Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng ở Việt nam, Cơ hội và thách thức doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.47 KB, 58 trang )

15.10.2008

1
TẬP HUẤN TCTY GIAY VỀ QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG VÀ CHỨNG CHỈ RỪNG
PHU THO , 27 / 11 / 2008







Quản lý rừng bền vững
và chứng chỉ rừng ở Việt nam,
Cơ hội và thách thức
***






























15.10.2008

2




Quản lý rừng bền vững (QLRBV)


TÓM TẮT

Giai đoạn 2000-2008 ,hoạt động của Tổ công tác quốc gia (NWG), nay là Việnquản lý
rừng bền vững và chứng chỉ rừng (SFMI) nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV ở Việt nam đã thu
được một số kết quả đáng kể, đó là đã dự thảo bộ tiêu chuẩn QLRBV quốc gia, khảo sát áp
dụng thử, đánh giá mức độ mạnh yếu của công tác quản lý rừng đối với các chủ rừng nhà

nước, tư nhân nhằm lập kế hoạch xây dựng mạng lưới các khu rừng quản lý tốt.

SFMI cũng đã tổ chức nhiều hội thảo, diễn đàn truyền thông để giúp lãnh đạo các
tỉnh, các lâm trường và các ngành khác am hiểu về phong trào QLRBV và CCR trên thế giới
và tại Việt nam. Bản thân SFMI cũng tự củng cố mở rộng, gia nhập FSC quốc tế và xây dựng
năng lực để tiếp tục các hoạt động tốt hơn, nhanh hơn, đặc biệt từ 2006 khi 1 doanh nghiẹp
trồng rừng đầu tiên ở Quy Nhơn Việt Nam được nhận chứng chỉ.

Báo cáo này cũng đánh giá những thuận lợi, triển vọng của tiến trình QLRBV và cũng
nêu ra các khó khăn thử thách đã và đang vấp phải. Từ đó đề ra nhiệm vụ hoạt động của
SFMI trong hoàn cảnh và đặc điểm của Việt nam từ khi Thủ tướng chính phủ phê duyệt
“Chiến lược lâm nghiệp quốc gia 2006–2020” trong đó có 3 Chương trình phát triển trọng
điểm, mà chương trính thứ nhất là Quản lý rừng bền vững.


1- KHUNG CẢNH


Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nhân loại đứng trước thảm hoạ suy thoái
môi trường trên toàn cầu nên đã đề ra nhiều giải pháp bảo vệ và phục hồi môi trường, trong
đó có phong trào quản lý rừng bền vững. QLRBV là sáng kiến của cộng đồng quốc tế do
những người chế biến, tiêu thụ gỗ cam kết chỉ sử dụng và lưu thông trên mọi thị trường thế
giới những sản phẩm gỗ nào được khai thác hợp pháp từ các khu rừng đã được quản lý bền
vững. Muốn vậy, chứng chỉ rừng và chứng chỉ gỗ được áp dụng như là một công cụ hữu hiệu
để buộc mọi chủ rừng đảm bảo quản lý rừng bền vững về cả 3 phạm trù: kinh tế, môi trường,
xã hội.

Hợp tác về lâm nghiệp trong khối ASEAN những năm vừa qua tập trung chủ yếu vào
quá trình QLRBV, từ đó một diện tích tuy còn hạn chế nhưng đã được cấp chứng chỉ đầu tiên
tại Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái lan, trong 3 năm vừa qua. Động lực kích thích các

chủ rừng phấn đấu để đạt được chứng chỉ rừng là không những được quyền xuất khẩu vào
mọi thị trường quốc tế, mà còn được hưởng giá cao so với gỗ nội địa. Có thể coi chứng chỉ
rừng chính là chứng chỉ ISO-9000, ISO-1400 nhưng đặc thù cho các doanh nghiệp quản lý
kinh doanh rừng, sản xuất gỗ và lâm sản. Chính vì vậy tổ chức cấp chứng chỉ rừng phải là các
tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận quốc tế mới đảm bảo tính khách quan, công bằng và các
tổ chức cấp chứng chỉ phải dựa trên bộ tiêu chuẩn có đủ các tiêu chí quản lý rừng bền vững
tương đương nhau ở mọi vùng cả về kinh tế, môi trường và xã hội.

15.10.2008

3
Việt nam tham gia quá trình này từ năm 1998 tới nay, tuy chưa cấp chứng chỉ được
khu rừng nào, nhưng được sự hưởng ứng của các cấp quản lý chính quyền, sự hăng hái tự
nguyện của mọi chủ rừng, tiến trình QLRBV đã đạt được một số tiến bộ đáng kể, đặc biệt là
tại các vùng khai thác gỗ, chế biến gỗ xuất khẩu. Ngày nay, biến đổi khí hậu đang đe doạ sự
tồn vong của loài người thì QLRBV là biện pháp chủ động củ con người để ngăn chặn giảm
thiểu nguyên nhân thay đổ lkí hậu

Song, nhiều trở ngại đặc thù của Việt nam cũng xuất hiện, đó là quá trình chuyển đổi
các chủ rừng quản lý theo cơ chế bao cấp nhà nước như một đơn vị sự nghiệp công ích lâm
nghiệp sang hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo pháp luật. Trước đây, đơn vị quản
lý rừng đều thuộc Nhà nước, gọi là lâm trường quốc doanh (LTQD) và được thành lập theo
kết cấu tổ chức hành chính với đa chức năng tại các vùng miền núi, dân tộc ít người, dân trí
thấp, hạ tầng chưa mở mang. Ngoài việc quản lý rừng, khai thác gỗ còn được cấp kinh phí để
giữ gìn an ninh, vận động nhân dân thực hiện mọi chính sách xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục,
khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng làng bản và cơ sở hạ tầng. Các chính sách tổ chức kinh
doanh quản lý đều do Nhà nước chỉ đạo, cho phép, mà chính sách lại thay đổi quá nhiều, quá
nhanh, từ một doanh nghiệp lâm nghiệp được kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp trước
1980 chuyển sang chỉ được trồng rừng, bảo vệ rừng, bán cây đứng cho các doanh nghiệp khai
thác vận chuyển và tách hoạt động chế biến xuất khẩu riêng ra thành công ty riêng ở các

tỉnh miền Nam Việt nam, các kế hoạch trồng rừng, khai thác gỗ đều do Nhà nước cấp chỉ tiêu,
rất nhiều khi lâm trường không được tự làm mà bắt buộc phải thuê khoán cho dân hoặc các
doanh nghiệp khác tới làm. Từ đó lợi ích và động lực để chủ rừng quản lý rừng bền vững
nhằm xin cấp chứng chỉ bị loại trừ.

Tuy nhiên nhiều lâm trường và cơ quan quản lý cấp tỉnh đang tự xây dựng lại cơ chế
chính sách, giao quyền tự chủ kế hoạch, tự chủ tài chính cho lâm trường và quyết tâm đổi mới
lâm trường thành doanh nghiệp lâm nghiệp sản xuất lâm sản theo Quyết định 187/TTg (1999)
của Thủ Tướng Chính phủ và theo Nghị định số 200/ CP (2004) của Chính phủ về đổi mới tổ
chức và quản lý LTQD, và nghị quyết số 28 / NQTƯ của Bộ chính trị Trung ương Đảng về
tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển nông lâm trường quốc doanh.

2. SỰ THAY ĐỔI CỦA RỪNG VÀ CHỦ RỪNG Ở VIỆT NAM


Việt nam có diện tích 33,123 triệu ha, trảI dài từ 6 đến 23 độ vĩ bắc với 80 triệu dân.
Hai vùng khí hậu có ảnh hưởng chính tới sự hình thành và phát triển thảm thực vật rừng; từ vĩ
tuyến 16 trở ra bắc có mùa nóng từ tháng 5 tới tháng 10 và tháng còn lại của năm là mùa lạnh;
từ vĩ tuyến 16 trở vào phía nam có mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4, các tháng còn lại
là mùa mưa. Điều này có ảnh hưởng quan trọng tới sự hình thành các kiểu rừng và sự đa dạng
sinh học cao của đất nước.

Trước kia Việt nam có nhiều khu rừng phong phú về chủng loại, bao phủ hầu hết toàn
đất nước. Theo nguồn điều tra rừng thì năm 1943 Việt nam có 14,3 triệu ha rừng hoặc chiếm
43% của toàn lãnh thổ. Hiện nay toàn bộ diện tích được phân loại là đất cho lâm nghiệp còn
17,08 triệu ha, chỉ có 9,44 ha là rừng tự nhiên, 1,47 triệu ha là rừng trồng. Đất trống thoái hoá
đã lên tới hơn 7 triệu ha (bảng 1)

Bảng 1: Thay đổi diện tích rừng ở Việt nam từ giai đoạn 1943-2005



Di

n t
í
ch r

ng 1000 ha

Rừng


Thay ®æi

15.10.2008

4
Năm
Tự nhiên

Trồng

Tổng
bao
phñ%

Ha/
ngê
i
(1990

-
200
5
)

(1000ha
(%)
1943 14,300

0

14,300

43,0

0,70


1976

11
,
077

92

11
,
169


33
,
8

0
,
22



1980 10,186

422

10,608

32,1

0,19


1985 9,038

584

9,892

30,0

0,16



1990 8,430

745

9,175

27,8

0,14


1995 8,252

1,050

9,302

28,2

0,12


2000 9,444

1,471

10,915


33,2

0,14


2005 10,283

2,334

12,617

36,4

0,16

+2,432 + 2,1
200
5

Đ
NA*

18
3
,
914

19
,
973


20
3
,
887

4
6,8

0
,
40

-

2
,
324


-

1
,
1

2005 TG * 3,765,292

186,733


3,952,025

30,3

0,60

- 7,317 - 0,2

+ ĐNA: Đông nam á
+ TG: Thế giới
(Theo: .State of the World’s Forests. FAO., Rome, Italy. 2007)

Trước khi rà soát và điều chỉnh diện tích 3 loại rừng thì trong 10,915 triệu ha rừng tự nhiên thì
có 4,040 triệu ha rừng sản xuất, 5,350 triệu ha rừng phòng hộ và 1,525 triệu ha rừng đặc dụng.
Trong rừng sản xuất chỉ có 9% rừng giàu (với trữ lượng từ 150m3/ha) và 33% rừng trung bình
(80-150m3/ha), 58% rừng nghèo và rừng non mới phục hồi chưa thể tổ chức khai thác lợi
dụng ngay .

