Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.69 KB, 102 trang )

Lời Cảm Ơn
Em xin chân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Kinh Tế Quốc
Tế cùng toàn thể các thầy cô giáo trong trường, đặc biệt là thầy giáo
hướng dẫn GS.TS. Đỗ Đức Bình đã tận tình chỉ dậy cho em những kiến
thức cần thết để em có thể hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của
mình.
Tuy đã được sự các thầy cô hết lòng hướng dẫn, chỉ dậy cùng vớI
sự nỗ lực hết mình của bản thân nhưng bài viết cũng không thể tránh
khỏI những sai sót. Mong có sự góp ý của các thầy cô và các bạn để bài
viết này có thể hoàn thiện hợn nữa.
Một lần nữa em xin chân trọng cảm ơn!
Tác giả
1
Lời Cam Đoan
Em xin cam đoan chuyên đề thực tập tốt nghiệp “Giải pháp thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ EU vào Việt Nam gia nhập WTO ”, là
công trình do tự bản thân em thực hiện, không sao chép của bất kỳ một
chuyên đề, tác phẩm nào khác.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả
(ký tên)
2
Lời Nói Đầu
1. Tính tất yếu khách quan của đề tài nghiên cứu
Trong thời đại ngày nay, khi mà sự phát triển như vũ bão của khoa
học công nghệ và công nghệ thông tin, nó đã và đang tạo ra những thuận
lợi khó khăn vô cùng lớn cho các quốc gia trên thế giới. Quá trình
chuyên môn hoá sản xuất diễn ra trên toàn thế giới, một sản phẩm không
phải do một quốc gia sản xuất ra mà có thể do 2 hay nhiều quốc gia sản
xuất ra. Đồng thời, trên thế giới còn xuất hiện nhiều vấn đề mà vượt quá
khả năng của một quốc gia. Tất cả các điều kiện đó là xu hướng tất yếu


dẫn tới sự liên kết của các quốc gia với nhau.
Trong thời gian qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô
cùng lớn trong quá trình hội nhập của mình. Năm 2006 với việc tổ chức
thành công hội nghị APEC thứ 14 và gia nhập tổ chức thương mại thế
giới WTO đã đưa Việt Nam lên một vị thế mới. Hiệu ứng từ việc gia
nhập WTO đã thúc đẩy nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam tương đối
mạnh trong thời gian qua. Đây là điều thuận lợi cho Việt Nam.
Năm 1987 với sự kiện Luật đầu tư trục tiếp nước ngoài tại Việt
Nam được ban hành đánh đấu quá trình mở cửa nền kinh tế đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Nguồn vốn FDI đóng vai
trò quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Việt
Nam cũng phải lựa chọn nguồn vốn đầu tư cho mình nếu không muốn
trở thành bãi rác thải công nghiệp của thế giới. Do đó, Việt Nam đã xác
định ưu tiên cho những nguồn vốn của nước có công nghệ nguồn như
EU, Mỹ, Nhật.
3
Quan hệ Việt Nam – EU được bắt đầu từ năm 1987, đây là mối
quan hệ đã được Đảng và nhà nước ta xác định ngay từ đầu là rất quan
trọng.
Xuất phát từ sự bất hợp lý về nguồn vốn FDI từ EU vào Việt Nam,
không tương xứng với tiềm năng của 2 phía (trong so sánh hoạt động ĐT
của Eu vào các nước Đông Bắc Á và các nước ASEAN khác) và chủ
trương tăng cường tìm kiếm công nghệ nguồn của Chính phủ từ EU. Tôi
chọn đề tài: “Thu hút ĐTTTNN của EU vào Việt Nam” để nghiên cứu
nhằm góp phần tìm hiểu thực trạng trên và đưa ra một số giải pháp nhằm
tăng cường lượng vốn FDI từ EU, phục vụ việc tiếp cận công nghệ sản
xuất, phương pháp quản lý hiện đại, hiệu quả tạo điều kiện đẩy nhanh tốc
độ công nghiệp hoá - hiện đạI hoá nền kinh tế, giúp chúng ta có thể đạt
được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, giảm dần khoảng cách
quá xa về phát triển kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế

giới.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng ĐTTTNN từ EU vào Việt Nam
qua các giai đoạn từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao khả năng
thu hút và sử dụng nguồn vốn này vào trong nước trong điều kiện Việt
Nam là thành viên của WTO phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội của Đảng và nhà nước đã đề ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng FDI của EU
vào Việt Nam.
4
- Đánh giá thực trạng của hoạt động FDI của EU trên góc độ thời
gian, không gian, tác động của nó tới quá trình phát triển kinh tế xã hội
của nước ta từ 1987 – 2006.
- Triển vọng đầu tư của EU vào Việt Nam khi Việt Nam là thành
viên của WTO.
-Một số nhân tố tác động đến FDI của Eu tại Việt Nam và một số
giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dược nghiên cứu chủ yếu bằng phương pháp hệ thống,
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so sánh,
phương pháp chuyên gia, phương pháp thực nghiệm, …
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Đề tài cho ta những lý luận chung về thu hút FDI
- Quá trình hình thành và phát triển của EU.
- Đề tài đã cho ta thấy được thực trạng FDI của EU vào Việt Nam
từ 1988 đến nay. Đặc biệt có sự phân giai đoạn tước và sau khi EU mở
rộng từ EU – 15 đến EU – 27. Từ đó, cho thấy rõ tác động của việc các
nước Trung và Đông Âu gia nhập đến FDI của EU vào Việt Nam như
thế nào.

