Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Chương 3 ngoại tác - tài chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.24 KB, 20 trang )

Tài chính Công
Chương 3: NGOẠI TÁC
Khi hoạt động của một thực thể (cá nhân hoặc doanh nghiệp) trực tiếp tác động đến lợi ích của
thực thể khác theo cách không thông qua giá thị trường, các nhà kinh tế gọi đó là tạc động ngoại
tác (externality). Khác với các tác động thông qua giá cả thị trường, ngoại tác ảnh hưởng ngược
chiều với hiệu quả kinh tế. Trong chương này chúng ta phân tích tình trạng không hiệu quả đó và
khả năng khắc phục ngoại tác. Một trong những ứng dụng quan trọng nhất của lý thuyết ngoại tác
là thảo luận về chất lượng môi trường
.
Cụ
thể như sau:
 Lý thuyết ngoại tác
 Cách giải quyết của khu vực tư và khu vực công về vấn đề ngoại tác
 Sự khác nhau giữa cách tiếp cận giá cả và số lượng để giải quyết vấn đề ngoại tác
3.1. Khái niệm ngoại tác
Một ngoại tác xảy ra bất cứ lúc nào khi hành động của một đối tác làm cho đối tác khác tốt hơn
hay xấu đi, mà đối tác ban đầu vừa không phải gánh chịu chi phí, vừa không nhận lợi ích từ hành
động đó.
Ngoại tác có thể xảy ra trong nhiều tương tác hàng ngày với những mức độ và phạm vi khác
nhau. Ngoại tác xảy ra ở mức độ nhỏ, như là bạn mở radio quá lớn, làm cho người bạn cùng
phòng học không được. Ngoại tác xảy ra ở mức độ lớn như là mưa axit hoặc trái đất nóng dần lên.
Các nhà máy nhiệt điện sẽ sử dụng than đá để sản xuất điện. Sản phẩm phụ của nó là thải ra chất
nitơ và điôxít sun phơ, từ đó tạo ra axit ni tơ rít và sun phơ rít. Những loại axit này tạo ra mưa
axit, làm phá hoại mùa màng và gia tăng bệnh hô hấp trong công chúng. Nếu không có can thiệp
của chính phủ thì những nhà máy nhiệt điện không gánh chịu bất kỳ khoản chi phí nào từ hoạt
động sản xuất của nó gây ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường.
3.2. Lý thuyết ngoại tác
Ngoại tác có thể xảy ra trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa hoặc tiêu dùng, nó có thể là tích cực hay
Ngô Đức Chiến Trang 1/24
Tài chính Công
tiêu cực.


3.2.1. Ngoại tác sản xuất tiêu cực
Một vài nơi ở Việt Nam có nhà máy théo được xây dựng gần dòng song. Những nhà máy này
sản xuất ra thép, nhưng nó cũng tạo ra một chất “bùn quánh” – loại sản phẩm phũ không có ích gì
đối với người chủ nhà máy thép. Để loại bỏ sản phẩm phụ không hữu ích này, người chủ nhà máy
thép xây dựng đường ống dẫn chất bùn quánh đổ vào con song. Mức bùn quánh tạo ra theo tỷ lệ
sản lượng thép sản xuất. Mỗi một đơn vị thép tăng thêm tạo ra thêm một đơn vị bùn quánh.
Tuy nhiên, nhà máy théo không chỉ đơn vị sản xuất duy nhất sử dụng dòng song. Xuôi theo
hướng dòng song chảy là vùng câu cá mà ở đó có nhiều người câu cá, đánh bắt cá để sinh sống.
Bởi vì nhà máy thép đổ bùn quánh vào dòng song, nên cá ít sống ở đây, và sự đánh bắt cá trở nên
khó khăn, ít lợi nhuận.
Kịch bản này là ví dụ điển hình về vấn đề ngoại tác. Nhà máy thép tạo ra một ngoại tác sản
xuất tiêu cực cho những người đánh bắt cá. Sản xuất của nhà máy thép tạo ra tác động nghịch đảo
đến tình trạng sinh sống của những người đánh bắt cá nhưng lại không bồi thường mức tổn thất
cho những người đánh bắt cá.
Pt (giá thép) B SMC = PMC + MD
P2 C S = PMC
P1 A
MD = 100
0 Q2 Q1 Qt (sản lượng thép)
Hình minh họa: Ngoại tác sản xuất tiêu cực
Ngô Đức Chiến Trang 2/24
Tài chính Công
Hình trên minh họa thị trường thép được sản xuất bởi nhà máy này và so sánh lợi ích tư nhân
và chi phí sản xuất với chi phí và lợi ích xã hội. Lợi ích và chi phí tư nhân là lợi ích và chi phí mà
các chủ thể trong thị trường thép phải gánh chịu trực tiếp (người mua và người bán). Lợi ích và chi
phí xã hội là lợi ích và chi phí tư nhân cộng với lợi ích và chi phí đối với bất kỳ các chủ thể bên
ngoài thị trường thép – những chủ thể chịu tác động bởi tiến trình sản xuất của nhà máy thép
(người đánh cá).
Chúng ta đã biết cách xác định mỗi điểm trên đường cung phản ánh chi phí biên của thị trường
để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa – đó là chi phí biên tư nhân (PMC) của đơn vị hàng hóa thép.