Trong điều kiện phong phú của khí hậu , đất đai, địa lý, rừng Việt nam được phân loại
thành các kiểu chính ghi trong bảng 2. Đây là những giá trị đặc biệt quý của các hệ sinh tháI
rừng nhiệt đới, cũng là đối tượng để quản lý bền vững.

Bảng 2: Các kiểu rừng Chủ yếu (2000)

Loại rừng Diện tích(1000ha)(%)
Rừng kín nhiệt đới lá rộng thường xanh và nửa rụng lá 5.649

51,7

Rừng kín rụng lá thấp và á nhiệt đới 935


8,6

Rừng kín nhiệt đới lá kim và hỗn loại lá kim lá rộng 77

0,7

R

ng

k
í
n nhi

t
đ

i tre n

a v
à

tre n

a h

n lo

i


1
.
416

13
,
0

Rừng ngập mặn 60

0,5

Rừng tràm 11

0,1

Rừng non táI sinh tự nhiên 1.296

11,9

Tổng cộng rừng tự nhiên 9.444

8,7

Rừng trồng 1.471

13,5

Tổng cộng rừng bao phủ 10.915


100,0



Với điều kiện khí hậu và địa lý của đất nước như vậy đã tạo nên hệ động thực vật
phong phú ước khoảng 12.000 loài cây trong đó có 7.000 loài thực vật cao cấp, 620 loài nấm
và 820 loài tảo. Có 1.186 loài đặc hữu của Việt nam và hơn 823 loài đặc hữu của Đông
Dương. Hệ động vật ở Việt nam cũng là một hệ phong phú của thế giới với 273 loài có vú,
826 loài chim, 180 loài bò sát 80 loài lưỡng cư, khoảng 2.600 loài cá, và hàng ngàn loài giáp
xác và không xương sống. Đặc biệt trong giai đoạn 1992-1997 4 loài mới được phát hiện thì
có 2 loài có vú là mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis) và sao la (Pscudoryx
nghetinhhensis).
15.10.2008

5

Để động viên người dân tham gia bảo vệ rừng và tái tạo rừng chính phủ Việt nam đã
đưa ra một loạt chính sách khuyến khích lâm nghiệp cộng đồng như chính sách giao đất rừng
với quyền sử dụng đất 50 năm, giảm và miễn thuế sử dụng đất, tỷ giá vay tín dụng thấp cho
đầu tư trồng rừng, hỗ trợ kỹ thuật v.v.đã ký hợp đồng với dân về quản lý và bảo vệ rừng.
Thực hiện các chính sách thành công hàng trăm ngàn hộ gia đình đã được giao đất lâm nghiệp
để trồng rừng và cây nông nghiệp, phần lớn diện tích đất trống đồi núi trọc đã xanh lại, cuộc
sống và môi trường của người miền núi đã được cải thiện đáng kể.

Từ năm 1985 thực hiện xã hội hoá ngành lâm nghiệp, các khu rừng không chỉ thuộc sự
quản lý của chính phủ mà thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau,, sự thay đổi về chủ rừng
đã được chỉ rõ trong bảng 3 tại năm 2005.

Bảng 3: Sự phân bố diện tích rừng theo loại chủ rừng năm 2005



STT

Chủ rừng
Diện tích rừng
(1000 ha)

(%)

1
2
3
4
5
6
7

Lâm trường quốc doanh
Ban quản lý rừng phòng hộ
Ban quản lý rừng đặc dụng
Liên doanh
Các tổ chức (Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ)
Cộng đồng, HTX
Quân đội, công an, cá nhân, hộ gia đình

Cộng

3,030
1.406

1.657
54
285
297
2.871

9,600


24.6

11.4

13.5

0.4

2,3

2,4

23,3



78,0

8

Rừng chưa giao



T

ng c

ng

2,707

12,307

22,0


100,0

Nguồn :FIPI- 2006


3- HOẠT ĐỘNG CỦA NWG, SFMI VÀ HIỆN TRẠNG QLRBV


Song song với việc tổ chức triển khai các chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương
trình xã hội hoá ngành lâm nghiệp, Việt nam đã khởi động tiến trình QLRBV bằng Hội thảo
quốc gia 2/1998 tại TP Hồ chí Minh do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, WWF Đông
Dương, Đại sứ quán Hà lan và FSC đồng tổ chức. Hội thảo đã đề ra chương trình QLRBV và
thành lập Tổ công tác quốc gia về QLRBV và CCR viết tắt là NWG và ngay từ đầu đã thu hút
nhiều tổ chức Chính phủ (Cục Lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm, Cục Môi trường, Cục Định canh
định cư, Vụ chính sách, Tổng cục Đo lường và chất lượng sản phẩm, Viện Điều tra quy hoạch

rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp, nhiều lâm trường quốc doanh) nhiều tổ chức phi chính phủ
(Hội Khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Công ty tư vấn pháp luật) và
nhiều nhà khoa học, nhà xã hội học, nhà môi trường, nhà hoạt động dân tộc và giới tham
gia. Các tổ chức quốc tế đang hoạt động tại Việt nam tỏ ra rất nhạy bén trước tiến trình
QLRBV nên đã hợp tác chặt chẽ và hỗ trợ kinh phí, chuyên gia, phương pháp cho NWG hoạt
động, trong đó có WWF, IUCN, FAO, dự án GTZ, quỹ FORD

Trong nhưng năm qua, việc đầu tiên là NWG đã tham gia cùng các nước ASEAN dự
thảo bộ tiêu chuẩn QLRBV theo 7 tiêu chí của Tổ chức Gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) đồng
15.10.2008

6
thờì dự thào bộ tiêu chuẩn QLRBV cho Việt nam theo 10 nguyên tắc của FSC qua 9 lần hội
thảo quốc gia và các tỉnh. Đến tháng 2/2007 đã nhận được sự đánh giá chính thức và bình
luận từ các tổ chức khác nhau. Đó là các cơ quan nhà nước: Tổng cục đo lường và chất lượng
sản phẩm, Vụ chính sách, Cục kiểm lâm, Viện điều tra quy hoạch rừng, Đại học lâm nghiệp,
Viện khoa học Lâm nghiệp, các Hội nông dân, phụ nữ , hội KHKTLN, Công ty luật, Tổng
công ty lâm nghiệp và nhiều nhà khoa học khác. Một loạt các cuộc hội thảo và truyền thông
được tổ chức tại các vùng mà lâm trường hàng năm còn đang khai thác gỗ trong rừng tự nhiên
như Huế 1999, Vinh 2000, Quy Nhơn 2001, Buôn Ma Thuột 2001, Gia Lai 2002, Hà Nội
2004, từ 2006 SFMI tiep tục tổ các hội thảo và khảo sát tại Trường Sơn, Quảng Bình, Hà Nội
(Đại lải) 2007 nhằm tuyên truyền tiến trình QLRBV và CCR không chỉ đối với các lâm
trường, các công ty, xí nghiệp lâm nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ, mà còn thuyết minh, truyền
thông tới các cấp chính quyền, lãnh đạo tỉnh có rừng, các cơ quan quản lý lâm nghiệp để ủng
hộ và tham gia tiến trình này. NWG cũng đã đưa nội dung QLRBV vào bài giảng tham khảo
tại các lớp cao học của Đại học Lâm nghiệp và một số dự án quốc tế hỗ trợ kỹ thuật và phát
triển lâm nghiệp tại Việt nam như EU Nghệ An, EU Bắc cạn, Cao Bằng, KfW1, KfW3, WB3


Đã tiến hành các cuộc khảo sát nhằm xem xét tính khả thi của bộ tiêu chuẩn quốc gia

đang dự thảo đồng thời đánh giá trình độ quản lý của các đơn vị quản lý rừng (lâm trường,
công ty, tư nhân), so với các tiêu chí QLRBV để lập kế hoạch bổ sung, nâng cấp. Đó là các
lâm trường Dak N’tao (Đaklak); Hà Nừng, Trạm Lập, Dakrong, Sơpai (Gia lai); Mang Cành,
Kon Plong (Kontum); Bảo Lâm, Đạ Tẻ (Lâm Đồng); Hương Thuỷ (Thừa Thiên Huế); Ba
Rền, Long Đại (Quảng Bình); Hương Sơn (Hà Tĩnh); Con Cuông (Nghệ An), Cẩm Phả
(Quảng Ninh), Doanh nghiệp trồng rừng 327 tư nhân Đỗ Thập (Yên Bái), Công ty Lâm
nghiệp Hoà Bình, Ma D’rắc Đắc Lắc.

Đối với vùng trọng điểm 4 tỉnh Tây Nguyên, nơi còn khai thác nhiều gỗ nhất từ rừng
tự nhiên, cũng là nơi diện tích và chất lượng rừng bị suy giảm nhiều nhất ở Việt nam, NWG,
Cục Lâm nghiệp cùng WWF và Vụ chính sách đã có các hội thảo để từng tỉnh tự đánh giá
hiện trạng quản lý rừng của các lâm trường theo các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn QLRBV (Buôn
Ma Thuột 2001), và hội thảo xây dựng chương trình cải cách tổ chức quản lý lâm trường theo
Quyết định 187/TTg của Thủ Tướng Chính phủ (Pleiku 2002) và chọn ra 4 lâm trường quản
lý tốt từ mỗi tỉnh đưa vào mạng lưới mô hình QLRBV là Công ty LN Kong Plong, Lâm
trường Hà Nừng, Lâm trường Dak N’tao, Lâm trường Bảo Lâm. Các công ty, xí nghiệp chế
biến xuất khẩu lâm sản được khuyến khích nâng cao quy trình giám sát chuỗi hành trình sản
phẩm, nhưng tới cuỗi năm 2003 cũng mới chỉ có 13 đơn vị được cấp chứng chỉ giám sát chuỗi
hành trình sản phẩm (CoC).