- Đồng thờI cho thấy tác động của việc Việt Nam là thành viên
của WTO đến nguồn vốn FDI của EU vào VIệt Nam.
6. Kết cấu của đề tài
5
Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI)
Chương 2: Thực trạng thu hút FDI từ EU vào Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp
6
Bảng Các Chữ Viết Tắt
Chữ viết
tắt
Viết đầy đủ Nghĩa tiếng Việt
APEC
ASEAN The Sound East Asia
Nations
Hiệp hộI các nước Đông Nam
Á
BCHTW Ban chấp hành Trung Ương
BOT Build – Operate -
Transfer
Xây dựng - vận hành - chuyển
giao
BTO Build – Transfer -
Operate
Xây dựng - chuyển giao - vận
hành
BT Build – Operate Xây dựng - chuyển giao

ĐCSVN Đảng cộng sản Việt Nam
ĐTTTNN Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI Foreign Direct
Investment
Đầu tư nước ngoài trực tiếp (từ
nước ngoài vào trong nươ)
EU Eropean Union Liên minh Châu Âu
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
HN Hà NộI
NSNN Ngân sách nhà nước
NXB Nhà xuất bản
M&A Mua lạI và sáp nhập
ODA Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
TH Thực hiện
UNESCO The United Nations
Educational Scientific
Cultural Organization
Tổ chức văn hoá, giáo dục và
khoa học của Liên hop quốc
USD The United State of
Dollars
Đồng Đô la Mỹ
VĐK Vốn đăng ký
VPĐ Vốn pháp định
VTH Vốn thực hiện
WTO The World Trade Tổ chức thương mạ thế giới
7
Organization

8
Chương 1:
Lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1 Các khái niệm và các hình thức FDI
1.1.1 Các khái niệm
Đầu tư là tập hợp các hoạt động bỏ vốn và sử dụng vốn theo một
chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian tương đối
dài nhằm thu được lợi ích lớn hơn cho các nhà đầu tư, cho xã hội và cho
cộng đồng.
Dự án đầu tư là tập hợp những ý kiến, đề xuất về việc bỏ vốn đầu tư
vào một đối tượng nhất định và giải trình kết quả thu được từ hoạt động
đầu tư.
Việc các nhà đầu tư ở quốc gia này bỏ vốn vào các quốc gia khác
theo một chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian
dài nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị trường và mang lại lợi ích lớn hơn
cho chủ đầu tư và cho xã hội được gọi là đầu tư quốc tế hay đầu tư nước
ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong 2 loại hình đầu tư
quốc tế. Việc quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều cách
khác nhau tuỳ thuộc vào góc độ họ nhìn nhận. Ở Việt Nam, đầu tư trực
tiếp nước ngoài được hiểu là việc di chuyển vốn dướI dạng tiền và tài
sản từ nước này sang nước khác để thu lợi nhuận. Các quy định về thu
hút đầu tư là sự thể chế hoá các quy định của chính phủ.
Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ra đời lần đầu năm 1987 tại
khoản 3 điều 2 quy định “đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân
9
nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận
để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên
doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này
”.

Thực tế quan niệm này liên tục được sửa đổi, bổ sung để phù hợp
với tình hình thực tế của đất nước trong từng thời kì, đồng thời phù hợp
với các cam kết quốc tế. Luật đầu tư năm 2005 quy định (khoản 3) đầu
tư là việc các nhà đầu tư bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để
hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật
này và các quy định của pháp luật có liên quan. Đầu tư trực tiếp là hình
thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động
đầu tư.
Dự án FDI là các dự án đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân ở
nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ở
nước tiếp nhận đầu tư (nước sở tại) bỏ vốn đầu tư, trực tiếp quản lý và
điều hành để thu lợi trong kinh doanh.
Các đặc trưng cơ bản của dự án FDI:
- Các dự án FDI là một dự án đầu tư, nên nó cũng mang đầy đủ các
đặc trưng cơ bản của một dự án đầu tư nói chung. Đó là:
+ Đầu tư là hoạt động bỏ vốn, nên quyết định đầu tư thường là
quyết định tài chính.
+ Đầu tư là hoạt động lâu dài (chiến lược).
+ Đầu tư luôn luôn có chi phí và kết quả.
+ Đầu tư là hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài.
+ Đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
- Ngoài các đặc trưng trên, các dự án FDI còn có các đăc trưng
riêng có. Đó là:
10
+ Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc tự mình quản lý,
điều hành đối tượng bỏ vốn.
+ Các bên tham gia vào dự án FDI có quốc tịch khác nhau, đồng
thời thường sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
+ Dự án chịu sự chi phối đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật.