Tuy nhiên, yếu tố quyết định kết quả phúc lợi của sản xuất là chi phí biên xã hội (SMC), bằng chi
phí biên tư nhân đối với người sản xuất để sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa cộng cho bất kỳ chi
phí nào có liên quan đến sản xuất hàng hóa đó mà các chủ thể khác phải gánh chịu. Nếu như không
có thất bại thị trường thì PMC = SMC: Chi phí xã hội của sản xuất thép bằng với chi phí của người
sản xuất thép.
Tuy nhiên cách tiếp cận này không đúng trong điều kiện có ngoại tác. Khi có ngoại tác thì
SMC = PMC + MD, trong đó MD là mức tổn hại biên đối với các chủ thể bên ngoài thị trường
thép (người đánh bắt cá), từ mỗi đơn vị sản xuất.
Giả sử mỗi đơn vị thép sản xuất tạo ra chất bùn quánh giết chết cá với giá là 100 đôla. Trong
hình trên, đường cong SMC chính là đường cong PMC, được di chuyển theo hướng đi lên bằng
với chi phí tổn hại biên 100 đôla. Ở tại đơn vị thép Q1 (điểm A), chi phí biên xã hội là chi phí biên
tư nhân ở tại điểm đó (bằng với P1), cộng với 100 đôla (điểm B). Ứng với mỗi mức độ sản xuất,
chi phí xã hội là cao hơn 100 đôla so với chi phí tư nhân, bởi vì cứ mỗi một đơn vị sản xuất thép
tạo ra 100 đôla chi phí cho những người đánh cá nhưng không được bồi thường.
Mỗi một điểm trên đường cầu thị trường thép phản ánh tổng cộng mức sẵn lòng của các cá
nhân trong việc tiêu thụ thép hoặc là lợi ích biên tư nhân (PMB) của đơn vị thép. Kết quả phúc lợi
của tiêu dùng được xác định bằng lợi ích biên xã hội (SMB), đó là lợi ích biên tư nhân của người
Ngô Đức Chiến Trang 3/24
Tài chính Công
tiêu dùng cộng với chi phí biên liên quan đến tiêu dùng hàng hóa đó mà người tiêu dùng phải gánh
chịu. Trong ví dụ này, do không có chi phí liên quan đến tiêu dùng thép, nên SMB = PMB.
Cân bằng thị trường tư nhân là điểm A với mức sản lượng sản xuất Q1 và giá cả P1. Đây cũng
là mức tiêu dùng tối đa hóa xã hội. Thế nhưng trong điều kiện có ngoại tác, điều này lại không phù
hợp. Hiệu quả xã hội đã được xác định liên quan đến đường cong chi phí và lợi ích biên xã hội,
chứ không phải là đường cong chi phí và lợi ích biên tư nhân. Khi có ngoại tác tiêu cực, các đường
cong xã hội (SMB và SMC) cắt nhau tại điểm C, với mức tiêu dùng là điểm Q2. Do người sản xuất
thép không quan tâm đến sự kiện là cứ mỗi đơn vị thép sản xuất giết chết cá trong dòng sông, nên
đường cung không phản ánh đúng chi phí sản xuất Q1 ứng với điểm A mà đúng ra là điểm B. Kết
quá là quá nhiều thép được sản xuất (Q1 > Q2), và cân bằng thị trường tư nhân không còn tối đa
hóa hiệu quả xã hội.

Nếu di chuyển ra xa số lượng tối đa hóa hiệu quả xã hội, thì chúng ta tạo ra tổn thất xã hội, bởi
vì khi đó những đơn vị hàng hóa được sản xuất và tiêu dùng đều làm cho chi phí xã hội (SMC)
vượt quá lợi ích biên xã hội (SMB). Trong ví dụ của chúng ta, tổn thất xã hội được đo lường bằng
diện tích tam giác ABC. Chiều rộng của tam giác được xác định bằng Q1 – Q2. Chiều cao của tam
giác là chênh lệch giữa chi phí xã hội biên và lợi ích biên, tổn hại biên xã hội.
3.2.2. Ngoại tác tiêu dùng tiêu cực
Ngoại tác không chỉ xảy ra ở khía cạnh sản xuất mà còn ở khía cạnh tiêu dùng. Hãy xem xét
trường hợp hút thuốc lá . Trong một nhà hàng cho phép bạn hút thuốc lá. Sự tiêu dùng thuốc lá của
bạn gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến sự thưởng thức bữa ăn của tôi trong nhà hàng, nhưng bạn lại
không bồi thường cho tôi để bù lại ảnh hưởng tiêu cực này. Đây là ví dụ về ngoại tác tiêu dùng tiêu
cực, nghĩa là sự tiêu dùng hàng hóa làm giảm đi tình trạng tiêu dùng của người khác, sự tổn thất
này không được bồi thường. Khi có ngoại tác tiêu dùng tiêu cực, SMB – MD, trong đó MD là tổn
thất biên mà người khác phải gánh chịu do tiêu dùng một đơn vị hàng hóa của bạn. Giả sử hút một
gói thuốc gây ra MD là 40 đôla.
Ngô Đức Chiến Trang 4/24
Tài chính Công
Hình dưới biểu thị cung, cầu thuốc lá. Cung và cầu phản ánh PMC và PMB. Cân bằng thị
trường là ở điểm A, trong đó cung (PMC) bằng với cầu (PMB) tương ứng mức tiêu dùng Q1 và giả
sử P1. SMC bằng với PMC bởi vì không có ngoại tác liên quan đến sản xuất thuốc lá. Tuy nhiên,
khi có ngoại tác, SMB bây giờ nhỏ hơn PMB bằng 40 đôla/gói thuốc. Đó là, ở những đơn vị sản
xuất Q1 (điểm A), lợi ích biên xã hội bằng lợi ích biên tư nhân ở tại mức giá P1 trừ đi 40 đôla
(điểm B). Đối với một bao thuốc lá, lợi ích xã hội thấp hơn 40 đôla so với lợi ích tư nhân, bởi vì cứ
mỗi bao thuốc lá tiêu dùng gây ra 40 đôla chi phí cho người khác mà họ không được bồi thường.
Pt (giá thuốc lá)
S = PMC= SMC
P1 A
P2 C MD
B SMB = PMB – MD
0 Q2 Q1 Qt (số lượng bao thuốc lá)
Hình minh họa: Ngoại tác tiêu dùng tiêu cực