NWG trong quá trình hoạt động cũng tự củng cố, phát triển thêm các thành viên nữ,
dân tộc tại địa phương thay cho các thành viên ít có điều kiện tham gia. 10 thành viên NWG
đã tham gia nhập tổ chức FSC quốc tế và từ 2002 tổ chức FSC đã trợ giúp kỹ thuật trong tiến
trình QLRBV của NWG.

Đầu năm 2004, Lâm trường Trường Sơn (Công ty lâm công nghiệp Long Đại, Quảng
Bình), Công ty Lâm nghiệp dịch vụ Hương Sơn- Hà Tĩnh, Doanh nghiệp trồng rừng tư nhân
Đỗ Thập- Yên Bái đã nộp đơn xin cấp chứng chỉ FSC, NWG đã giới thiệu với WOODMARK
thuộc Hội Thổ nhưỡng Anh hướng dẫn bản khai để ký hợp đồng thẩm định, trong khi đó
WWF Đông dương đang giúp đỡ các lâm trường Hà Nừng và Sơ pai tăng cường công tác

quản lý rừng bền vững
Gần đây, hàng loat lâm trường quản lý rừng tự nhiên và trồng rừng sản xuất, rất nhiều
công ty, xý nghiệp chế biến xuất khẩu lâm sản đang có nhu cầu tự thân tham gia quá trình
QLRBV và yêu cầu SFMI hướng dẫn, hỗ trợ, tư vấn để tự đánh giá năng lực quản lý rừng,
15.10.2008

7
năng lực giám sát chuỗi hành trình, song mới chỉ nhận được 1 chúng chỉ FSC về QLR va 150
chứng chỉ CoC.

Các mô hình thử nghiệm dù là QLR tự nhiên hay rừng trồng do chủ rừng tự làm, do
FAO, GTZ, WWF… hỗ tợ được trình bày trong phần 3 là phần CCR.


4- CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC


Mặc dù xu hướng chung về môi trường toàn cầu là sử dụng và đánh giá cao vai trò,
chức năng của rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên nhiệt đới trong việc khôi phục môi trường sinh
thái, giảm nhẹ thiên tai về thay đổi khí hậu, sa mạc hoá, tăng nồng độ CO
2
trong không khí,
bảo vệ nguồn nước và cải tạo đất nhưng kinh nghiệm quản lý rừng ở Việt nam cho thấy
nếu khu rừng không gắn được với lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội cho dân sở tại hay cho chính
ông chủ rừng thì sẽ làm giảm động cơ tham gia của cộng đồng địa phương để bảo vệ và phát
triển rừng đồng thời là gánh nặng ngân sách của nhà nước.

Trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng lâm sản của Việt nam mới ở mức 250-500 triệu
USD/năm 2004 tăng vọt lên gần 2 tỷ USD năm 2007 thì cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc
tế đã rất quyết liệt. Ngoài các nguyên nhân thông thường về giá thành, mẫu mã, chất lượng,

thương hiệu, vấn đề chứng chỉ QLRBV của gỗ đang nổi lên hàng đầu đối với ASEAN trong
đó có Việt Nam để được lưu thông trên mọi thị trường quốc tế. Đây cũng là động lực để các
doanh nghiệp, chủ rừng sản xuất gỗ và chế biến xuất khẩu gỗ vươn lên, vừa đảm bảo môi
trường và phúc lợi từ rừng bền vững, vừa ổn định lãi suất kinh tế cao khi nhận được chứng chỉ
rừng. Kết quả khảo sát nhiều lâm trường, xí nghiệp trong 4 năm qua của các tổ chức
SmartWood (được FSC uỷ quyền cấp chứng chỉ) Scancom, WWF và nhiều nhất là NWG đã
cho thấy mọi cấp chính quyền và hầu hết chủ rừng nhà nước cũng như tư nhân đều hăng hái
nhiệt tình tham gia quá trình QLRBV để được cấp chứng chỉ rừng. Động lực này các quốc
gia, các tổ chức đẫ vận dụng có hiệu quả và kinh nghiệm khác nhau .

Kết quả kiểm kê rừng tự nhiên công bố năm 2001 cho thấy, tổng trữ lượng gỗ toàn
quốc là 721 triệu m3 cây đứng. Nếu tổ chức quản lý kinh doanh hợp lý hàng năm có thể khai
thác tối thiểu 1%, tương đương 7 triệu m3, như vậy sau chương trình hạn chế khai thác rừng
tự nhiên nghèo kiệt (1997-2010), thường gọi là đóng cửa rừng tự nhiên trong 15 năm, sẽ
không chỉ có 105 lâm trường khai thác gỗ hiện nay mà sẽ lại tăng lên gấp 2 hoặc 3 lần với
tổng trữ lượng cây đứng 7 triệu m3/năm còn nằm dưới lượng tăng trưởng hàng năm của rừng.
Đã đến lúc cần phảI kiểm kê rừng tự nhiên sau 14 năn đóng cửa nuôi dưỡng để có quyết sách
cho phép khai thác những nơI nào đã phục hồi đầy đủ lên tong giàu và rừng trung bình về trữ
lượng gỗ .

Về thể chế. chính sách để đảm bảo đẩy mạnh quá trình QLRBV cho tới nay đã khá
đầy đủ và luôn được bổ sung kịp thời, mặc dù chưa đạt tới mức hoàn hảo, đó là Luật Đất đai
(1993), Luật Bảo vệ Phát triển rừng (1991), Luật Môi trường (1993), các luật sửa đổi, bổ sung
một số điều trong Luật Đất đai (1998-2000) cùng một loạt văn bản pháp quy dưới luật như
các nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị từ cấp Chính phủ, Thủ tướng, liên bộ, bộ,
tỉnh trong đó có cả các luật và văn bản về tài chính, đầu tư, kiểm toán đặc biệt là Quyết
định 187/1999/QĐ-TTg ngày 16-9-1999 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới tổ chức và cơ
chế quản lý LTQD để cởi trói, tránh sự lẫn lộn giữa đơn vị vừa kinh tế, vừa sự nghiệp và
nhiều nơi còn cả chức năng quản lý nhà nước sang hoạt động doanh nghiệp. Hệ quy trình quy
phạm về kiểm kê rừng, điều chế rừng, gây trồng rừng, làm giàu rừng, khai thác, chế biến lâm

sản đã là cơ sở khoa học công nghệ cho tiến trình QLRBV.
15.10.2008

8

Như vậy giai đoạn 5 năm đầu tiên có thể đánh giá là tốc độ còn chậm, trong khi một số
nước đang phát triển ở châu á, Phi đã đạt được một vài diện tích chứng chỉ như Trung Quốc,
Phillipin, Srilanka. Chúng ta có đủ điều kiện và khả năng đẩy mạnh hơn nữa quá trình này
trong những năm tới, một số chủ rừng và một số khu rừng đang quản lý kinh doanh ở miền
Bắc, miền Trung và Tây Nguyên đã khá gắn với các tiêu chí QLRBV cần được thẩm định
chứng chỉ làm đà cho các doanh nghiệp trong cả nước. Cũng từ kết quả khảo sát rộng rãi
trong cả nước, còn nhiều thách thức phải giải quyết không chỉ về năng lực kinh doanh quản
lý, năng lực tài chính mà quan trọng nhất vẫn là có thể chế chính sách giải pháp rồi thực thi
như thế nào, đầu là hạn chế, là rào cản khác nhau ở từng vùng, từng tỉnh. Đó là:

1. Chính sách về đất đai trong Luật đất đai (1993) và luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật đất đai (1998, -2000, 2003) quy định doanh nghiệp nhà nước được cấp quyền sử dụng
đất trong kinh doanh. Nhưng trong thực tiễn sản xuất đa số các lâm trường chưa được cấp
quyền này (sổ đỏ), ngoại trừ vài ba lâm trường, công ty như Con Cuông ở Nghệ An, Hương
Sơn ở Hà Tĩnh, đa số vẫn chỉ là quyết định phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc dự án
đầu tư trong đó có ranh giới diện tích đất đai của Bộ hoặc UBND tỉnh. Các trang trại lâm
nghiệp hoặc hộ gia đình đã có một vài trăm đến một nghìn ha như ông : Nguyên (Nghệ An),
ông Thập (Yên Bái), ông Phúc (Đồng Nai) đều đang chỉ được xem xét hoặc cấp quyền sử
dụng một phần. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên để QLRBV và xin cấp CCR.

2. Tại vùng Tây nguyên và Đông Nam Bộ, đất và rừng của các lâm trường vẫn còn bị chiếm
dụng, chuyển sang trồng cà phê, hạt tiêu và bị dân di cư tự do xâm canh, ta chưa đủ luật và
chính sách để định cư dân và chấm dứt nạn di cư tự do.