+ Có sự gặp gỡ giữa các nền văn hoá khác nhau trong quá trình hoạt
động của dự án.
+ Các dự án FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức đầu tư
có tính đặc thù.
+ Hầu hết các dự án FDI đều gắn với quá trình chuyển giao công
nghệ với nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
“Cùng có lợi” được các bên coi là phương châm chủ đạo, nguyên
tắc cơ bản để giải quyết quan hệ giữa các bên trong mọi giai đoạn.
1.1.2 Các hình thức đầu tư của dự án FDI
Trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi bổ sung 2001)
qui định:
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do
nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
- Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều
bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc
hiệp định ký giữa chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam và chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do
doanh nghịêp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở
hợp đồng liên doanh.
11
- Hợp đồng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là hình thức đầu tư
được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây
dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhầt
định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó
cho nhà nước.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là hình thức
hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà
đầu tư chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam; Chính phủ

dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian
nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là hình thức được ký kết
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao
công trình đó cho nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà
đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư hoặc thanh toán cho
nha đầu tư nước ngoài theo thoả thuận của hợp đồng BT.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng và tác động của thu hút đầu tư trực
tiếp đến nước nhận đầu tư
1.2.1 Các tác động của FDI
1.2.1.1Tác động tích cực
Thứ nhất: Việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp
tiếp nhận công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.Các nước
đang phát triển thường thiếu và yếu về công nghệ hiện đại. Quá trình di
chuyển vốn đầu tư của các công ty xuyên quốc gia cũng như của các nhà
12
đầu tư nước ngoài được chuyển giao vào trong nước. Các loại công nghệ
nguồn và công nghệ trung gian được chuyển giao vào các nước đang
phát triển bao gồm: công nghệ khai thác tài nguyên, công nghệ lắp ráp,
công nghệ chế biến thực phẩm, công nghệ cung cấp dịch vụ về ngân
hàng, … Cùng với công nghệ hiện đại là kinh nghiệm quản lý tiên tiến
như các kỹ năng quan trọng như kỹ năng quản trị marketing, tài chính,
nhân sự, kỹ năng điều hành sản xuất, kỹ năng hoạch định chiến lược, …
Thứ hai: Tăng cường nguồn vốn nước ngoài và cải thiện cán cân
thanh toán. Nguồn vốn này giúp tăng lượng giá trị trong nền kinh tế, góp
phần cải thiện cán cân thanh toán. Đồng thời, nó giúp cho việc khai thác
và sử dụng các nguồn lực trong nước một cách có hiệu quả hơn.
Thứ ba: Tạo công ăn việc làm cho người lao động giúp giảm bớt nạn thất
nghiệp trong nước. Cùng với việc di chuyển các nguồn vốn vào trong

nước các công ty đa quốc gia cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đó là: xây dựng nhà
máy, mở các chi nhánh phân phốI sản phẩm,… Đồng thờI vớI các hoạt
động đó là họ tiến hành tuyển lao động và tổ chức đào tạo các kỹ năng
cho người lao động. Từ đó giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động.
Thứ năm: Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Vốn đầu tư
và công nghệ di chuyển vào trong nước là điều kiện để khai thác và sử
dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, thị
trường trong nước,… Và đây cũng là yếu tố giúp phân bổ các nguồn lực
hiệu quả và hợp lý, theo hướng phát triển mạnh các ngành có thế mạnh,
có lợi thế.
Thứ sáu: Cùng với việc đầu tư vào trong nước tiếp nhận đầu tư các nhà
đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện cho các nước này tiếp cận mạng lưới
13
phân phối rộng khắp của mình trên thế giới. Từ đó, giúp mở rộng thị
trường xuất khẩu cho các sản phẩm trong nước.
1.2.1.2 Tác động tiêu cực
Thứ nhất: Nó tạo ra sự phụ thuộc về vốn và công nghệ nước ngoài.
Các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài do tư nhân thực hiện vì mục
đích lợI nhuận. Nên nước tiếp nhận không no bị phụ thuộc về mặt chính
trị như nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, khi có biến động về chính trị, do sự
trì trệ kinh tế,… có thể dẫn đến sự rút vốn hàng loạt của các nhà đầu tư
nước ngoài, làm sụt giảm khá lớn lượng vốn đầu tư, làm giảm khá lớn
tăng trưởng kinh tế, thậm chí có thể dẫn đến khủng hoảng và làm phá sản
hành loạt doanh nghiệp.
Thứ hai: Tạo ra sự chuyển dịch xấu về cơ cấu kinh tế và môi
trường. Như là nhà đầu tư thường chú trọng đầu tư các ngành có lợi
nhuận cao. Trong khi đó các nhà họach định chính sách mong muốn thu
hút đầu tư vào các ngành có lợi thế so sánh, những vùng có trình độ phát