Mức độ tiêu dùng tối đa hóa phúc lợi xã hội, Q2, được xác định bởi điểm C, ở đó SMB =
SMC. Sự tiêu dùng thuốc lá quá mức bằng Q1 – Q2: chi phí xã hội (điểm A trên đường cong
SMC) vượt quá lợi ích xã hội (trên đường cong SMB) cho tất cả các đơn vị bao thuốc lá nằm ở
giữa Q1 và Q2. Kết quả là, có sự tổn thất xã hội trong thị trường thuốc lá bằng diện tích tam giac
ACB.
3.2.3. Ngoại tác tích cực
Tất cả ngoại tác không phải là xấu cả, cũng có những ngoại tác tích cực liên quan đến một thị
trường, mà ở đó các chủ thể hưởng thụ lợi ích sản xuất lớn hơn nhiều so với người sản xuất, nhưng
người sản xuất không được bồi thường. Ví dụ, các cảnh sát thích bánh cam khi làm nhiệm vụ.
Ngô Đức Chiến Trang 5/24
Tài chính Công
Càng có nhiều bánh cám được sản xuất gần nhà bạn, thì càng nhiều cảnh sát chung quanh nhà bạn.
Điều này tạo ra ngoại tác tích cực làm cho những người hàng xóm của bạn được an ninh. Vì vậy,
việc sản xuất bánh cam tạo ra ngoại tác sản xuất tích cực đối với bạn: cứ mỗi một bánh cam được
sản xuất làm gia tăng cơ hội một người cảnh sát ở gần nhà bạn khi bạn cần ông ta.
Pt (giá bánh cam)
S = PMC
P1 A SMC = PMC - EMB
P2 B EMB
D = PMB = SMB
C
0 Q1 Q2 Qt (số lượng bánh cam)
Hình minh họa: Ngoại tác sản xuất tích cực
Hình trên mô tả thị trường bánh cam và ngoại tác sản xuất tích cực đối với sản xuất bánh cam:
chi phí biên xã hội sản xuất bánh cam thực tế là thấp hơn chi phí biên tư nhân bởi vì sản xuất bánh
cam có tác động tích cực đến sự an toàn của người hàng xóm. Giả sử lợi ích biên đối với người
hàng xóm cho mỗi đơn vị bánh cam được sản xuất (thông qua gia tăng sự hiện diện của cảnh sát và
cải thiện tình hình an ninh), là một hằng số EMB. Kết quả là SMC thấp hơn PMC với một mức là
EMB. Vì thế, cân bằng tư nhân trong thị trường bánh cam là điểm A, tương ứng với số lượng Q1
là cân bằng sản xuất dưới mức khả năng so với mức tối ưu xã hội ở điểm B và số lượng Q2. Điều

này do bởi người chủ cửa hàng bán bánh cam không nhận được lợi ích tạo ra cho những người
hàng xóm (vì ông ta không được bồi thường một khoản lợi ích nào từ người hàng xóm).
Bên cạnh ngoại tác sản xuất tích cực cũng có ngoại tác tiêu dùng tiêu cực. Hãy hình dung
người hàng xóm của bạn đang nỗ lực cải thiện cảnh quang chung quanh của nhà ông ta. Chi phí cải
thiện cảnh quanh tốn kém khoảng 1.000 đôla, nhưng đối với ông ta chỉ đánh giá (lợi ích) là 800
Ngô Đức Chiến Trang 6/24
Tài chính Công
đôla. Phòng ngủ của bạn đối diện với nhà của người hàng xóm và bạn muốn cảnh quang đẹp hơn
để ngắm nhìn và thư giãn. Đối với bạn, cảnh quanq tốt hơn mang lại cho bạn một giá trị là 300
đôla, điều này nghĩa là, tổng cộng lợi ích biên của xã hội về việc cải thiện cảnh quang của người
hàng xóm là 1.100 đôla (800 + 300). Bởi vì lợi ích biên xã hội 1.100 đôla lớn hơn chi phí biên xã
hội 1.000 đôla, nên đó là hiệu quả xã hội của việc cải thiện cảnh quang của người hàng xóm. Thế
nhưng, người hàng xóm của bạn có thể sẽ không cải thiện cảnh quang chung quanh nhà của ông ta,
vì chi phí tư nhân 1.000 đôla lớn hơn lợi ích tư nhân 800 đôla. Sự cải thiện cảnh quang có tác động
tích cực đến điều kiện sống của bạn, nhưng trái lại người hàng xóm không được bồi thường một
khoảng chi phí nào từ bạn, kết quả dẫn đến một sự tiêu dùng hay thưởng thức cảnh quang dưới
mức khả năng.
3.3. Những giải pháp của khu vực tư về vấn đề ngoại tác
3.3.1. Giải pháp và định lý Coase
Một câu hỏi đặt ra là tại sao thị trường không bồi thường cho những đối tác/chủ thể bị tác động
bởi ngoại tác?
Để xem xét thị trường thực hiện bồi thường những chủ thể bị tác động bởi ngoại tác như thế,
chúng ta hãy xem xét cái gì xảy ra nếu như những người đánh cá sở hữu dòng song trong ví dụ nhà
máy thép. Chắc chắn lúc này, họ sẽ bắt buộc nhà máy thép bồi thường và yêu cầu chấm dứt đổ chất
bùn quánh vào dòng song vì ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Họ có quyền làm điều đó, vì họ là
người sở hữu tài sản đối với dòng song, quyền sở hữu trao cho ho5kha3 năng kiểm soát dòng sông.
Giả sử kịch bản của chúng xảy ra trong bối cảnh không có công nghệ kiểm soát ô nhiễm để làm
giảm bớt tổn thất của chất bùn quánh, cách duy nhất để giảm chất bùn quánh là giảm mức sản xuất.
Vì vậy, chấm dứt việc thải chất bùn quánh có nghĩa là đóng cửa nhà máy. Trong trường hợp này,
nhà máy thép đưa ra đề nghị: họ sẽ trả cho những người đánh cá 100 đôla cho mỗi đơn vị thép