3. Quy trình kỹ thuật lâm sinh về khai thác gỗ và chỉ tiêu (quota) Chính phủ cho phép chặt

tính bằng m3 gỗ tròn thương phẩm mà không bằng gỗ thân cây đã cho phép người trúng thầu
là một công ty khai thác chặt lạm để có chất lượng gỗ tròn cao trong khi tỉ lệ sử dụng gỗ/thân
cây càng thấp càng có lợi. Cần được nghiên cứu bổ sung cho quy phạm các giải pháp kỹ thuật
lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa (QPN 14-92). Mặt khác, cấp thẩm quyền
phê duyệt phương án điều chế rừng, vòng quay 30 đến 35 năm có kế hoạch khai thác hàng
năm , nhưng hiện nay vẫn chỉ được cấp chỉ tiêu sản lượng cho cả nước 300,000 m3/năm tại
rừng tự nhiên 1997-2010. Việc khôi phục sản lượng khai thác sau đóng cửa rừng sẽ có báo
cáo riêng. Hầu hết các lâm trường đều không có số liệu đủ chính xác định kỳ về kiểm kê trữ
lượng gỗ và đa dạng sinh học làm cơ sở cho phương án điều chế rừng. Thậm chí từ năm 2003
chính phủ còn giảm chỉ tiêu khai thác xuống dưới 250 và 200,000 m3 gỗ/ năm gây nên nạn
khan hiếm gỗ lớn.

4. Cũng tại Tây nguyên,cơ chế tài chính trong các lâm trường quốc doanh không tuân thủ
Luật doanh nghiệp và các hướng dẫn khiến cho cơ sở hạ tầng về đường vận chuyển vận xuất
kho bãi thiết bị ngày càng yếu kém, không đảm bảo cơ sở để QLRBV. Giám đốc lâm trường
không quyết định việc mở đường và duy tu hàng năm, mà lại do công ty khai thác gỗ trúng
thầu hoặc đa phần là cấp tỉnh chỉ định đảm nhiệm. Vì vậy, họ chỉ cần làm tạm bợ để lấy được
gỗ ra 1 lần sao cho rẻ nhất, năm sau công ty khác được chỉ định sẽ lo tiếp. Chủ trương không
cho phép lâm trường tự khai thác gỗ và chế biến gỗ sẽ bỏ lãng phí toàn bộ gỗ cành ngọn trong
rừng chiếm 35-40% và không hạn chế được sự đổ vỡ trong tái sinh cây con và tác động môi
trường khi chặt cây, làm đường.

Cơ chế này áp dụng từ thời bao cấp khi lâm trường là tổ chức dịch vụ điều hành theo
lệnh cấp trên khiến cho hệ thống đường quá yếu kém. Bình quân 2-6 m/ha rừng, trong khi yêu
cầu tối thiểu là 10m/ha. Do đó đã lặp lại việc khai thác chỉ tập trung vào ven đường khiến cho
nơi đó trở thành rừng nghèo kiệt, còn rừng giàu nơi xa đường bỏ cho lãng phí., mặt khác, lâm
15.10.2008

9
trường không được tự chủ về tài chính dẫn đến không chủ động xây dựng bộ máy, tổ chức

nhân sự hợp lý. Ví dụ lâm trường Tân Lập tỉnh Kontum năm 2001 được cấp 12 xuất lương
biên chế sự nghiệp từ nhà nước, bộ máy này không thể bảo vệ và tổ chức kinh doanh 15 nghìn
ha rừng. Trong khi đó các lâm trường, các công ty lâm nghiệp ở miền Bắc đã đổi mới theo
Quyết định 187/TTg như Con Cuông, Hương Sơn, Long đại thì gắn được cả khâu công
nghiệp khai thác, chế biến, vận tải với khâu lâm sinh. Đơn vị tự khai thác gỗ, lâm sản ngoài
gỗ, chế biến gỗ và lâm sản khác tại chỗ, tận dụng được tối đa gỗ cành ngọn, đảm nhiệm nhiều
hoạt động dịch vụ khác cho xã hội nên đem lại nhiều việc làm và thu nhập cho công nhân viên
và cho dân.

Nguyên nhân chính là chủ rừng đã được tự chủ về kế hoạch, về tài chính và chịu trách
nhiệm về kinh tế, xã hội, môi trường, trừ chỉ tiêu khai thác gỗ trong giai đoạn hạn chế nói
trên.

5. Phân chia lợi nhuận của lâm trường quốc doanh ở Tây nguyên cũng không hợp lý, cần có
cơ chế chính sách tôn trọng quyền tự quyết của giám đốc. Cũng theo khảo sát của Smart
Wood do Trường Thành và Tropic Dane tài trợ, thì tại 2 lâm trường Dak N’tao và Madrak,
lâm trường bán gỗ theo chỉ tiêu khai thác 3.000m3 gỗ tròn/năm, được 100.000USD, giữ lại 7-
10% để duy trì bộ máy (tức là 7000- 10.000 USD), còn nộp lại cho Sở NN& PTNT. Hàng
năm Sở NN & PTNT hỗ trợ lại cho lâm trường chi phí mọi hoạt động 20 – 30.000 USD. Tính
ra chỉ có 1 – 1,5 USD/ha rừng, như vậy thấp đến mức không đáng kể về kinh doanh, mà chủ
yếu ăn sẵn của thiên nhiên. Trong khi công ty khai thác chế biến tiêu thụ gỗ bán từ 1 triệu đến
2,5 triệu VND /m3 tuỳ theo chủng loại, thì chỉ phảI thanh toán cho Sở NN &PTNT 0,25 -1,0
triệu VND/m3, cần có sự điều chỉnh để lâm trường đầu tư vào lâm sinh và cơ sở hạ tầng.

6. Chính sách hiện hành về giá cả thị trường ở một số tỉnh Tây nguyên đã tách biệt chủ rừng
với người tiêu thụ mà không có cầu nối, không có cơ chế kích thích phát triển. Lâm trường
làm ra gỗ nhưng lại không hoặc rất ít chế biến tiêu thụ để tăng thu nhập và việc làm cho công
nhân, cho cộng đồng địa phương mà phảI bán cho một công ty do cấp trên ấn định, ít khi được
đấu thầu, mà được đấu thầu thì giá trần cũng do tỉnh quy định. Điều này khiến cho chủ rừng
mất hết động lực tiếp thị kinh doanh.

Nếu QLRBV thì khu rừng được cấp chứng chỉ, gỗ khai thác được dán nhãn và lưu
thông quốc tế do đó giá bán sẽ tăng đáng kể. Song lãI lại chỉ vào cơ quan khai thác tiêu thụ và
cơ quan quản lý cấp trên mà không đem lại cho lâm trường cũng như nhân dân địa phương.

7. Bộ máy tổ chức và số lượng cán bộ công nhân viên thường xuyên không đảm bảo quá trình
quản lý kinh doanh và không xuất phát từ nhu cầu quản lý mà lại do khả năng trả lương hoặc
chỉ tiêu biên chế do cấp trên của lâm trường quyết định, vì vậy lâm trường cần trở thành một
doanh nghiệp thực sự với bộ máy cần thiết. Số lượng quá ít nhân công và điều kiện đường xá
không đầy đủ khiến cho lâm trường không đủ sức quản lý bền vững và ổn định. Khi thẩm
định rừng, Smart Wood đã quan tâm tới quan hệ giữa tổ chức nhân lực diện tích rừng kinh
doanh, hệ số đường/ha trong một lâm trường liên quan tới lương bình quân / tháng như trong
biểu 4:

Thứ
tự
Đơn vị (lâm trường
hoặc công ty)
Số
người
Diện tích rừng
(ha)
Mật độ
đường
(1m/ha)

Lương tháng
(VND)
1 Madrak 85 23.000 RTN
+10.000 RT
1 300.000 (trong

năm 2000)
2

Dakwin

53


35
.
000

RTN

2

220
.
000

(1999)

3 Quảng Sơn 26 24.000 3
4 Dak Ntao 31 15.000 2
15.10.2008

10
5 Con Cuông 70 8.000 12 750.000 (2000)
6 Tân Lập 12 15.500 1,2 Bao cấp (2001)
7 Măng cành 2 17 13.900 4

8 Long Đại 1288 202.900 2,5 800.000 (2003)
9

H
ư
ơ
ng S
ơ
n

320


42
.
000




3,6

700
.
000

(2003)

10 Đỗ Thập 25 550 RT 8 850.000 (2003)


Tài liệu các đơn vị 5,6,7,8,9,10 do NWG khảo sát

8. Vai trò quan trọng của chính phủ, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Mặc dù về nguyên
tắc chủ rừng hoàn toàn tự nguyện tham gia tiến trình QLRBV để đạt được chứng chỉ rừng từ 1
tổ chức quốc tế. Họ không chỉ nhằm hưởng lợi về giá bán gỗ cao và quyền xuất khẩu ra mọi
thị trường, mà còn nhằm đảm bảo vốn rừng ổn định và lãI xuất tăng tiến lâu dài của mình.
Song mọi chính sách quốc gia và mọi sự quản lý về pháp luật lại là của Chính phủ. Nếu không
có sự phối hợp và hỗ trợ từ phía chính phủ, chắc chắn doanh nghiệp sẽ gặp nhiều trở ngại.

Ở Việt Nam rừng và đất rừng chủ yếu thuộc nhà nước quản lý, Chính phủ từ Trung
ương đến địa phương khi hội nhập phong trào QLRBV cần hiểu rõ bản chất và lợi ích của tiến
trình này để đề ra các chính sách và giảI pháp hỗ trợ hiệu quả. Thực chất trong chiến lược
phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001 -2010 của Bộ NN & PTNT thì trong số 6 chương trình
ưu tiên, có chương trình số 2 là phát triển QLRBV. Chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp
(FSSP) do 21 đối tác cam kết tài trợ cũng có chương trình số 6 là QLRBV trên 9 khung
chương trình trọng điểm. Song thực tế ngành lâm nghiệp chưa có kế hoạch thực thi các
chương trình này.

Trong khối hợp tác kinh tế ASEAN, 2 nước có doanh số xuất khẩu lâm sản trên dưới 5
tỷ USD/năm thì chính phủ đã tổ chức Viện sinh tháI (LEI) của Indonesia và Hội đồng chứng
chỉ gỗ quốc gia (NTCC) của Malaysia. Về danh nghĩa đây là 2 tổ chức phi chính phủ, song
thực tế nhà nước tài trợ để LEI và NTCC đủ sức đẩy mạnh tiến trình QLRBV đứng đầu trong
các nước ASEAN hiện nay. Hội nghị chính sách và chiến lược ASOF tại Jakarta 4/2004 cũng
quan tâm vai trò chính phủ trong QLRBV.