triển thấp song điều này không phải bao giờ cũng được các nhà đầu tư
chấp thuận. Trong nhiều trường hợp công nghệ chuyển giao là những
công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Thứ ba: Gây ra những ảnh hưởng không tốt về mặt xã hội. Các nhà
đầu tư đến đem theo cả lối sống và phong cách của nước họ đến nước
tiếp nhận đầu tư và điều này có thể gây ra những tác động xấu đến văn
hoá dân tộc, phá vỡ câc chuẩn mực xã hội trước đây…Trong nhiều
trường hợp các nhà đầu tư còn có những tác động nhất định trong việc
hình thành tác phong công nghiệp và phát triển cộng đồng. Mặt khác, nó
còn có thể tạo ra các sung đột giữa các nhà đầu tư, giữa công nhân và
ngườI chủ,… gây ra những bất ổn về mặt xã hội.
14
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng
1.2.2.1 Những nhân tố thuộc về phía Việt Nam
Việt Nam luôn coi EU là một đối tác chiến lược của mình, là một
đối tác quan trọng để thu hút công nghệ nguồn, tiếp thu kinh nghiệm
quản lý tiên tiến,… góp phần nâng cao hiệu ứng đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện, đại hoá đất nước. Trong
thời gian qua chúng ta đã có nhiều biện pháp và chính sách nhằm thu hút
nguồn vốn từ đối tác này, như việc ban hành luật đầu tư luật doanh
nghiệp thống nhất có hiệu lực ngày 1/7/2006, hệ thống chính sách đầu tư
không ngừng được cải thiện theo hướng minh bạch hoá, thông thoáng và
thuận lợi cho nhà đầu tư…
Đảng và nhà nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với việc
tham gia vào AFTA, ASEAN, APEC, đặc biệt là thành viên thứ 150 của
tổ chức thương mạI thế giớI WTO… đã và đang tạo hành lang để thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài của tất cả các nước trên thế giới.
Trong đó, Việt Nam luôn coi EU là một đối tác quan trọng hàng đầu của
mình. Do vậy, các nguồn vốn từ EU vào Việt Nam luôn được hưởng
những chế độ ưu tiên ưu đãi và tạo điều kiện để dự án được triển khai và

thực hiện đạt kết quả tốt. Trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng
của Việt Nam ổn định trung bình từ 7 - 8% một năm. Tốc độ tăng trưởng
cao thể hiện một môi trường đầu tư thuận lợi ổn định, việc sử dụng vốn
đầu tư đạt
1.2.2.2 Các nhân tố thuộc về phía EU
EU là một đối tác có công nghệ nguồn mà Việt Nam mong muốn
thu hút được nguồn vốn này. Tuy nhiên, xét về tổng vốn đầu tư cũng như
lượng vốn trên một dự án của EU vào Việt Nam so với Singapo, Hong
kong, Nhật Bản hay Hàn Quốc thì không cao. Điều này khác hẳn trong
15
quan hệ của EU với các nước ASEAN khác. Thí dụ EU là đối tác đầu tư
lớn nhất vào Inđonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore…
Trong số các nước và vùng lãnh thổ có vốn FDI vào Việt Nam thì
FDI của EU được đánh giá là rất hiệu quả nếu dựa theo tiêu chí quy mô
số vốn/dự án. Tuy nhiên, nhìn chung các nhà đầu tư EU vẫn chưa coi
Việt Nam là một địa điểm đầu tư trọng điểm,nhất là khi so sánh với
Trung Quốc và một số nước kể trên. Dường như đầu tư của EU tại Việt
Nam mang tính thăm dò, giữ chỗ, các nhà đầu tư Châu Âu chưa thực sự
có kế hoạch dài hạn tại Việt Nam. Thực tế các hoạt động của các doanh
nghiệp có vốn FDI của EU cho thấy rằng các nhà đầu tư này rất quan
tâm khai thác thị trường nội địa của Việt Nam như tập đoàn Unilever
Việt Nam có hệ thống phân phối rộng khắp cả nước bao gồm 350 nhà
phân phối và hơn 150.000 đại lý bán lẻ, đạt doanh thu 22.000 tỷ đồng;
công ty bảo hiểm Prudential đã thành lập 70 trung tâm và điểm phục vụ
cho hơn 2 triệu khách hàng tại 50 tỉnh và thành phố trong cả nước …
Cũng vì vậy mà EU không quan tâm đến việc xây dưng các nhà
máy phụ trợ tại Việt Nam để phục vụ vho việc sản xuất hàng hoá đặc
biệt là hàng hoá xuất khẩu. Và khi yếu tố nội địa vẫn có tính quyết định
trong phân bổ đầu tư thì Việt Nam sẽ bị yếu thế hơn so với các nước
khác.