được sản xuất. Đây là mức bồi thường thiệt hại cho những người đánh cá. Với điều kiện, nhà máy
Ngô Đức Chiến Trang 7/24
Tài chính Công
thép kiếm được lợi nhuận từ phần vượt quá 100 đôla trên mỗi đơn vị thép sản xuất. Như thế, đó là
giải pháp tốt hơn so với việc nhà máy thép đóng cửa.
Loại hình giải pháp này gọi là nội hóa ngoại tác. Bởi vì, những người đánh cá bây giờ có quyền
tài sản đối với dòng song, họ đã dùng thị trường để giành được mức bồi thường từ nhà máy thép vì
sự gây ô nhiễm dòng song. Những người đánh cá ngầm ý đã tạo ra một thị trường ô nhiễm, bằng
việc định giá hành vi xấu của nhà máy thép. Từ góc độ của nhà máy thép, sự tổn hại gây ra cho
những người đánh cá trở thành một khoản chi phí đầu vào, bởi vì nó chi trả để được duy trì sản
xuất.
Điều này được minh họa trong hình sau, ban đầu, thị trường thép cân bằng ở điểm A, với số
lượng Q1 và giá P1, ở đó PMB = PMC
1
. Mức sản xuất thép tối ưu của xã hội là ở điểm B, với sản
lượng Q2 và giá P2, ở đó SMB = SMC = PMC
1
+ MD. Do chi phí biên sản xuất mỗi đơn vị thép
tăng lên 100 đôla (chi phí thanh toán cho những người đánh cá), nên đường cong chi phí biên tư
nhân di chuyển theo hướng đi lên từ PMC
1
đến PMC
2
, bằng với SMC. Nghĩa là, chi phí xã hội biên
bằng chi phí biên tư nhân cộng cho 100 đôla. Bằng việc cộng thêm 100 đôla vào chi phí biên tư
nhân, ta có PMC = SMC. Như thế sẽ không có sản xuất quá mức, bởi vì chi phí và lợi ích biên xã
hội của mỗi đơn vị sản xuất là bằng nhau.
Phần I của định lý Coase: Khi quyền tài sản được xác định rõ ràng và sự mặc cả khong tốn
kém chi phí, thì sự thương lượng giữa bên đối tác tạo ra ngoại tác và đối tác bị ảnh hưởng bởi
ngoại tác có thể dẫn đến só lượng thị trường tối ưu xã hội. Định lý này cho rằng, ngoại tác không

nhất thiết tạo ta thất bại thị trường, bởi vì sự thương lượng giữa các bên đối tác có thể hướng người
sản xuất (hoặc người tiêu dùng) gây ra vi phạm nội hóa ngoại tác hoặc quan tâm đến những ảnh
hưởng bên ngoài trong quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng của họ.
Định lý Coase đưa ra ý tưởng sự giới hạn vai trò rất đặc biệt của chính phủ trong quá trình giải
quyết ngoại tác, đó là: tạo lập quyền sở hữu hợp lý. Theo quan điểm của Coase, giới hạn cơ bản để
thực hiện giải quyết vấn đề ngoại tác của khu vực tư là sự thiết lập quyền tài sản yếu kém. Nếu như
Ngô Đức Chiến Trang 8/24
Tài chính Công
chính phủ có thể thiết lập và tăng cường quyền tài sản hợp lý thì khu vực tư sẽ giải quyết tốt vấn
đề còn lại.
Pt (giá cả) SMC = PMC2 = PMC1 + MD
P2 B S = PMC1
P1 A
MD = 100
D = PMB = SMB

0 Q2 Q1 Qt (số lượng thép)
Hình minh họa: Ngoại tác sản xuất tiêu cực và sự mặc cả
Phần II định lý Coase: Giải pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề ngoại tác không tùy thuộc vào
đối tác nào được phân định quyền sở hữu , miễn là có đói tác nào đó được phân định quyền sở hữu.
Chúng ta có thể chứng minh phần II của định lý này bằng việc sử dụng ví dụ nhà máy thép. Giả
sử nhà máy thép, chứ không phải là những đánh cá, sở hữu dòng song. Trong trường hợp này,
những người đánh cá không có quyền sở hữu để yêu cầu người sở hữu chi trả 100 đôla chi phí bòi
thường cho mỗi đơn vị thép được sản xuất. Tuy nhiên, những người đánh cá cũng thấy được quan
tâm của mình trong việc chi trả cho nhà máy thép để họ sản xuất ít thép hơn. Nếu như những người
đánh cá hứa thanh toán 100 đôla cho mỗi đơn vị thép không được sản xuất, thì nhà máy thép sẽ coi
100 đôla là chi phí tăng thêm cho mỗi đơn vị thép được sản xuất. Hãy nhớ lại, trong nền kinh tế,
chi phí cơ hội được đưa vào tính toán chi phí của công ty. Vì thế, việc những người đánh cá từ chối
thanh toán 100 d9o6la cho mỗi đơn vị thép không được sản xuất có ảnh hưởng đến quyết định sản
xuất giống như là bị ép buộc phải thanh toán 100 đôla thêm cho mỗi đơn vị thép được sản xuất.

Nói rõ hơn, nếu như nhà máy thép quyết định sản xuất thêm một đơn vị thép thì họ sẽ mất đi 100
đôla tiền bồi thường từ những người đánh cá. Một lần nữa cho thấy, đường cong chi phí biên tư
Ngô Đức Chiến Trang 9/24
Tài chính Công
nhân bao gồm chi phí cơ hội, dịch chuyển đến đường cong chi phí biên xã hội. Vì thế không có
xảy ra sản xuất thép quá mức.
3.3.2. Những hạn chế về giải pháp của định lý Coase
Như đã phân tích, định lý Coase thiết lập vai trò thích hợp của chính phủ trong nền kinh tế và
nêu các giải pháp giải quyết vấn đề thất bại thị trường. Tuy nhiên, thực tế, định lý Coase không thể
giải quyết nhiều loại hình ngoại tác, gây ra thất bại thị trường.
 Vấn đề phân định trách nhiệm:
Dòng sông rất dài, có nhiều nguồn gây ô nhiễm khác dọc dòng song gây ra làm cá chết. Nguồn
cá bị cạn kiệt vì lý do tự nhiên, như là bệnh tật hay là sự gia tăng các con thú ăn thịt trong dòng
sông. Trong nhiều trường hợp không thể quy trách nhiệm ngoại tác cho một chủ thể cụ thể.
Xác định mức tổn thất cũng có nhiều vấn đề phân tích. Chúng ta giả sử mức tổn thất có giá trị
cố định là 100 đôla. Con số này đến từ đâu trong thực tế? Chúng ta có thể tin những người đánh cá
nói đúng con số này mà họ phải chịu hay không? Họ có cường điệu hóa mức tổn thất để được nhận
nhiều tiền bồi thường hay không? Số tiền thanh toán được phân phối trong số những người đánh cá
như thế nào?
Vấn đề quy trách nhiệm có phải là rào chắn để nội hóa ngoại tác hay không còn tùy thuộc vào
bản chất của ngoại tác. Nếu như loa stereo của tôi chơi quá lớn gây phiền phức đến việc học tập
của bạn, thì việc quy trách nhiệm và tổn thất là rõ ràng. Tuy nhiên, trong trường hợp khí hậu nóng
lên dần trên toàn cầu, làm sao chúng ta có thể quy trách nhiệm một cách rõ ràng khi mà sự thải
cacbon đến từ nhiều nguồn khác nhau? Làm sao chúng ta quy mức độ tổn thất rõ ràng khi mà có
một số các nhân muốn khí hậu thé giới nóng lên, trong khi có một số còn lại thì không? Có lẽ giải
pháp Coase thích hợp cho những ngoại tác được xác định địa điểm rõ ràng và xảy ra ở phạm vi nhỏ
so với ngoại tác lớn hơn và toàn cầu.
 Vấn đề yêu sách của người sở hữu trong giải pháp của Coase:
Ngô Đức Chiến Trang 10/24
Tài chính Công

