Nếu như thật sự đã trâng tráo đòi ăn cho bằng được mấy bát bánh đúc
của Tràng, thì tại sao trước khi ăn cơ vợ Nhặt cịn nói:
-Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Cứ cho câu đó là một phép lịch sự xã giao khi được người ta mời một món ăn,

thì chỉ cần nói một lần, “Ăn thật nhá!” là được rồi, tại sao lại còn lặp đi lặp lại
đến 2 lần, thêm cả “Ừ ăn thì ăn sợ gì”. Ai làm gì mà sợ?
Khơng chỉ là phép xã giao, câu nói ấy cịn có tác dụng để che đi sự
hổ thẹn. “Miếng ăn là miếng nhục”, nhất là lại cong cớn chao chát
chỏng lỏn để có miếng ăn, hỏi sao khơng xấu hổ. Nhưng ở đây khơng
có sự lựa chọn, hoặc là ăn hoặc là chết, khơng có chỗ cho sự xấu hổ. Hai câu
nói trên có tác dụng xua đi nỗi thẹn trong lịng cơ vợ nhặt.
Như vậy cơ vợ nhặt có thẹn! Người biết thẹn khơng thể là người đánh mất
hết lòng tự trọng. Ở đây, Kim Lân đã khéo léo mở ra cho người đọc


thấy một khía cạnh nhân phẩm của cơ vợ nhặt, một vẻ đẹp khuất lấp
dưới vẻ chao chát chỏng lỏn, mà để sinh tồn trong nạn đói, buộc cơ
vợ nhặt phải khốc lên mình. Vẻ đẹp khuất lấp ấy đến đoạn sau của tác
phẩm ngày một hiện rõ hơn, cô vợ nhặt dần lột bỏ vẻ ngồi xấu xí chao chát
chỏng lỏn để trở thành người vợ hiền con thảo đúng mực chăm lo cho cuộc
sống của Tràng, trở thành nhân vật “vơ danh nhưng khơng vơ nghĩa”, có vai
trị mở ra cho cuộc sống của Tràng một con đường sáng.
Về tiền giả định, Giáo sư Cao Xuân Hạo định nghĩa: “Tiền giả định của một
câu nói là một điều gì phải được giả định là đã có trước khi nói câu đó, vì nếu
khơng có điều này thì khơng thể nói câu đó được”.[4]
Xác định tiền giả định một vài lời thoại của nhân vật Tràng hay bà cụ Tứ, ta
có thể hiểu thêm về tính cách của các nhân vật này.
Với nhân vật Tràng, ta thấy Kim Lân xây dựng đây là một nhân vật được tạo
hóa đẽo đục rất thô sơ. Nhưng sau vẻ thô sơ ấy là cả một tấm lịng chân
thành, ấm áp. Khi cơ vợ nhặt theo, anh cũng chợn: “Thóc gạo đến tay mình
khơng biết có ni nổi mình khơng mà cịn đèo bịng” . Nhưng anh ta chỉ tặc
lưỡi: “Chậc kệ!” – đó là cái tặc lưỡi chấp nhận đánh cuộc với tử thần trong
ván bài đổi lấy hạnh phúc. Vợ nhặt – theo không về nhà người ta, không đám
cưới, đám hỏi, nhưng Tràng không hề khinh ghét cô, trái lại, “cảm thấy lịng