9. Một số dự án quốc tế đã hỗ trợ hộ nông dân trồng rừng sản xuất như WFP, JICA, KfW,
WB… , tuy mỗi hộ chỉ một đến ba ha nhưng tập trung trong mỗi huyện hàng nghìn ha, và mỗi
tỉnh 5 – 10 ngàn ha. Cần thành lập các hiệp hội nông dân trồng rừng để hỗ trợ nhau dịch vụ
chăm sóc rừng, bảo vệ rừng, thị trường vật tư lâm sản, đồng thời cũng để tiến hành tăng
cường QLRBV và CCR. Mô hình liên kết của ông Đỗ Thập tại Yên BáI là một điển hình tốt,

ngoài 550 ha rừng tư nhân, ông còn được tín nhiệm của hàng nghìn hộ nông dân trong vùng
trồng rừng tập trung của tỉnh tự nguyện liên kết thành hiệp hội trồng rừng.


5. KẾT LUẬN


Tiến trình QLRBV tại Việt nam đang trong giai đoạn sôi nổi, Doanh nghiệp lâm
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang tự nguyện và hào hứng tham gia tiến trình QLRBV
mặc dù biết rằng còn cần phấn đấu nhiều mới đạt được tiêu chuẩn, khó khăn chủ yếu của
doanh nghiệp lâm nghiệp không chỉ là ở chỗ tự nâng cao năng lực quản lý rừng mà còn phảI
chuyển đổi mạnh mẽ từ hệ thống chức năng dịch vụ công ích sang doanh nghiệp kinh doanh.
Ngoài ra, giai đoạn hạn chế khai thác gỗ rừng tự nhiên để phục hồi rừng nghèo kiệt (1997 –
2010) cũng ảnh hưởng tới khả năng khai thác gỗ một cách khách quan của từng doanh nghiệp.
Song Việt nam sẽ không chậm chễ trong sự hợp tác với các nước ASEAN để đẩy mạnh tiến
15.10.2008

11
trình QLRBV, tăng sức cạnh tranh hàng hoá lâm sản vào các thị trường AFTA, APEC, WTO,
và trước hết là các thị trường truyền thống là Tây Âu và Bắc Mỹ .

Giai đoạn trước mắt Việt Nam cần hoàn thiện bộ tiêu chuẩn QLRBV, tuyên truyền sâu
rộng để các loại chủ rừng và các cấp quản lý hiểu rõ lợi ích của QLRBV, đồng thời xây dựng
mạng lưới các đơn vị quản lý rừng kiểu mẫu để xin cấp chứng chỉ trước. Đó chính là nhiệm
vụ khó khăn nặng nề và cần sự hợp tác với các ngành chức năng trong nước và quốc tế.


*













TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ NN-PTNT . 2006 .Cẩm nang ngành lâm nghiệp:
. - Chương Quản lý rừng bền vững ,
- Chương Chứng chỉ rừng .
2. Bộ NN-PTNT. Số liệu kiểm kê rừng toàn quốc. Hà nội 1 / 2006
3. FAO. State of the World Forest, Rome, Italy 2007.
4. Nguyễn Ngọc Lung. 2001 . Chiến lược, chính sách về lâm sinh, lâm trường liên quan
tới QLRBV và trồng 5 triệu ha rừng. Partnership, Taskforce 2.
5. NWG . 1998-2004: Các tài liệu hội thảo và khảo sát thực địa.
6. Phạm Hoài Đức . 2007. Phát triển QLRBV và chứng chỉ rừng . Hội thảo QG lần thứ 9,
Đại LảI, Hà Nội
7. SFMI. 2007 .Dự thảo bộ tiêu chuẩn quốc gia QLRBV, lần thứ 9c.
8. SmartWood.1999. Kết quả khảo sát rừng tại Đăk Lắc (bản tiếng Vịệt, WWF)


&













15.10.2008

12

























PHỤ LỤC (Từ hộp 1 đến hộp 8):




Hộp 1

QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG (QLRBV) Ở VN
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
***

GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung
Viện QLRBV và CCR

1- Khung cảnh
2- Sự thay đổi của Rừng và Chủ rừng
3- Hoạt động của NWG
4- Cơ hội và thách thức
5- Kết luận







Hộp 2
KHUNG CẢNH
15.10.2008

13


LÂM NGHIỆP VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH QLRBV

 QUỐC TẾ
ITTO, MONTRÉAL, PAN-EUROPAN, CIFOR. DRY REGION AFRICA,
FSC, PÈFC, MTCC, LEI
 ASEAN
CHƯA CẤP CHỨNG CHỈ: SINGAOERE,.
 TRONG NƯỚC
QPFL (QUY NHƠN)





Hộp 3
SỰ THAY ĐỔI DIỆN TÍCH RỪNG Ở VIỆT NAM


Năm
Diện tích rừng , tr. ha
Rừng


bao
phñ%


Ha/
ngê
i
Thay ®æi
(1990-2000)
(1000ha
(%)

Tự nhiên

Trồng

Tổng
1943 14,300

0

14,300

43,0

0,70


1976 11,077


92

11,169

33,8

0,22


1980 10,186

422

10,608

32,1

0,19


1985 9,038

584

9,892

30,0

0,16



1990 8,430

745

9,175

27,8

0,14


1995

8
,
252

1
,
050

9
,
302

28
,
2


0
,
12



2000 9,444

1,471

10,915

33,2

0,14


2005 VN 10,283

2,334

12,617

36,4

0,16

+2,432 + 2,1
2005 ĐNA* 183,914


19,973

203,887

46,8

0,40

- 2,324 - 1,1
2005 TG * 3,765292

186,733

3,952025 30,3

0,60

- 7,317 - 0,2
+ ĐNA: Đông nam á
+ TG: Thế giới
* Theo: .State of the World’s Forests. FAO., Rome, Italy. 2007



Hộp 4
PHÂN BỐ RỪNG
THEO CÁC HÌNH THÁI CHỦ RỪNG


STT


Chủ rừng
Diện tích rừng
(1000 ha)

( %)

1
2
3
4
5


Lâm trường quốc doanh
Ban quản lý rừng phòng hộ
Ban quản lý rừng đặc dụng
Liên doanh
C
á
c t


ch

c

H

i


(
C

u chi
ế
n binh,
P
h


n

)


3.030

1.406

1.657

54

28
5


24,6


11,4

13,5

0,4

2,3

15.10.2008

14


6
7
Cộng đồng, HTX
Quõn đội, cụng an, cỏ nhõn, hộ gia đỡnh

C

ng

297

2,871



9
.6

0
0

2,4

23,3



7
8,0

8 Rừng chưa giao

Tổng cộng
2.707

12,307
22,0



100,0

Nguồn FIPI. 2006



Hộp 5


TỔ CÔNG TÁC QUỐC GIA (NWG)
VÀ VIỆN QLRBV & CCR (SFMI)


1) Các hoạt động về truyền thông
2) Xây dựng tiêu chuẩn ASEAN, quốc gia2
3) Khảo sát đánh giá hiện trạng QLRBV
4) Tăng cường năng lực hoạt động

2) Đã bình luận bởi, 4 Cơ quan lâm nghiệp: ĐHLN, VKHLN, VĐTQHR, Vụ CS
2 Tổ chức pháp lý: Cty tư vấn luật, Tổng Cục tiêu chuẩn.
3 NGO: Hội KHLN, Hội nông dân, Hội phụ nữ,
3 Chuyên gia quốc tế: Indonesia, FSC quốc tế, FSC vùng




Hộp 6
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

A. CƠ HỘI

 Trào lưu quốc tê
 Nhu cầu thị trường
 Chủ quan của chủ rừng
 Các chính sách, chiến lược
 Cơ sở khoa học công nghệ




15.10.2008

15











Hộp 7
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC


B- THÁCH THỨC

 Đề án giảm khai thác rừng tự nhiên
 Đổi mới lâm trường quốc doanh
 Xã hội hoá ngành lâm nghiệp
 Xoá đói giảm nghèo








Hộp 8
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC


B- THÁCH THỨC (TIẾP THEO)

 Chủ rừng thật sự và chủ rừng danh nghĩa

+ Tiêu chí về sở hữu rừng và đất
+ Tiêu chí quyền chủ quản về :
Kế hoạch
Tài chính
Tổ chức





15.10.2008

16







Hộp 9

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

B- THÁCH THỨC (TIẾP THEO)

 Các tiêu chí về:
Kinh tế
Môi trường
Xã hội

 Vai trò của nhà nước trong QLRBV




Hộp 10
Những chỉ tiêu Smart Wood quan tâm

Thứ
tự
Đơn vị (lâm trường
hoặc công ty)
Số
người
Diện tích rừng
(ha)
Mật độ
đường
(1m/ha)

Lương tháng

(VND)
1 Madrak 85 23.000 RTN
+10
.
000

RT

1 300.000 (trong
n
ă
m 2000)

2 Dakwin 53 35.000 RTN 2 220.000 (1999)
3 Quảng Sơn 26 24.000 3
4

Dak Ntao

31


15
.
000



2



5 Con Cuông 70 8.000 12 750.000 (2000)
6

T
â
n L

p

12


15.500




1,2

Bao c

p (2001)

7 Măng cành 2 17 13.900 4
8

Long
Đ


i

1288

202
.
900





2,5

800
.
000

(2003)

9 Hương Sơn 320 42.000 3,6 700.000 (2003)
10 Đỗ Thập 25 550 RT 8 850.000 (2003)

Tài liệu các đơn vị 5,6,7,8,9,10 do NWG khảo sát








Hộp 11
15.10.2008

17

KẾT LUẬN

 Cơ hội (xem hộp 6)
 Các thách thức (xem hộp 7,8,9,10)











Cám ơn sự chú ý của các quý vị !