Giả sử cứ mỗi một đơn vị bùn quánh thải ra từ nhà máy thép làm chết cá với giá trị 1 đôla và
nếu có 100 người đánh cá thì tổng số thiệt hại là 100 đôla cho mỗi đơn vị thép được sản xuất.
Giả sử, tất cả những người đánh cá đều có quyền sở hữu tài sản đối với dòng song và nhà máy
thép không thẻ sản xuất trừ khi tất cả những người đánh cá đều đồng ý. Giải pháp của định lý
Coase là mỗi một người đánh cá (trong số 100 người) đến nhận khoản tiền thanh toán cho mỗi đơn
vị sản xuất thép và nhà máy théo tiếp tục sản xuất thép. Cứ như vậy cho đến người đánh cá cuối
cùng. Thế nhưng một tình huống mới xảy ra là, người đánh cá cuối cùng nhận ra là, nhà máy thép
không thể sản xuất nếu như không có sự cho phép của ông ta bởi vì ông ta sở hữu một phân của
dòng song. Tại sao ông ta lại chấp nhận 1 đôla cho mỗi đơn vị thép sản xuất? Đã thanh toán hết 99
đôla, thì nhà máy thép cũng sẽ sẵn lòng thanh toán hơn 1 đôla để vượt qua hàng rào cản cuối cùng
và tiến hành sản xuất. Tại sao không yêu cầu 2 đôla và hơn nữa?
Ví dụ trên minh họa vấn đề yêu sách của người sở hữu trong giải pháp của Coase. Quyền sở
hữu dòng sông là thuộc của nhiều người: quyền sở hữu được chia sẻ thì trao cho mỗi người sở hữu
quyền lực vượt trội so với tất cả những người còn lại. Nếu như những người đánh cá còn lại đều
nhận thấy trước rằng đây là vấn đề cốt lõi trong giải pháp của Coase thì họ sẽ cố gắng để là người
cuối cùng trong cuộc thương lượng. Như vậy, kết quả sẽ làm cho cuộc thương lượng bị phá vỡ và
không thể thực hiện giải pháp Coase.
 Vấn đề người thụ hưởng tự do không trả tiền:
Để giải quyết vấn đề yêu sách của người sở hữu, đơn giản chúng ta có thể phân định quyền sở
hữu cho một người thương lượng duy nhất, trong trường hợp này là nhà máy thép có được hay
không? Điều này lại làm nẩy sinh vấn đề rắc rối mới.
Giả sử nhà máy thép có quyền sở hữu dòng song và chấp thuận giảm sản xuất 1 đơn vị thép để
nhận 100 đôla từ những người đánh cá. Khi đó, giải pháp Coase nghiêng về giải pháp là những
người đánh cá phải chi trả 100 đôla cho nhà máy thép để di chuyển đến mức sản xuất tối ưu. Giả
sử mức giảm tối ưu của sản xuất thép (chi phí xã hội biên bằng với lợi ích xã hội biên) là 100 đơn
Ngô Đức Chiến Trang 11/24
Tài chính Công
vị. Như vậy, 100 người đánh cá tổng cộng phải trả 10.000 đôla chon nhà máy thép cắt giảm 100
đơn vị.
Giả sử bạn là người đánh cá cuối cùng để thanh toán tiền. Nhà máy thép đã nhận được 9.900