đầy tình nghĩa với người đàn bà đi bên”.
Tấm lịng ấy cịn được thể hiện trong lời thoại Tràng nói với bà cụ Tứ:
-Kìa, nhà tơi nó chào u!
Hai chữ “nhà tơi” có tiền giả định là Tràng đã xem cô vợ nhặt là vợ.
Phải coi nhau như vợ chồng thì mới gọi nhau là “nhà tơi”, mà khơng
chỉ coi nhau như vợ chồng, mà còn là vợ chồng thắm thiết, yêu
thương nhau. Hai tiếng “nhà tôi” sao mà thân thương trìu mến, nó góp
phần xoa dịu cái tủi thân bạc bẽo của hai tiếng vợ nhặt.
Hay như bà cụ Tứ, khi gặp cô vợ nhặt, đã nhận ra “bao nhiêu cớ sự vừa đau
đớn vừa xót xa”, “người ta lấy nhau lúc ăn nên làm nổi, cịn con mình thì…”,
nhưng bà dần dần nhận ra và chấp nhận cơ.
Bà nói: “Ừ, thơi thì các con đã phải dun phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lịng”. Cách xưng hơ “các con” –“u” có tiền giả định là bà cụ Tứ đã
cho phép cô vợ nhặt và Tràng lấy nhau. Cô vợ nhặt có lấy Tràng, thì mới
là con dâu bà, mới gọi là co được. Tuy vậy ở câu này vẫn có cái gì đó miễn
cưỡng, có cái gì đó buồn, đó là sự xuất hiện của “thơi thì”, của trợ từ “cũng”.


Thế nhưng càng về sau, sự miễn cưỡng mất dần, bà trìu mến với với cơ vợ
nhặt: “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” (dường như cơ
vợ nhặt khơng cịn là con dâu, mà trong cái thân mật này, ta cảm tưởng bà
cụ Tứ đã coi cô như con đẻ, thương cô như con đẻ), bà bày tỏ sự xót xa rất
chân thành tới hai con: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
Các từ để gọi nhau trong gia đình, nhà tơi, u, các con có tiền giả
định là những mối quan hệ gia đình thân tình, tốt đẹp, thể hiện tình
u thương chan hịa, trìu mến. Từ đó ta thấy được tâm hồn nhâu hậu,
bao dung, khao khát yêu thương hạnh phúc của Tràng và bà cụ Tứ.
Về tác phẩm Vợ nhặt, Kim Lân tâm nguyện: "Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người
ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một

truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự
sống, vân hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra con
người."[5] Điều ấy thể hiện rất rõ trong tư tưởng, chủ đề, cảm hứng mà nhà
văn thể hiện qua các nhân vật của mình. Để khám phá được tư tưởng ấy, ta
không thể không đi sâu vào khai thác lớp vỏ ngôn từ của văn bản. Quả thật,
những tri thức công cụ của ngành ngơn ngữ học có tác dụng khơng hề nhỏ
trong việc hiểu hơn tầng nghĩa ngôn từ của tác phẩm, từ đó làm cơ sở để
người đọc thâm nhập vào tầng nghĩa hình tượng, tầng nghĩa tư tưởng.
Trên phơng nền u ám của nạn đói, của cái chết, tiếng quạ kêu thê thiết với
mùi đống dâm khét lẹt, Kim Lân vẫn pha vào đó một chút màu sắc ấm áp
của hạnh phúc lứa đơi, lóe lên hy vọng về một ngày mai tươi sáng, về sự
thay đổi vận hội. Thơng qua tình huống dở khóc dở cười vơ cùng trớ trêu đó,
tác giả ngầm khẳng định một chân lý: “Sự sống nảy sinh từ trong lòng cái
chết, hạnh phúc hiện hình từ trong gian khổ hy sinh. Ở đời này khơng có con
đường cùng mà đây chỉ là những ranh giới. Điều cốt yếu là con người phải
chuẩn bị cho mình một sức mạnh để có thể vượt qua những ranh giới ấy”.
Viết về nạn đói năm 1945, khắc họa thực tế cảnh người chết đói như ngả rạ,
thế nhưng Kim Lân không đi vào những cảnh thương tâm như thế mà qua sự
việc anh cu Tràng nhặt được vợ để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, nhân văn
cao cả. Vượt lên trên tất cả những lo lắng, tủi hờn là niềm hạnh phúc và tình
yêu thương của con người bừng sáng. Với truyện ngắn này, Kim Lân đã bày
tỏ sự yêu quý sâu sắc đối với những người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân
ái. Tác phẩm đã khẳng định rằng: cái đói khát, chết chóc khơng thể giết chết
được niềm tin vào cuộc sống. Ở nơi tối tăm nhất, nghèo đói nhất thì con


người ta vẫn biết cách nương tựa vào nhau mà vượt qua để hướng tới một
tương lai tốt đẹp hơn.




×