Tiềm năng đầu tư của EU vào Việt Nam là rất lớn nhưng tỷ trọng
đầu tư thực tế vào Việt Nam lại rất thấp. Năm 2001 chiếm 39% tổng số
vốn đầu tư vào Việt Nam, năm 2002 là 3%; 2004 là 2,23%; năm 2005 là
13,8% . Điều này do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do nền kinh tế của các nước EU trong giai đoạn 2001 -
2003 có xu hướng giảm sút và duy trì tăng trưởng ở mức rất thấp. Trong
2 năm 2004 và 2005, mức tăng trưởng mặc dù đã cao hơn trước nhưng
chưa thực sự cho thấy dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Theo các chuyên gia,
16
nền kinh tế các nước EU thời gian qua phải đối mặt với nhiều khó khăn,
trong đó có một số khó khăn chủ yếu là: thị trường chứng khoán châu
Âu vỡ bong bóng, giảm giá khoảng 50%; các khoản phúc lợi xã hội cao;
đồng EURO tăng giá mạnh so với các ngoại tệ khác đã làm hạn chế khả
năng kinh doanh và góp phần làm cho thị trường thất nghiệp tăng. Mặc
dù EU đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp nhưng kết quả mới
chỉ là bước đầu. Do kế hoạch mở rộng EU đòi hỏi các khoản chi rất lớn
để giúp các thành viên mới gia nhập đạt mức tăng trưởng phù hợp với
yêu cầu của EU. Điều này tác động mạnh đến lượng FDI của các nước
EU.
Thứ hai, do chính sách mở rộng của liên minh châu Âu EU phải
dành 70 tỷ EURO trong giai đoạn 2002 - 2006 để hỗ trợ cho các chương
trình trước và sau hội nhập.
Thứ ba, EU là đối tác làm ăn có kinh nghiệm và thận trọng phần
nào họ đang theo dõi tiến trình đàm phán để gia nhập WTO và những
thay đổi trong các biện pháp và chính sách của Việt Nam. Và cuốI năm
2006, đầu năm 2007 các nhà đầu tư của EU đã đầu tư mạnh mẽ vào Việt
Nam, với những dự án quy mô lớn hơn, nó đã thể hiện hiệu quả cao. Đó
chính là nguyên nhân kéo nguồn vốn FDI chảy mạnh vào Việt Nam, nơi
có tỷ suất đầu tư lợi nhuận cao.
Môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng được cải thiện, chính

trị ổn định, an ninh đựơc đảm bảo. Tuy nhiên, lực lượng lao động ở Việt
Nam có nhiều dồi dào nhưng lao động tay nghề cao lại thiếu. Mà các nhà
đầu tư EU khi đầu tư ra nước ngoài với mục tiêu là tận dụng nguồn lao
động với chất lượng cao giá thành rẻ. Vì vậy, muốn thu hút được nhiều
hơn nữa nguồn vốn từ đối tác này Việt Nam phải quan tâm đào tạo phát
triển nguồn nhân lực của mình. Hoạt động xúc tiến đầu tư đã được triển
khai ở nhiều ngành nhiều cấp, trong nước và ngoài nước như việc tổ
17
chức thành công diễn đàn hợp tác đầu tư và triển lãm đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã cung cấp thông tin về môi trường đầu tư Việt Nam nhằm
thu hút đầu tư nước ngoài… Các địa phương cũng chủ động các cuộc
vận động và hội nghị xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. Các hoạt động
đó đã thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, Việt Nam lại chưa có
một cơ quan xúc tiến đầu tư nào ở EU.
Thị trường tài chính, thị trường vốn đã và đang có những bước
phát triển mạnh mẽ. Đến nay, các sản phẩm tài chính cơ bản đã xuất
hiện, khu vực bảo hiểm đã có sự tham gia tích cực của các tổ chức cung
cấp dịch vụ bảo hiểm trong và ngoài nước, thị trường chứng khoán đã
hình thành và phát triển mạnh mẽ. Cùng với việc cải cách hệ thống tài
chính, thị trường vốn đã và đang trở thành nơi cung cấp vốn đầu tư dài
hạn có hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên, thị trường vốn ở nước ta vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu cung cấp vốn cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
Việt Nam ký nhiều hiệp định và đã ký hiệp định khung với EU tạo
hành lang pháp lý cho nhà đầu tư EU khi đầu tư vào thị trường Việt
Nam. Đặc biệt, vào tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã là thành viên thứ
150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Với sự kiện này nó đã tạo ra
thế và lực mới cho Việt Nam, nó đã và sẽ tạo ra một làn sóng đầu tư lớn
từ nước ngoài vào nước ta.
Nước ta đã xây dựng được khu công nghiệp khu chế xuất nó đã