CÂU HỏI
1. Theo bạn, bản chất của QLRBV là gi ?
2. Phương án điều chế rừng có gì quan trọng, cần như thế thế nào ?
3. Vai trò nhà nước trong QLRBV
4. QLRBV và CCR có liên quan gì ? , có cần phảI cùng tiến hành ?
5. Thực hiện QLRBV có lợi gì ? cho ai ?
6. Tiêu chuẩn QLRBV Việt Nam khác gì với tiêu chuẩn FSC Q.tế ?











PHẦN HAI
15.10.2008

18

Tiêu chuẩn FSC quốc gia







Dự thảo 9c
TIÊU CHUẨN QUỐC GIA
QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
(TIÊU CHUẨN FSC VIỆT NAM)


Giới thiệu


Từ xa xưa, rừng tự nhiên đã che phủ phần lớn diện tích mặt đất của trái đất, nhưng do
những tác động của con người như khai thác lâm sản, khai phá lấy đất làm nông nghiệp, xây
dựng, đô thị hoá v.v. nên diện tích rừng tự nhiên đã bị giảm đi đáng kể. Chỉ tính riêng trong
giai đoạn 1990-1995, ở các nước đang phát triển, đã có hơn 65 triệu ha rừng bị mất. Tính đến
năm 2000 diện tích rừng của toàn thế giới, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng, chỉ còn
3.869,455 triệu ha (FAO 2003), tỷ lệ che phủ chỉ chiếm 29,6 % lãnh thổ.
Ở Việt Nam năm 1943 diện tích rừng còn khoảng 14,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ 43%.
Đến hết năm 2005 tổng diện tích rừng của cả nước là 12,62 triệu ha, trong đó hiện có 10,28
triệu ha rừng tự nhiên và 2,34 triệu ha rừng trồng. Rừng tự nhiên tập trung chủ yếu ở Tây
Nguyên và khu vực miền Trung. Trong rừng sản xuất là rừng tự nhiên chỉ có 9% là rừng giàu
(trữ lượng trên 150 m
3
/ha), 33% là rừng trung bình (80-150 m
3
/ha), còn lại là rừng nghèo kiệt
và rừng non (dưới 80 m
3
/ha).

Cùng với việc mất rừng tự nhiên, môi trường sống của nhiều loài động thực vật rừng
cũng biến mất hoặc bị thoái hoá nghiêm trọng và đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho
nhiều loài sinh vật rừng đã biến mất hoặc đang có nguy cơ bị tuyệt chủng, đa dạng sinh học
đang bị suy giảm nhanh chóng.

Thực tế đã chứng tỏ nếu chỉ có các biện pháp truyền thống như luật pháp, chương
trình, công ước v.v thì khó có thể bảo vệ được số diện tích rừng tự nhiên còn lại của nhân loại,
nhất là rừng nhiệt đới tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển. Một trong những biện
pháp quan trọng hiện nay, được cả cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan
tâm là cùng với những giải pháp truyền thống trên, cần phải thiết lập quản lý rừng bền vững

(QLRBV) và chứng chỉ rừng (CCR). Khó có thể có được một định nghĩa tổng quát về
QLRBV được mọi người đồng ý. Hiện tại đã có một số định nghĩa, ví dụ như định nghĩa của
Tổ Chức Gỗ Nhiệt Đới (ITTO) như sau:

Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm phần ổn định nhằm đạt được một hoặc
nhiều hơn những mục tiêu quản lý đã được đề ra một cách rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên
tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di
15.10.2008

19
truyền và năng suất tương lai của rừng và không gây ra những tác động không mong muốn
đối với môi trường tự nhiên và xã hội.

hoặc Tiến trình Helsinki định nghĩa như sau:

Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để
duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng, và duy trì tiềm
năng của rừng trong việc thực hiện, hiện nay và trong tương lai, các chức năng sinh thái,
kinh tế và xã hội của chúng, ở cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu, và không gây ra những
tác hại đối với các hệ sinh thái khác.
Nói ngắn gọn, mục tiêu của QLRBV là phải đạt được sự bền vững môi trường, kinh tế
và xã hội ở những khu rừng được quản lý. Bằng giải pháp QLRBV rừng sẽ vừa đảm bảo đáp
ứng các nhu cầu kinh tế vừa thoả mãn các lợi ích về môi trường và xã hội. QLRBV có thể
được thiết lập và thực hiện ở những phạm vi khác nhau như: chủ rừng (lâm trường, doanh
nghiệp hay công ty lâm nghiệp, hộ lâm nghiệp v.v.), huyện, tỉnh, quốc gia, vùng, hoặc toàn
cầu, tuy nhiên những quan điểm và nguyên tắc chủ yếu nói chung không có thay đổi lớn, cho
dù là ở vùng rừng ôn đới hay nhiệt đới. Trên thế giới hiện đã có một số bộ tiêu chuẩn quản lý
rừng bền vững cấp quốc gia (Canada, Thuỵ Điển, Malaysia, Indonesia v.v) và cấp quốc tế như
của: Tiến trình Helsinki, Tiến trình Montreal, Hội Đồng Quản Trị Rừng (FSC), và của Tổ
Chức Gỗ Nhiệt Đới (ITTO). ITTO đã phổ biến tài liệu Hướng Dẫn Quản Lý Rừng của ITTO,

gồm một bộ cho rừng tự nhiên và một bộ cho rừng trồng.

Hiện nay "Những Tiêu chuẩn và Những Tiêu chí Quản Lý Rừng" (viết tắt là P&C) của
FSC quốc tế đã được công nhận và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều tổ chức được
FSC uỷ quyền cấp chứng chỉ rừng và nhiều quốc gia đã và đang dùng bộ tiêu chuẩn này để
xây dựng tiêu chuẩn cấp vùng hay cấp quốc gia cho việc đánh giá quản lý và cấp chứng chỉ
rừng. Tài liệu "Tiêu Chuẩn quốc gia về Quản Lý Rừng Bền Vững" (Tiêu chuẩn FSC Việt
Nam) được Tổ Công Tác quốc gia Việt Nam về quản lý rừng bền vững (NWG) biên soạn trên
cơ sở Bộ tiêu chuẩn của FSC quốc tế (P&C), có sử dụng những ý kiến đóng góp của nhiều
nhà quản lý và kinh doanh lâm nghiệp trong nước và quốc tế để vừa đảm bảo được những tiêu
chuẩn quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.

Vì tài liệu áp dụng cho cả nước và phải phù hợp với những tiêu chuẩn của quốc tế nên
khó có thể hoàn toàn phù hợp với từng trường hợp riêng biệt, cho nên việc áp dụng bộ tiêu
chuẩn quốc gia cần có sự linh hoạt trong phạm vi nhất định nhưng phải được Tổ công tác FSC
quốc gia (nay là Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng) chấp nhận. Những chủ rừng
đạt Tiêu chuẩn FSC Việt Nam đều có thể gửi đơn xin chứng chỉ rừng tới các tổ chức cấp
chứng chỉ do FSC uỷ quyền. Quá trình áp dụng sẽ thu được thêm những kinh nghiệm để hoàn
thiện bộ tiêu chuẩn này cho phù hợp với thực tế.


Nguyên tắc áp dụng

Tài liệu này áp dụng trong điều kiện Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc dưới đây:

1. Chứng chỉ được thực hiện trên cơ sở các chủ rừng tự nguyện đề nghị cơ quan chứng
chỉ rừng đánh giá cấp chứng chỉ. Tiêu chuẩn FSC Việt Nam được áp dụng để cấp
chứng chỉ rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng trồng.
2. Sau khi được FSC công nhận, Tiêu chuẩn FSC Việt Nam được tất cả những tổ chức sử
dụng khi đánh giá cấp chứng chỉ rừng ở Việt Nam.

15.10.2008

20
3. Tiêu chuẩn FSC Việt Nam có thể được sử dụng để đánh giá trong các chương trình cải
thiện quản lý rừng cũng như chứng chỉ rừng theo giai đoạn.
4. Tiêu chuẩn FSC Việt Nam cũng có thể được áp dụng cho quản lý các loại rừng cung
cấp các lâm sản ngoài gỗ và rừng cung cấp các dịch vụ khác.
5. Tiêu chuẩn FSC Việt Nam cần được coi là đồng bộ, thống nhất, và không có tiêu
chuẩn nào được ưu tiên theo trình tự sắp xếp.
6. Để được cấp chứng chỉ, Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (kế tục
NWG) và những tổ chức chứng chỉ đã được FSC uỷ quyền không đòi hỏi chủ rừng
phải đáp ứng đầy đủ và hoàn chỉnh Tiêu chuẩn FSC Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chủ
rừng có những vi phạm đối với bất kỳ Tiêu chuẩn nào thì thường không được cấp
chứng chỉ hoặc bị thu hồi giấy chứng chỉ đã cấp.
7. Tiêu chuẩn FSC Việt Nam cần được sử dụng phối hợp với luật pháp quốc gia và quốc
tế, với những chính sách, qui trình, hướng dẫn của FSC đối với những tổ chức chứng
chỉ.
8. Tiêu chuẩn FSC Việt Nam cần được sử dụng một cách đồng bộ với luật pháp quốc gia
và quốc tế cũng như những quy định và hướng dẫn chung của FSC quốc tế.
9. Rừng trồng trên diện tích chuyển đổi từ rừng tự nhiên sau tháng 11 năm 1994 thông
thường sẽ không đạt tiêu chuẩn để được cấp chứng chỉ trừ những trường hợp có bằng
chứng rõ ràng là chủ rừng không trực tiếp hoặc gián tiếp chịu trách nhiệm về sự
chuyển đổi đó.