đôla để sẵn lòng giảm sản xuất 99 đơn vị thép. Cắt giảm 99 đơn vị thép sẽ mang lại lợi ích như
nhau cho tất cả những người đánh cá, bởi tất cả họ cùng chia sẻ lợi ích của dòng sông. Vì thế, kết
quả là nếu như bạn không chi trả 100 đôla của bạn, bạn vẫn đánh bắt cá bình thường. Song, cần
thấy rằng sự tổn thất sẽ được tránh khỏi hoàn toàn nếu như bạn bỏ ra 100 đôla để mua sự giảm đi
đơn vị thép sản xuất cuối cùng và khi đó có sự chia sẻ như nhau trong số 100 người đánh cá. Thất
là rất công bằng, nhưng động cơ gì bạn không chi trả? Đây là ví dụ về người hưởng thụ tự do
không trả tiền: khi một cá nhân đầu tư nhưng mang lại lợi ích chung, thì cá nhân sẽ đầu tư dưới
mức tiềm năng. Nhận thức được động cơ này, những người đồng nghiệp đánh cá của bạn cũng sẽ
không chi trả 100 đôla của họ, và ngoại tác sẽ không được giải quyết.
 Chi phí giao dịch và vấn đề thương lượng:
Cuối cùng cách tiếp cận của Coase bỏ qua vấn đề cơ bản: đó là rất khó để thương lượng khi có
nhiều cá nhân ở một bên hoặc hai bên thương lượng. Một trăm người đánh cá có đồng lòng với
nhau hay không trong việc tính toán bao nhiêu số tiền phải trả hoặc đòi bồi thường đối với nhà
máy thép? Vần đề này càng khó khăn hơn khi ngoại tác xảy ra ở mức độ lớn như là khí hậu nóng
lên toàn cầu, trong đó có hàng tỷ lợi ích khác nhau ở cùng một bên thương và không biết làm thế
nào để tổng hợp thành lợi ích chung.
Hơn nữa, vấn đề này cũng quan trọng thậm chí đối với những ngoại tác có phạm vi nhỏ. Về lý
thuyết, người hàng xóm của tôi và tôi có thể thương lượng để giải quyết thỏa đáng vần đề mà tôi
chơi nhạc lớn làm ảnh hưởng đến công việc học tập của ông ta. Thực tế, liệu tôi có thể khuyên họ
chấp nhận tiếng nhạc lớn hoặc là tôi trả cho ông ta một khoản tiền? Tương tự, nếu người ngồi bên
cạnh tôi trong nhà hàng thuốc lá, chẳng lẽ tôi phải chi trả 5 đôla để cho ông ta thôi không hút
thuốc. Nhìn chung, thế giới không thể hoạt động theo cách thức như các nhà kinh tế mong muốn.
Ngô Đức Chiến Trang 12/24
Tài chính Công
3.4. Khu vực Công giải quyết vấn đề ngoại tác
Những người hoạch định chính sách công có thể thực hiện 3 loại giải pháp để giải quyết vấn đề
ngoại tác tiêu cực.
3.4.1. Đánh thuế để điều chỉnh
Chúng ta đã thấy rằng mục tiêu nội hóa ngoại tác của Coase có lẽ rất khó để đạt được trong
thực tiễn của thị trường tư nhân. Chính phủ có thể đạt được kết quả tương tự bằng cách đánh thuế

vào nhà máy thép với giá trị MD cho mỗi đơn vị thép được sản xuất.
Pt (giá cả) SMC = PMC2 = PMC1 + MD
P2 B MD = thuế S = PMC1
P1 A

D = PMB = SMB

0 Q2 Q1 Qt (số lượng thép)
Hình minh họa: Đánh thuế để giải quyết vấn đề ngoại tác
Hình vẽ bên dưới chứng minh sự tác động của một chính sách thuế như vậy. Thị trường thép
ban đầu cân bằng ở điểm A, ở đó cung (PMC
1
) bằng với cầu (PMB = SMB) và Q
1
đơn vị thép
được sản xuất ở mức giá P
1
. Xét ngoại tác với mức chi phí MD, thì sản xuất tối ưu xã hội ở tại
điểm B, ở đó chi phí và lợi ích biên xã hội bằng nhau. Giả sử chính phủ đánh thuế trên một đơn vị
thép sản xuất với mức thuế là MD. Thuế này được xem như là một khoản chi phí đối với người
sản xuất thép và như vậy sẽ làm dịch chuyển đường chi phí biên tư nhân lên bằng MD cho mỗi
đơn vị thép được sản xuất. Điều này tạo ra đường cong PMC mới, đó là PMC
2
, bằng với đường
cong SMC. Kết quả là, thuế đã làm nội hóa ngoại tác một cách hiệu quả và dẫn đến kết quả tối ưu
hóa xã hội (điểm B, số lượng Q
2
). Thuế đơn vị mà chính phủ đánh trên mỗi đơn vị thép giống như
Ngô Đức Chiến Trang 13/24
Tài chính Công

là trường hợp những người đánh cá sở hữu dòng sông. Mô hình này được gọi là thuế điều chỉnh.
A.C.Pigou là nhà kinh tế đầu tiên đưa ra giải pháp này để giải quyết vần đề ngoại tác.
3.4.2. Trợ cấp
Như đã đề cập trước đây, không phải tất cả ngoại tác đều là tiêu cực. Trong nhiều trường hợp
chẳng hạn như: cửa hàng bán bánh cam hoặc cảnh quang đẹp của người hàng xóm là những ngoại
tác tiêu cực.
Giải pháp của Coase đới với những trường hợp như là cửa hàng bán bánh cam là thu một
khoản tiền của người hàng xóm để thanh toán cho cửa hàng bánh cam để sản xuất nhiều bánh cam
hơn nữa (để thu hút nhiều cảnh sát hơn), nhưng điều này không khả thi. Chính phủ có thể đạt được
kết quả tương tự bằng chính sách trợ cấp cho chủ cửa hàng để giảm bớt chi phí, qua đó sản xuất
nhiều bánh cam hơn. Số tiền trợ cấp chính xác bằng với lợi ích của những người hàng xóm.
Pt (giá bánh cam)
S = PMC1
P1 A SMC = PMC2 = PMC1 – MD
P2 B
PMC = trợ cấp D = PMB = SMB

0 Q1 Q2 Qt (số lượng bánh cam)
Hình minh họa: Trợ cấp để giải quyết ngoại tác
Sự tác động của trợ cấp được mình họa trong hình vẽ trên. Trong thị trường bánh cam, ban đầu
điểm cân bằng ở tại điểm A, ở đó PMC
1
bằng với PMB, và Q
1
bánh cam được sản xuất với mức
giá P
1
. Xét ngoại tác tích cực với lợi ích MB, thì sản xuất tối ưu xã hội ở điểm B, ở đó chi phí biên
xã hội bằng với lợi ích biên xã hội. Giả sử chính phủ trợ cấp trên đơn vị bánh cam được sản xuất là
S = MB. Mức trợ cấp này làm giảm đi chi phí biên sản xuất bánh cam, theo đó làm dịch chuyển

Ngô Đức Chiến Trang 14/24
Tài chính Công
đường cong chi phí biên tư nhân xuống bằng MB cho mỗi đơn vị được sản xuất. Kết quả là tạo ra
đường cong PMC mới, PMC
2
bằng với đường cong SMC. Trợ cấp đã khiến cho chủ cửa hàng nội
hóa ngoại tác tích cực và thị trường di chuyển từ một tình trạng sản xuất dưới mức tiềm năng đến
mức sản xuất tối ưu.
3.4.3. Điều tiết lượng sản xuất
Đánh thuế, trợ cấp là các công cụ giải quyết vấn đề ngoại tác theo cơ chế giá. Bên cạnh đó,
chính phủ có thể điều tiết lượng sản xuất để giải quyết ngoại tác. Trở lại nhà máy thép, chính phủ
có thể yêu cầu nhà máy thép không được sản xuất ở mức nhiều hơn Q
2
.
Pt (giá cả) SMC = PMC + MD
P2 B S = PMC
P1 A