tạo ra một cơ sở hạ tầng hiện đại, phần nào đáp ứng được yêu cầu của
nhà đầu tư nước ngoài nhưng do các nhà đầu tư EU quan tâm nhiều hơn
vào thị trường nội địa nên họ chưa thực sự quan tâm đến khu công
nghiệp khu chế xuất của Việt Nam. Vấn đề tham nhũng cũng là một vấn
đề gần đây của Việt Nam cần được giải quyết triệt để vì nó gây ra tâm lý
18
không tin tưởng vào sự ổn định chính trị lâu dài của chính trị và an ninh
quốc gia của các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và của EU nói riêng.
Về mặt các chính sách của chính phủ thì rõ ràng và ổn định trong
các giai đoạn dài nhưng các chính sách ngắn hạn của Việt Nam thì
thường xuyên thay đổi đã gây ra tâm lý dè chừng, đứng ngoài quan sát,
đầu tư thăm dò của các nhà đầu tư EU. Tuy nhiên, điều này đang được
Chính phủ hết sức quan tâm.
Ngoài ra, Việt Nam có vị trí thuận lợi trong khu vực Đông Nam
Á, tài nguyên thiên nhiên phong phú… cũng là một điểm hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài.
1.2.2.3 Những nhân tố trên thế giới tác động đến đầu tư trực tiếp
(FDI) từ EU vào Việt Nam
Thứ nhất, là phải kể đến sự tăng trưởng kinh tế chung của thế giới,
nếu tốc độ tăng trưởng ổn định sẽ tác động làm cho nguồn vốn FDI tăng
lên và ngược lại với tốc độ tăng trưởng thấp không ổn định sẽ làm hạn
chế nguồn vốn FDI. Đặc biệt là sự tăng trưởng của ba trụ cột kinh tế thế
giới Mỹ, EU, Nhật. Nó sẽ tạo ra động lực cho kinh tế thế giới tăng
trưởng nếu nó có sự tăng trưởng tốt. Ví dụ: trong giai đoạn 2001 - 2003
do vốn FDI sụt giảm là do kinh tế thế giới tăng trưởng thấp đến năm
2003 dần lấy lại đà tăng trưởng nhưng chưa thực sự mạnh mẽ trong giai
đoạn này cả ba nền kinh tế trụ cột của thế giới đều gặp phải hàng loạt các
vấn đề nên đều trải qua thời kỳ phát triển không vững chắc và không tạo
đựơc đà thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển.
Thứ hai, là do tình hình an ninh chính trị trên thế giới: nếu vấn đề

an ninh và nguy cơ bất ổn thấp từ đó mới tạo đựơc tâm lý an toàn cho
nhà đầu tư thì họ mới quyết định bỏ vốn đầu tư và ngược lại. Bởi lẽ hoạt
động đầu tư là hoạt động đòi hỏi nguồn vốn lớn, phải có thời gian lâu dài
19
mới mong thu được lợi nhuận, do vậy nó chịu sự tác động của rất nhiều
yếu tố khác nhau.
Thứ ba, là luồng vốn FDI là một trong những vấn đề mà bất cứ
một quốc gia nào cũng quan tâm mong muốn thu hút được nhiều nguồn
vốn FDI. Do vậy, họ đều có những chính sách và biện pháp ưu đãi
khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã tạo ra sự cạnh
tranh gay gắt giữa các quốc gia để giành giật nguồn vốn này. Ở khu vực
Châu Á Thái Bình Dương sự cạnh tranh này trở nên gay gắt hơn sau
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Thứ tư, do chiến lược phát triển của các công ty xuyên quốc gia
trong từng giai đoạn cụ thể. Ví dụ trong giai đoạn 2000 - 2001 nguồn
vốn đầu tư trên thế giới giảm một phần là do việc các hoạt động M&A
trong những năm này giảm cả về số lượng và giá trị. Ở những năm này
các công ty xuyên quốc gia phải tập trung vào thực hiện việc cải cách
các hoạt động, cải tổ cơ cấu để nâng cao sức cạnh tranh và xu hướng chủ
yếu là các công ty xuyên quốc gia giảm bớt các hoạt động đầu tư mới
thông qua M&A với mục đích mở rộng thị trường.
1.3 Kinh nghiệm của các nước trong việc thu hút và sủ dụng
nguồn vốn FDI của EU
1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Kể từ năm 1979 nền kinh tế Trung Quốc mở cửa, Trung Quốc đã
đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế luôn đạt một mức tăng
trưởng kinh tế cao khoảng 9% . Một trong những lý do giúp nền kinh tế
Trung Quốc đạt được những thành tựu đó một phần đáng kể là do nguồn
vốn FDI mà Trung Quốc đã thu hút được. Nguồn vốn này đã đóng vai