&
15.10.2008

21
TIÊU CHUẨN QUỐC GIA QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG



Tiêu chuẩn 1: Tuân theo pháp luật và Tiêu chuẩn FSC Việt Nam
Chủ rừng tuân theo pháp luật, những quy định hiện hành khác của Nhà
nước và những thoả thuận quốc tế mà Nhà nước đã ký kết, đồng thời tuân
theo tất cả những tiêu chuẩn và Tiêu chí của Tiêu chuẩn FSC Việt Nam.

1.1 Chủ rừng tuân theo pháp luật hiện hành của Nhà nước và địa phương.
1.1.1 Chủ rừng lưu giữ các văn bản pháp luật, những quy định của chính quyền và cộng
đồng thôn bản có liên quan đến quản lý rừng:
a. Luật Bảo vệ và phát triển rừng;
b. Luật Đất đai;
c. Luật Bảo vệ môi trường;
d. Luật Lao động;
e. Luật Phòng cháy chữa cháy;
f. Chiến lược phát triển lâm nghiệp quốc gia;
g. Pháp lệnh Giống cây trồng;
h. Các văn bản pháp luật liên quan khác;
i. Các quy ước bảo vệ và phát triển rừng của thôn bản trên địa bàn.
1.1.2 Tất cả cán bộ, công nhân và người lao động của đơn vị nắm được nội dung những văn
bản chính có liên quan đến chức trách và nhiệm vụ của mình. Lưu trữ tài liệu tập huấn
và văn bản đã phổ biến tại đơn vị.
1.1.3 Không có vụ việc vi phạm bị UBND từ cấp huyện trở lên xử lý bằng pháp luật trong 3
năm gần đây.

1.2 Nộp đầy đủ các khoản phí, thuế, tiền thuê đất và các khoản phải nộp hợp pháp khác.
1.2.1 Có danh mục về thuế, phí, lệ phí, và các khoản đóng góp hợp pháp khác (khoản mà
đơn vị phải nộp vào ngân sách Nhà nước).
1.2.2 Có đầy đủ chứng từ của cơ quan thuế và tài chính về các khoản thuế, phí và lệ phí phải
nộp của đơn vị trong 3 năm gần đây được lưu giữ tại đơn vị.


1.3 Chủ rừng tuân thủ tất cả những điều khoản của các thoả thuận quốc tế mà Nhà nước
đã ký kết như Công ước về buôn bán các loài quý hiếm (CITES), Công ước về lao
động (ILO), Thoả thuận quốc tế về thương mại gỗ nhiệt đới (ITTA), và Công ước về
đa dạng sinh học.
1.3.1 Chủ rừng có danh mục và lưu giữ các công ước quốc tế liên quan đến hoạt động của
đơn vị mà Nhà nước đã ký kết như: Công ước CITES, Công ước về đa dạng sinh học
v.v. Chủ rừng phổ biến các tài liệu trên cho cán bộ, công nhân, người lao động của đơn
vị tuỳ theo chức trách, nhiệm vụ của từng người và lưu giữ các tài liệu đã phổ biến.
1.3.2 Không có vụ việc vi phạm các điều khoản của các Công ước quốc tế bị xử lý bằng
pháp luật trong 3 năm gần đây.

1.4 Những mâu thuẫn giữa luật pháp, quy chế, hướng dẫn v.v và Bộ tiêu chuẩn của FSC
sẽ được các tổ chức cấp chứng chỉ và các bên liên quan hoặc bị tác động xem xét cho
từng trường hợp vì mục đích chứng chỉ.

1.5 Diện tích rừng được bảo vệ tốt, chống khai thác không hợp pháp, lấn chiếm và những
hoạt động trái phép khác.
1.5.1 Có kế hoạch và biện pháp bảo vệ các khu vực dễ bị xâm hại.
15.10.2008

22
1.5.2 Không có các vi phạm về khai thác, vận chuyển mua bán gỗ và lâm sản săn bắt động
vật hoang dã trái phép và tranh chấp đất đai đã bị UBND từ cấp huyện trở lên xử lý
bằng pháp luật trong 3 năm gần đây.

1.6 Chủ rừng cam kết thực hiện lâu dài Tiêu chuẩn FSC.
1.6.1 Chủ rừng cam kết bằng văn bản thực hiện lâu dài Tiêu chuẩn FSC Việt Nam
1.6.2 Chủ rừng nắm vững và lưu giữ Tiêu chuẩn FSC Việt Nam. Tất cả cán bộ công nhân
của đơn vị được phổ biến Tiêu chuẩn FSC Việt Nam.

1.6.3 Các quy định và kế hoạch quản lý rừng của đơn vị phải phù hợp với Tiêu chuẩn FSC
Việt Nam.


Tiêu chuẩn 2: Quyền và trách nhiệm sử dụng đất
Quyền và trách nhiệm sử dụng lâu dài đất và tài nguyên rừng được xác lập rõ
ràng, tài liệu hoá và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

2.1 Có bằng chứng rõ ràng về quyền sử dụng lâu dài đối với đất (nghĩa là tên thửa đất,
những quyền theo phong tục, hoặc các hợp đồng thuê đất).
2.1.1 Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp.
Trong trường hợp chưa được cấp thì phải có một trong những văn bản do cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt sau đây:
a) Quyết định giao đất, giao rừng;
b) Hợp đồng thuê đất, thuê rừng có căn cứ pháp lý;
c) Hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp.
2.1.2 Ranh giới đất lâm nghiệp được giao, khoán và thuê được xác định rõ trên bản đồ theo
tỷ lệ phù hợp và được xác định trên thực địa bằng các dấu hiệu dễ nhận biết và bền
vững như: mốc giới, bảng, đường ranh giới tự nhiên hoặc nhân tạo, được chính quyền
địa phương và các chủ rừng có chung ranh giới thừa nhận bằng văn bản.

2.2 Cộng đồng địa phương, với những quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp hoặc theo
phong tục, sẽ duy trì việc quản lý các hoạt động lâm nghiệp, ở mức độ cần thiết, để bảo
vệ những quyền lợi hoặc tài nguyên của mình, trừ khi họ uỷ quyền cho những tổ chức
khác một cách tự nguyện.
2.2.1 Những khu hoặc đám rừng thuộc quyền quản lý của cộng đồng địa phương như rừng
thiêng, rừng ma, rừng nguồn nước (được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay
quản lý theo phong tục) nằm xen kẽ trong đất của chủ rừng phải được khoanh vẽ rõ
trên bản đồ và có ranh giới ngoài thực địa.
2.2.2 Chủ rừng có cam kết bằng văn bản tôn trọng quyền quản lý các khu rừng nói trên của

cộng đồng địa phương.
2.2.3 Chủ rừng thoả thuận bằng văn bản với cộng đồng địa phương về thu hái lâm sản trên
đất của chủ rừng.

2.3 Áp dụng những cơ chế thích hợp để giải quyết những mâu thuẫn về quyền sở hữu và
sử dụng. Mọi tình huống nảy sinh và các mâu thuẫn lớn sẽ được xem xét cẩn thận
trong quá trình đánh giá để cấp chứng chỉ. Những mâu thuẫn lớn liên quan đến lợi
ích của nhiều người thông thường được xem là không đạt yêu cầu cấp chứng chỉ.
2.3.1 Chủ rừng có thoả thuận bằng văn bản với cộng đồng địa phương về cơ chế giải quyết
các mâu thuẫn về quyền sở hữu, sử dụng đất và rừng.
2.3.2 Không có tranh chấp lớn xảy ra, nếu có thì đã được giải quyết xong và có đầy đủ hồ sơ
lưu trữ về vấn đề đã giải quyết.
2.3.3 Không tồn tại những mâu thuẫn lớn làm tổn hại đến lợi ích của nhiều bên hoặc nhiều
người.
15.10.2008

23

Tiêu chuẩn 3: Quyền của người dân sở tại
Quyền hợp pháp và theo phong tục của người dân sở tại về quản lý, sử dụng
rừng và đất của họ được công nhận và tôn trọng.

3.1 Người dân sở tại sẽ thực hiện quản lý rừng trên những diện tích đất của họ trừ khi họ
tự nguyện uỷ quyền cho cá nhân hay tổ chức khác.
3.1.1 Trong trường hợp người dân sở tại có đất lâm nghiệp nằm xen kẽ với đất của chủ rừng
mà họ tự nguyện uỷ quyền thì chủ rừng được quyền quản lý theo sự thoả thuận bằng
văn bản giữa các bên.
3.1.2 Chủ rừng không thực hiện bất kỳ hoạt động gì trên đất rừng do người dân sở tại quản
lý hợp pháp hoặc theo phong tục nếu không được họ tự nguyện đồng ý.


3.2 Việc sản xuất kinh doanh rừng không tác động xấu hoặc làm giảm, trực tiếp hoặc
gián tiếp, đến quyền sử dụng đất và sở hữu tài nguyên của người dân sở tại .
3.2.1 Chủ rừng thảo luận với người dân sở tại để xây dựng và thực hiện thoả thuận hợp tác
trong việc quản lý và bảo vệ rừng, quyền sử dụng đất và sở hữu các nguồn tài nguyên
rừng khác của cả hai bên. Quy ước này được các bên thông qua, tôn trọng và thực
hiện.
3.2.2 Việc sản xuất kinh doanh rừng của chủ rừng nếu có tác động xấu hoặc làm giảm, trực
tiếp hoặc gián tiếp, đến quyền sử dụng đất và sở hữu rừng của người dân sở tại thì phải
được bàn bạc thống nhất giữa hai bên. Khi chủ rừng gây thiệt hại đến những quyền lợi
trên của người dân sở tại thì chủ rừng phải đền bù thoả đáng.