D = PMB = SMB

0 Q2 Q1 Qt (số lượng thép)
Hình minh họa: Quy định số lượng để giải quyết vấn đề ngoại tác
Trong một thế giới lý tưởng, đánh thuế Pigou và điều tiết lượng sản xuất có tác động như nhau.
Thế nhưng trong thực tế, thuế chưa phải là phương tiện có hiệu quả để giải quyết vấn đề ngoại tác.
Còn điều tiết lượng sản xuất thường là sự lựa chọn truyền thống của nhiều quốc gia trên thế giới.
3.5. Sự khác nhau giữa cách tiếp cận giá cả và số lượng để giải quyết vấn đề ngoại tác
Trong phần này chúng ta sẽ so sánh cách tiếp cận giá cả (đánh thuế) và số lượng (điều tiết
lượng sản xuất) để giải quyết vấn đề ngoại tác, sử dụng nhiều mô hình phức tạp trong đó hàm ý sự
can thiệp hiệu quả xã hội có lẽ khác nhau giữa hai cách tiếp cận. Mục tiêu so sánh các cách tiếp
cận này là để chỉ ra con đường hiệu quả nhất để giải quyết ngoại tác.

Ngô Đức Chiến Trang 15/24
Chính phủ có thể yêu
cầu sản xuất không
nhiều hơn Q2
Tài chính Công
3.5.1. Mô hình cơ bản
Để minh chứng sự khác nhau quan trọng giữa cách tiếp cận giá cả và số lượng, chúng ta nên
đưa thêm một yếu tố phức tạp hơn vào trong mô hình thị trường cạnh tranh cơ bản. Trong mô hình
cơ bản, cách duy nhất để giảm thiểu ô nhiễm môi trường là cắt giảm sản xuất. Thực tế, có những
kỹ thuật khác sẵn có để có thể giảm ô nhiễm môi trường bên cạnh thu hẹp sản xuất. Chẳng hạn, để
giảm chất thải điôxít sun phơ từ những nhà máy điện chạy bằng than có thể lắp đặt máy lọc hơi đốt
để loại bỏ chất SO
2
từ chất thải và lọc nó thành chất rắn hay chất lỏng mà có thể vứt bỏ an toàn.
Các xe ca chở khách cũng có thể giảm bớt ô nhiễm bằng cách lắp đặt lò chuyển xúc tác, mà nó có
thể chuyển chất oxit nito nguy hiểm thành hợp chất không gây nguy hại cho sức khỏe con người.
Để hiểu được sự khác nhau giữa cách tiếp cận giá cả và số lượng đối với vấn đề cắt gaim3 ô
nhiễm môi trường, chúng ta xem xét đến “thị trường cắt giảm ô nhiễm” như đã được minh họa
trong hình bên dưới. Trong hình vẽ này, trục hoành đo lường mức độ giảm ô nhiễm được thực hiện
bởi nhà máy thép. Vì thế trục hoành cũng đo lường số lượng ô nhiễm: khi di chuyển sang bên phải
trục hoành, càng cắt giảm ô nhiễm, càng ít ô nhiễm, còn nếu du chuyển về phía bên trái thì ô
nhiễm càng nhiều hơn. R
f
miêu tả mức độ ô nhiễm giảm đến zero, P
f
miêu tả số lượng ô nhiễm tối
đa. Trục tung phản ánh chi phí cắt giảm ô nhiễm của nhà máy thép hoặc lợi ích cắt giảm ô nhiễm
đối với xã hội (đó là, đối với người sản xuất và người tiêu dùng – những người không được bồi
thường vì ngoại tác tiêu cực).
Đường cong MD phản ánh mức tổn thất biên được ngăn chặn bởi sự cắt giảm thêm ô nhiễm.

Điều này đo lường lợi ích biên xã hội của cắt giảm ô nhiễm. Để cho đơn giản, tổn thất biên là
đường thẳng ở mức 100 đôla, nhưng nó có thể dốc đi xuống do bởi lợi nhuận giảm dần. Lợi ích
biên tư nhân của cắt giảm ô nhiễm là zero, vì vậy đường cong lợi ích biên trùng với trục hoành.
Khi đó nhà máy không có lợi từ việc giảm chất thải.
Đường cong PMC phản ánh chi phí biên giảm ô nhiễm của nhà máy. Đường PMC dốc lên trên
bởi vì hiệu suất biên giảm dần của các yếu tố đầu vào này. Chi phí để giảm những đơn vị ô nhiễm
Ngô Đức Chiến Trang 16/24
Tài chính Công
đầu tiên là rất rẻ, chỉ cần siết chặt các con ốc hoặc đặt một bộ lọc rẻ tiền trên đường ống dẫn chất
thải. Những đơn vị ô nhiễm cắt giảm tiếp theo, chi phí sẽ trở nên đắt hơn. Đến khi quá trình sản
xuất hoàn toàn không có ô nhiễm thì chi phí rất lớn. Lúc này, vì không còn ngoại tác (không còn ô
nhiễm/ nhà máy không còn sản xuất), nên PMC cũng là SMC của giảm ô nhiễm.
Pt (giá cả giảm ô nhiễm)
S = PMC = SMC