20
trò quan trọng bổ sung và thúc đẩy kinh tế phát triển. Sau gần 20 năm cải
cách và mở cửa tính đến cuối năm 2001, Trung Quốc đã cấp phép cho
hơn 411.495 dự án có vốn FDI, với tổng số vốn cam kết là 807,6 tỷ USD
và số vốn giải ngân là 429,64 tỷ USD (theo con số thống kê của
MOFTEC) Trung Quốc luôn nhận được nguồn vốn FDI lớn nhất trong số
các nước đang phát triển kể từ năm 1993. Theo các chuyên gia Trung
Quốc kể từ khi bắt đầu cải cách mở cửa FDI của Trung Quốc tính theo
tài sản cố định trong tổng vốn đầu tư chiếm khoảng 7%. Trong giai đoạn
từ năm 1979 - 2003, tổng đầu tư tính theo tài sản cố định đã đóng góp
hơn 40% cho tăng trưởng kinh tế, trong đó hơn 5% là đóng góp trực tiếp
của đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Thành công về thu hút FDI của Trung Quốc là do quan điểm nhất
quán rõ ràng kiên quyết thực hiện các chính sách thông thoáng về cải
cách, mở cửa và chủ động sử dụng vốn nước ngoài một cách hợp lý hiệu
quả. Đặc biệt, sau chuyến “ công du” của Đặng Tiểu Bình năm 1992 đã
tạo ra một bức ngoặt lớn cho nguồn vốn FDI chảy vào Trung Quốc. Năm
2002 Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành nước nhận FDI nhiều nhất
trên thế giới. Trung Quốc luôn chú trọng đúng mức vào các nguồn vốn
đến từ những nước có công nghệ nguồn như EU, Mỹ, Nhật. Chỉ tính
riêng Quần đảo Virgin thuộc Anh, Anh, Đức, Pháp đã có 12356 dự án
(chiếm 8,08% ), vốn thực hiện đạt hơn 4 tỷ USD (chiếm10,02%) (theo số
liệu của MOFTEC) trong năm 2001.
Trung Quốc đã chia thành 3 giai đoạn để thực hiện mục tiêu thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Giai đoạn 1: Từ 1979 - 1991 là giai đoạn thử nghiệm các nguồn
đầu tư nước ngoài chỉ đóng vai trò bổ sung cho hình thức vay nước
ngoài cho việc cung cấp ngoại tệ cho nhu cầu phát triển đất nước.
21
Giai đoạn 2: Từ năm 1992 - 2000 là giai đoạn tiếp nhận đầu tư

nước ngoài qui mô lớn và có hệ thống, FDI là hình thức chủ yếu.
Giai đoạn 3 : Từ 2001 đến nay, Trung Quốc thực hiện chính sách
toàn diện thu hút đầu tư nước ngoài đa lĩnh vực đa thành phần.
Trong những năm thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Trung Quốc thì cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự
chuyển biến theo chiều hướng phù hợp với xu hướng phát triển của đất
nước đó là từ việc ưu tiên cho các ngành công nghiệp chế biến sáng ưu
tiên đầu tư cho ngành công nghiệp cơ bản và cơ sở hạ tầng cũng như
ngành công nghệ cao, công nghệ mới. Năm 2001, đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào ngành chế tạo 3,907tỷ USD tương đương với 66% tổng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư
giữa các vùng miền của Trung Quốc có sự mất cân đối lớn. FDI chủ yếu
tập trung ở các tỉnh miền duyên hải phía đông mầu mỡ và thuận lợi. Đây
cũng là một chiến lược của chính phủ Trung Quốc họ muốn thu hút đầu
tư vào theo kiểu cuốn chiếu từ ngoài vào trong đại lục. Từ năm 1999
Trung Quốc bắt đầu có những khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài vào vùng miền trung và miền tây kém phát triển nên kết quả không
được như ý muốn.
Về nguồn vốn đầu tư FDI hơn 60% vốn đầu tư FDI vào Trung
Quốc và của Hoa Kiều từ Hong Kong, Đài Loan, Singapore. Trung Quốc
đã phát huy tốt được nguồn lực Hoa kiều trên thế giới phục vụ cho mục
tiêu phát triển kinh tế đất nước đồng thời thông qua đó kéo các nhà đầu
tư nước ngoài đến với mình. Đến tháng 8 năm 2002 đã có 180 nước và
vùng lãnh thổ đầu tư vào Trung Quốc trong đó Hông Kông chiếm
47,32% tổng vốn đầu tư FDI. Đặc biệt Trung Quốc thu hút được 400
trong số 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới bỏ vốn vào những
22
ngành công nghiệp quan trọng: sản xuất ôtô, chế tạo máy, điện tử viễn
thông… các công ty lớn như Siemens, Ericsson, Motorola…
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều giống nhau về cơ cấu đầu tư mất