3.3 Những nơi có ý nghĩa đặc biệt về văn hoá, sinh thái, kinh tế, hoặc tôn giáo đối với dân
sở tại sẽ được xác định rõ ràng với sự hợp tác của họ, và được công nhận và bảo vệ
bởi những người quản lý rừng.
3.3.1 Những địa danh có ý nghĩa về văn hoá, lịch sử, sinh thái, kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng
đối với người dân sở tại được xác định rõ ràng trên bản đồ và trên thực địa, có biển
hiệu và quy ước bảo vệ những địa danh đó và có sự nhất trí của người dân sở tại .
3.3.2 Chủ rừng không xâm phạm hoặc sử dụng sai quy ước bảo vệ các khu rừng nói trên và
được cộng đồng địa phương ghi nhận.

3.4 Người dân sở tại được chi trả cho việc áp dụng những kiến thức truyền thống của họ
đồi với việc sử dụng các loài cây rừng hoặc các hệ thống quản lý rừng. Sự chi trả này
phải được dân sở tại tự nguyện, nhất trí chính thức trước khi những hoạt động lâm
nghiệp bắt đầu.
3.4.1 Chủ rừng lập danh mục các kiến thức truyền thống của người dân sở tại với sự tham
gia tự nguyện của họ (kể cả những kiến thức chưa được Nhà nước công nhận).
3.4.2 Chủ rừng thoả thuận bằng văn bản với người dân sở tại về việc sử dụng những kiến
thức truyền thống trong danh mục đã lập trên, và cơ chế chi trả cho người dân nếu các
kiến thức này được sử dụng cho mục đích thương mại. Có chứng từ tài chính thể hiện
việc đã chi trả.



Tiêu chuẩn 4: Quan hệ cộng đồng và quyền của công nhân
Những hoạt động quản lý kinh doanh rừng có tác dụng duy trì hoặc tăng
cường phúc lợi kinh tế xã hội lâu dài của công nhân lâm nghiệp và các cộng
đồng địa phương.

15.10.2008

24
4.1 Những cộng đồng sinh sống ở trong hoặc gần diện tích rừng quản lý được tạo cơ hội
về việc làm, đào tạo và những dịch vụ khác.
4.1.1 Chủ rừng sử dụng tối đa lao động tại địa phương vào các hoạt động quản lý, kinh
doanh rừng và đảm bảo quyền lợi của người lao động theo quy định của pháp luật. Có
các tài liệu về hợp đồng lao động và chứng từ tài chính trả công cho người lao động
địa phương.
4.1.2 Chủ rừng tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo phù hợp với nhu cầu sử dụng để nâng cao
trình độ nghề nghiệp cho người lao động. Có các tài liệu lưu trữ về tập huấn và đào
tạo.
4.1.3 Trong quá trình hoạt động quản lý rừng của mình, chủ rừng có đóng góp vào phát triển
các dịch vụ cho sản xuất và đời sống trên địa bàn. Những đóng góp của chủ rừng được
thể hiện bằng các công trình và các dịch vụ cụ thể.
4.1.4 Chủ rừng đề nghị bằng văn bản với chính quyền địa phương giao đất thổ cư, đất nông
nghiệp cho công nhân viên thuộc đơn vị quản lý để bảo đảm tính công bằng so với
người dân địa phương.

4.2 Chủ rừng thực hiện đúng hoặc vượt những tiêu chuẩn hiện hành của luật pháp về
bảo vệ sức khoẻ, an toàn lao động cho người lao động và gia đình họ.
4.2.1 Chủ rừng đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo luật cho người lao động và tạo
điều kiện cho họ tiếp cận với các phúc lợi xã hội khác.

4.2.2 Chủ rừng cập nhật đầy đủ thông tin và phổ biến cho người lao động các quy định hiện
hành của Nhà nước về an toàn lao động và bảo vệ sức khoẻ của người lao động lâm
nghiệp.
4.2.3 Chủ rừng cung cấp đầy đủ trang thiết bị an toàn lao động kèm theo quy trình vận hành
cho người lao động.
4.2.4 Chủ rừng xác định các khu vực dễ xảy ra tai nạn lao động và có các biện pháp phòng
ngừa; hướng dẫn bảo quản và sử dụng các loại vật tư, trang thiết bị dễ gây tai nạn.

4.3. Công nhân được đảm bảo quyền đề đạt ý kiến và thương thảo tự nguyện với người sử
dụng lao động như đã ghi trong Công ước 87 và 98 của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế
(ILO).
4.3.1 Các Công ước 87 và 98 của ILO được lưu trữ và phổ biến cho công nhân trong đơn vị.
4.3.2 Chủ rừng xây dựng và thực hiện đầy đủ các quy định về dân chủ ở cơ sở, lấy ý kiến
của công nhân về những vấn đề có liên quan đến đời sống và việc làm của họ và phát
huy sáng kiến nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng rừng và đất lâm nghiệp.

4.4 Kế hoạch quản lý và thực thi phải bao gồm những kết quả đánh giá về mặt tác động
xã hội. Việc tham khảo ý kiến của người dân và những nhóm người chịu tác động
trực tiếp của hoạt động quản lý rừng phải được duy trì.
4.4.1 Tuỳ theo cường độ và quy mô kinh doanh, định kỳ 3-5 năm phải có đánh giá tác động
xã hội về hoạt động của đơn vị. Trường hợp đột xuất phải có đánh giá và xử lý kịp
thời.
4.4.2 Các kết quả đánh giá tác động xã hội của quản lý rừng được phổ biến đến người dân
và các nhóm người trực tiếp chịu ảnh hưởng của các tác động ấy; và được sử dụng
trong việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch quản lý rừng.
4.4.3 Hàng năm chủ rừng tổ chức các cuộc họp để tham khảo ý kiến của nhân dân và nhóm
người chịu tác động trực tiếp của các hoạt động quản lý rừng của đơn vị.
4.4.4 Kế hoạch của đơn vị được xây dựng không mâu thuẫn với kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội của địa phương.


4.5 Có cơ chế giải quyết những khiếu nại và thực hiện đền bù công bằng trong trường
hợp làm mất hoặc gây thiệt hại đến những quyền lợi hợp pháp hoặc theo phong tục,
15.10.2008

25
đến tài sản, tài nguyên, hoặc cuộc sống của người dân địa phương. Phải có những
biện pháp phòng ngừa những tác hại như vậy.
4.5.1 Trong kế hoạch quản lý rừng cần lường trước những tác động xấu đến quyền lợi, tài
sản của người dân và có giải pháp ngăn ngừa và khắc phục hậu quả.
4.5.2 Chủ rừng xây dựng và thống nhất với người dân địa phương về cơ chế giải quyết
khiếu nại, tranh chấp và đền bù những thiệt hại đến quyền lợi và tài nguyên rừng của
người dân địa phương do hoạt động quản lý rừng của đơn vị gây ra.
4.5.3 Những thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp, tài sản và tài nguyên hoặc cuộc sống của
người dân địa phương được đền bù thoả đáng. Có tài liệu lưu trữ minh chứng việc này.


Tiêu chuẩn 5: Những lợi ích từ rừng
Những hoạt động quản lý rừng có tác dụng khuyến khích sử dụng có hiệu
quả các sản phẩm và dịch vụ đa dạng của rừng để đảm bảo tính bền vững
kinh tế và tính đa dạng của những lợi ích môi trường và xã hội.

5.1 Quản lý rừng phấn đấu tới mục tiêu bền vững về kinh tế trong khi vẫn quan tâm đầy
đủ đến những vấn đề về môi trường và xã hội, chi phí sản xuất và đảm bảo dành
những đầu tư cần thiết để duy trì năng suất sinh thái của rừng.
5.1.1 Kế hoạch quản lý rừng (phương án điều chế rừng) được xây dựng theo những nội
dung của tiêu chuẩn 7 và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
5.1.2 Có tài liệu lưu trữ về đầu tư và tái đầu tư cho các hoạt động về kinh tế, xã hội và môi
trường.
5.1.3 Báo cáo tài chính, quyết toán hàng năm và kiểm toán của đơn vị chỉ ra được hiệu quả
đầu tư và tái đầu tư đủ để duy trì năng suất và các chức năng sinh thái của rừng.


5.2 Quản lý rừng và các hoạt động tiếp thị có tác dụng khuyến khích sử dụng và chế biến
tối ưu tại địa phương những sản phẩm đa dạng của rừng.
5.2.1 Có bằng chứng rõ ràng rằng chủ rừng đã có nỗ lực tối ưu hoá sản xuất, xây dựng cơ sở
chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ tại chỗ.
5.2.2 Chủ rừng có danh mục các sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ do đơn vị chế biến trong
3 năm gần đây.
5.2.3 Chủ rừng có hoạt động tiếp thị cho các sản phẩm và dịch vụ.

5.3 Quản lý rừng hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất, phế thải trong quá trình
khai thác, chế biến tại chỗ và tránh gây tổn hại cho những nguồn tài nguyên khác của
rừng.
5.3.1 Thiết kế khai thác và quy trình chế biến có áp dụng các biện pháp kỹ thuật và công
nghệ giảm thiểu tỷ lệ tổn thất và phế thải. Chủ rừng áp dụng hướng dẫn “Khai thác
giảm thiểu tác động”.
5.3.2 Có biên bản nghiệm thu đánh giá rừng sau khai thác chậm nhất sau 3 tháng. Các
khuyết điểm và khuyến nghị khắc phục ghi trong biên bản được xử lý trong thời hạn 6
tháng kể từ ngày ký biên bản nghiệm thu.
5.3.3 Có hệ thống đường vận xuất, vận chuyển, bãi gỗ phù hợp với thiết kế khai thác và
giảm thiểu tác động xấu của khai thác đến môi trường.
5.3.4 Có bằng chứng sử dụng các thiết bị khai thác, vận xuất phù hợp với điều kiện sản xuất
ít gây tổn hại đến rừng. Có cán bộ kỹ thuật thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra việc
khai thác, phương tiện vận chuyển bảo đảm quy trình kỹ thuật.

×