B MD = SMB

A D = PMB
Qt (số lượng giảm ô nhiễm)
0 R* Rf
Pf P* 0
Hình minh họa: Mô hình cắt giảm ô nhiễm
Kết quả của thị trường tự do trong bất kỳ thị trường nào sẽ là zero giảm ô nhiễm. Bởi vì nhà
máy không gánh chịu giảm ô nhiễm, nên nó không có động lực để cắt giảm ô nhiễm. Nhà máy
chọn lựa mức zero giảm ô nhiễm và P
f
số lượng ô nhiễm (điểm A, tại đó zero PMC bằng với zero
PMB).
Vậy, mức tối ưu của giảm ô nhiễm là bao nhiêu? Mức tối ưu luôn luôn được xác định tại điểm
mà chi phí và lợi ích biên xã hội bằng nhau, ở đây chính là điểm B. Số lượng tối ưu của giảm ô

nhiễm là R
*
: tại số lượng đó, lợi ích biên của giảm ô nhiễm và chi phí biên của giảm ô nhiễm bằng
nhau. Chú ý rằng việc thiết lập số lượng tối ưu của giảm ô nhiễm giống như thiết lập số lượng ô
nhiễm tối ưu. Nếu như kết quả thị trường tự do là 0 giảm ô nhiễm và P
f
ô nhiễm, thì điểm tối ưu là
R
*
giảm ô nhiễm và P
*
ô nhiễm.
Ngô Đức Chiến Trang 17/24
Tài chính Công
3.5.2. Đánh thuế và điều tiết lượng sản xuất
Bây giờ, hãy xem xét cơ chế vận hành của thuế và điều tiết lượng sản xuất trong khuôn khổ
này. Thuế tối ưu bằng với mức tổn thất biên gây ra bởi ô nhiễm, 100 đôla. Trong tình huống này,
chính phủ sẽ đánh một mức thuế 100 đôla trên mỗi đơn vị ô nhiễm mà nhà máy gây ra. Hãy xem
xét quyết định của nhà máy trong điều kiện có thuế. Cứ mỗi đơn vị ô nhiễm gây ra, nhà máy phải
nộp khoản thuế 100 đôla. Nếu như có bất kỳ sự giảm ô nhiễm nào mà nhà máy có thể làm với chi
phí ít hơn 100 đôla và đây là chi phí hiệu quả để giảm ô nhiễm, thì nhà máy sẽ chấp nhận thanh
toán số tiền ít hơn 100 đôla để loại bỏ ô nhiễm. Kế hoạch này hợp lý, nhà máy có động lực giảm ô
nhiễm lên đến mức mà ở đó chi phí giảm ô nhiễm bằng với mức thuế 100 đôla. Đó là nhà máy thép
bước lại gần đường cong chi phí biên của mình, giảm ô nhiễm lên đến mức giảm R
*
ở tại điểm B.
Vượt qua điểm đó, chi phí giảm ô nhiễm vượt quá 100 đôla mà họ trả tiền thuế. Vì vậy, nhà máy sẽ
chọn trả tiền thuế trên mỗi đơn vị ô nhiễm tăng thêm, chứ không phải là giảm ô nhiễm hơn nữa.
Như thế đánh thuế Pigou bằng 100 đôla sẽ đạt được mức độ tối ưu xã hội của giảm ô nhiễm, đúng
như đã phân tích trước đây.

Điều tiết lượng sản xuất hoàn toàn không phức tạp trong mô hình phân tích này. Chính phủ
đơn giản có thể bắt buộc nhà máy thép phải giảm ô nhiễm bằng một số lượng R
*
để đạt được mức
ô nhiễm tối ưu P
*
. Tuy nhiên, điều tiết lượng sản xuất thực tế dường như khó khăn hơn so với
đánh thuế, bởi vì chính phủ cần nhận thức rõ không chỉ hình dạng của đường cong MD mà còn là
hình dạng của đường cong MC nữa. Trường hợp tổng quát hơn là MD có khuynh hướng giảm
xuống, chính phủ cần phải thấy hình dạng cả MC và MD để thiết lập thuế tối ưu hoặc điều tiết
lượng sản xuất tối ưu.
Ngô Đức Chiến Trang 18/24
Tài chính Công
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP ÔN TẬP CHƯƠNG 3
Câu 1:
Ngoại tác là gì? Cho ví dụ minh họa?
Câu 2:
Ngoại tác chỉ gây ra hậu quả tiêu cực. Đúng hay sai? Cho ví dụ minh họa?
Câu 3:
Trình bày nội dung định lý Coase?
Câu 4:
Nêu những hạn chế về giải pháp của định lý Coase?
Câu 5:
Khu vực Công giải quyết vấn đề ngoại tác như thế nào?
Câu 6:
Giải thích tại sao chi phí biên tư nhân (hay lợi ích) khác với chi phí biên xã hội (hay lợi ích) trong
trường hợp có ngoại tác?
Câu 7:
Giả sử chi phí biên tư nhân sản xuất sản phẩm hàng hóa là MC = 10 + 2Q và chi phí ngoại tác biên
liên quan đến sản xuất hàng hóa đó là 10 USD. Chi phí biên tư nhân liên quan đến đơn vị thứ 10

được sản xuất là bao nhiêu? Chi phí biên xã hội liên quan đến đơn vị thứ 10 là bao nhiêu?
Câu 8:
Một sản phẩm có Qd = 1.200 – 4P và Qs = - 200 + 2P. Tổn thất ngoại tác biên của sản phẩm này là
8 USD/đơn vị. Thị trường tự do sản xuất ra những đơn vị này nhiều hơn mức tối ưu xã hội là bao
nhiêu? Tính toán phần tổn thất (DWL) liên quan đến ngoại tác?
Câu 9:
Ngô Đức Chiến Trang 19/24
Tài chính Công
Tổn thất biên tạo ra từ thu dọn ô nhiễm là MD = 200 – 5Q. Chi phí biên liên quan đến thu dọn ô
nhiễm là MC = 10 + Q.
a. Mức tối ưu của giảm ô nhiễm là bao nhiêu?
b. Minh chứng mức giảm ô nhiễm này được đi kèm thông qua đánh thuế. Thuế/đơn vị tạo ra lượng
ô nhiễm tối ưu là bao nhiêu?
Câu 10:
Lợi ích biên liên quan đến tiêu dùng một sản phẩm là PMB = 240 – 2P và chi phí biên tư nhân liên
quan đến sản xuất sản phẩm này là PMC = 4P. Tổn thất ngoại tác biên liên quan đến sản xuất sảm
phẩm này là MD = 2P. Mức đánh thuế tạo ra mức hàng hóa hiệu quả xã hội là bao nhiêu?
Ngô Đức Chiến Trang 20/24

×