cân đối giữa các vùng miền ở Việt Nam tập trung ở thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội và các vùng phụ cận. Giống nhau về nguồn vốn, cả hai
nước đều có danh sách 10 nước đầu tư lớn nhất nhưng khác nhau về thứ
tự.
Bảng 1: Thứ tự 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam và Trung
Quốc
STT Việt Nam Trung Quốc
1 Singapore Hồng Kông
2 Đài Loan Mỹ
3 Nhật Bản Nhật
4 Hàn Quốc Đài Loan
5 Hồng Kông Singapore
6 Pháp Đảo Virgin
7 Đảo Virgin (thuộc Anh) Hàn Quốc
8 Anh Anh
9 Nga Đức
10 Mỹ Pháp
Theo bảng trên ta thấy đặc điểm của Việt Nam và Trung Quốc rất
tương đồng về mức độ các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của
các nhà đầu tư nước ngoài.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu ở Trung Quốc
là liên doanh, 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh
(BOT). Vào thời kỳ đầu Trung Quốc hạn chế ở hình thức 100% vốn nước
ngoài và yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài muốn gia nhập thị trường phải
thành lập liên doanh với các nhà doanh nghiệp Trung Quốc. Nhưng đến
23
năm 1990, Trung Quốc đã cho phép thành lập các doanh nghiệp 100%
vốn đầu tư nước ngoài, ngoài ra Trung Quốc còn cho phép đầu tư gián
tiếp khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia quá trình cải cách
doanh nghiệp nhà nước, cho phép họ trở thành cổ đông của những doanh

nghiệp nhà nước then chốt. Từ năm 1992, bên cạnh cổ phiếu loại A
(chứng khoán nội tệ) Trung Quốc đã thiết lập thị trường cổ phiếu loại B
(chứng khoán ngoại tệ), cho phép các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh
chứng khoán, đồng thời doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Từ năm 1995 Trung Quốc cho
phép thành lập các công ty quản lý tài chính và đến năm 2002 bắt đầu thí
điểm các hình thức đầu tư mới như quĩ đầu tư mạo hiểm quĩ tương hỗ.
Trong khi đó ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có các hình thức đầu tư là
liên doanh, 100% vốn nước ngoài, BOT, các hình thức đầu tư gián tiếp
thì mờ nhạt, chưa phát triển và giai đoạn đầu chủ yếu là liên doanh với
doanh nghiệp nhà nước mà vốn góp chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất
nên hiệu quả không cao.
Một trong những yếu tố hàng đầu tiên quyết dẫn đến thành công
trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là do Trung Quốc có sự
thống nhất cao về quan điểm, kiên trì thực hiện các chính sách cải cách
mở cửa nhất quán, rõ ràng, thông thoáng và chủ động sử dụng vốn nước
ngoài một cách hợp lý và hiệu quả. Trung Quốc đã thực sự coi đầu tư
nước ngoài là một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển, chính
phủ Trung Quốc có những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ngày
càng thông thoáng và thống nhất được quan điểm này từ trung ương đến
địa phương. Về cơ bản, khuyến khích pháp luật về đầu tư nước ngoài ở
Trung Quốc được thiết lập trên cơ sở 3 đạo luật qui định về đầu tư nước
ngoài: Luật liên doanh nước ngoài, Luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh
với nước ngoài, Luật doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong thời
24
gian gần đây Trung Quốc đã có những sửa đổi hết sức thông thoáng như
chính phủ Trung Quốc cho phép các doanh nghiệp liên doanh và 100%
vốn nước ngoài không còn phải báo cáo kế hoạch sản xuất và điều hành
với các cơ quan liên quan; Trung Quốc xác định rõ phạm vi được phép
của đầu tư nước ngoài có thể tham gia thông qua việc phân chia ngành

nghề đầu tư thành 4 loại: khuyến khích, được phép, hạn chế, cấm; Chính
phủ ban hành hướng dẫn đầu tư nước ngoài trong đó bao gồm nhiều dự
án khuyến khích liên quan đến tự do hoá lĩnh vực dịch vụ, bao gồm hoạt
động ngân hàng bảo hiểm, thương mại, ngoại thương, du lịch, truyền
thông, vận tải, các dịch vụ về kế toán là lĩnh vực trước đây bị hạn chế;
khuyến khích đầu tư vào các vùng khó khăn được hưởng chính sách thuế
ưu đãi hơn trong 10 năm sau khi bắt đầu dự án đầu tư; khuyến khích nhà
đầu tư tham gia vào quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước bằng cách
chính phủ dự định sẽ bán một phần cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà
nước trong vòng 5 năm tới để đẩy mạnh việc tái cơ cấu các doanh nghiệp
nhà nước…
Với các chinh sách như thế Trung Quốc đã thu hút và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn này, các dự án đầu tư FDI đi vào hoạt động đã thu
hút 23 triệu lao động chiếm 10% lực lượng lao động thành thị. Hàng
năm đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, năm 2001 thu hút từ
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2001 tăng với tốc độ
30,04% so với năm 2002 và luôn luôn cao hơn 1,5 đến 2 lần tốc độ tăng
thu ngân sách của cả nước. Tổng thu ngân sách từ các doang nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài từ chỗ chỉ chiếm 4,25% tổng thu ngân sách năm
1992 đã tăng lên 19,01% tổng thu ngân sách của cả nước năm 2001.
Tổng giá trị xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
cũng liên tục tăng trong thời gian qua. Năm 2001, giá trị xuất nhập khẩu
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 259,098 tỷ USD, với
25

×