Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bài tập tình huống nhóm tháng 2 Luật thương mại module 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.15 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực 1
2. Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo
và bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài 4
a. Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán
gạo 4
b. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài 8
3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao? 11
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A. Nếu yêu cầu bồi thường thiệt
hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp pháp, hãy xác định giá trị bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B phải chịu? 12
BÀI LÀM
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực
1
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác
lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên không phải mọi thỏa thuận
của các bên đều được pháp luật thừa nhận mà chỉ có những thỏa thuận tuân
theo quy định của pháp luật mới có hiệu lực. Luật thương mại (LTM) 2005
không có quy định cụ thể về điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu
lực, vì vậy khi xem xét hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa cần dựa trên
những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật
Dân sự (BLDS) 2005. Điều 122, BLDS 2005 quy định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a, Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b, Mục đích và nội dụng của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
c, Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.


2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
trong trường hợp pháp luật có quy định”.
Căn cứ vào quy định của BLDS 2005 và các quy định có liên quan, có
thể xác định một hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực khi có đủ các điều
kiện sau đây:
Thứ nhất, các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải có
năng lực chủ thể thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn chủ thể
tham gia hợp đồng mua bán chủ yếu là các thương nhân. Khi tham gia hợp
đồng mua bán nhằm mục đích lợi nhuận các thương nhân phải đáp ứng điều
kiện có đăng kí kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được mua bán. Trường
hợp mua bán sản phẩm, hàng hóa có đăng kí kinh doanh, thương nhân phải
đáp ứng các điều kiện kinh doanh đó theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đại diện của các bên giao kết hợp đồng mua bán phải đúng
thẩm quyền. Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Khi xác định thẩm quyền giao kết hợp
đồng mua bán, theo quy định tại Điều 145 BLDS 2005, khi người không có
2
quyền đại diện giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán sẽ không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ đối với bên thực hiện hợp đồng đại diện trừ trường hợp phải
được người đại diện hợp pháp của bên đại diện chấp thuận. Bên đã giao kết
hợp đồng với người không có thẩm quyền đại diện phải thông báo cho bên kia
để trả lời trong thời hạn ấn định, nếu hết thời hạn này mà không có trả lời thì
hợp đồng đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ với bên được đại diện
nhưng người không có thẩm quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối
với bên đã giao kết hợp đồng với mình trừ trường hợp bên đã giao kết biết
hoặc phải biết về việc có quyền đại diện.
Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
không bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào từng
giai đoạn kinh tế, xuất phát từ yêu cầu quản lí nhà nước mà những hàng hóa

bị cấm kinh doanh được pháp luật quy định một cách phù hợp. Vì vậy đối
tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là những hàng hóa được pháp
luật cho phép trao đổi, mua bán.
Thứ tư, hợp đồng mua bán được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của
hợp đồng theo quy định của pháp luật. Việc quy định các nguyên tắc giao kết
hợp đồng nhằm đảm bảo sự thỏa thuận của các bên phù hợp với ý chí thực
của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng của các bên đồng thời không
xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Việc giao kết hợp đồng
nói chung và hợp đồng mua bán phải tuân theo các nguyên tắc: tự do giao kết
nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện
chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Những hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa
dối để giao kết hợp đồng,… là lí do dẫn đến hợp đồng mua bán không có hiệu
lực.
Thứ năm, hình thức hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp
luật. Điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định hợp đồng mua bán hàng hóa
được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
3
Đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được
lập thành văn bản thì cần phải tuân theo quy định đó. Trường hợp các bên
không tuân thủ hình thức hợp đồng khi pháp luật có quy định thì hợp đồng vô
hiệu khi kí kết.
Ngoài ra, Luật Thương mại còn có quy định riêng về điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân người nước ngoài như
chủ thể bên Việt Nam phải là thương nhân được phép hoạt động thương mại
trực tiếp với người nước ngoài, hàng hóa phải là hàng hóa được phép mua bán
theo quy định của pháp luật nước bên mua và nước bên bán, …
2. Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán
gạo và bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài
a. Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán

gạo
Luật Trọng tài Thương mại (TTTM) 2010 không quy định cụ thể về các
điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, dựa vào quy định về
các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu có thể xác định được các điều kiện
đảm bảo cho một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Cụ thể, Điều 18 Luật
TTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau:
“1. Tranh chấp pháp sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền
của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.
3. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại
Điều 16 của Luật này.
4
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác
lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô
hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”.
Từ quy định trên, có thể thấy, để xem xét thỏa thuận trọng tài trong tình
huống có hiệu lực hay không cần dựa vào các tiêu chí sau:
• Về đối tượng của thỏa thuận trọng tài
Đối tượng của thỏa thuận trọng tài phải là các lĩnh vực thuộc thẩm
quyền của trọng tài được quy định tại Điều 2 Luật TTTM 2010, bao gồm:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng trọng tài”.
Xét tình huống, Công ty cổ phần A và Công ty cổ phần B là 2 thương

nhân, mục đích của 2 bên khi tiến hành mua bán hàng hóa (mua bán gạo) là
mục đích sinh lợi. Vì vậy, hoạt động mua bán gạo mà 2 bên thực hiện là hoạt
động thương mại được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005.
Từ đó, có thể thấy, tranh chấp về hoạt động mua bán gạo của 2 bên là tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại – đối tượng của thỏa thuận trọng tài.
Nhận xét : đối tượng thỏa thuận trọng tài giữa Công ty cổ phần A và
Công ty cổ phần B là phù hợp với quy định của Luật TTTM 2010.
• Về thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài
Người ký kết thỏa thuận trọng tài phải là người có thẩm quyền ký kết.
Theo như tình huống thì chủ thể của thỏa thuận trọng tài là Công ty cổ phần A
và Công ty Cổ phần B, người trực tiếp ký kết thỏa thuận trọng tài là giám đốc
của 2 công ty. Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp theo quy định tại
Luật Doanh nghiệp 2005, người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài của
loại hình doanh nghiệp này là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty hoặc
người được mỗi công ty ủy quyền hợp pháp để tham gia ký kết thỏa thuận
trọng tài. Tại Điều 95 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Chủ tịch Hội
5
đồng quản trị hoặc Giám đôc hoặc Tổng giám đốc là đại diện theo pháp luật
của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”. Như vậy, giám đốc Công ty Cổ
phần có thể là đại diện theo pháp luật của công ty hoặc không, tùy vào quy
định tại điều lệ công ty. Chính vì vậy, nhóm chia thành 2 trường hợp sau:
- Trường hợp 1: Giám đốc Công ty A và Giám đốc Công ty B là đại diện
theo pháp luật của mỗi công ty hoặc là người được 2 công ty ủy quyền để ký
kết thỏa thuận trọng tài. Trong trường hợp này thì Giám đốc của 2 công ty thỏa
mãn yêu cầu về chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài được quy định tại Luật
TTTM 2010.
- Trường hợp 2: Giám đốc Công ty A và Giám đốc ty B không phải là đại
diện theo pháp luật của mỗi công ty và cũng không phải là người được mỗi
công ty ủy quyền hợp pháp để ký kết thỏa thuận trọng tài. Với trường hợp này
thì giám đốc của 2 công ty không đáp ứng điều kiện về chủ thể của thỏa thuận

trọng tài theo quy định tại Luật TTTM 2010.
• Về năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài
Người ký kết thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự theo
quy định tại BLDS 2005. “Người ký kết” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức
là bao gồm cả chủ thể của thỏa thuận trọng tài và người trực tiếp ký kết thỏa
thuận trọng tài. Xét tình huống, do người ký kết thỏa thuận trọng tài là giám
đốc của 2 công ty nên nhóm mặc định 2 người này phải có năng lực hành vi
theo quy định của BLDS 2005. Về 2 công ty A và B, sau khi ký kết hợp đồng
mua bán gạo với nhau, Công ty B đã không giao hàng cho Công ty A, Công ty
A yêu cầu Công ty B bồi thường thiệt hại nhưng Công ty B không đồng ý và
xảy ra tranh chấp. Điều này có nghĩa đây là 2 công ty tồn tại và đang hoạt động
trên thực tế nên nhóm cũng mặc định chúng có năng lực hành vi dân sự.
Nhận xét : chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài ở tình huống thỏa mãn yêu
cầu về chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật TTTM 2010.
• Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
6
Khoản 1 Điều 16 Luật TTTM 2010 quy định : “Thỏa thuận trọng tài
có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc
dưới hình thức thỏa thuận riêng”. Khoản 2 Điều này quy định thỏa thuận trọng
tài phải được xác lập dưới dạng văn bản và quy định một số thỏa thuận cũng
được coi là xác lập dưới dạng văn bản.
Xét tình huống, thỏa thuận trọng tài giữa Công ty A và Công ty B được
xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo. Hợp
đồng mua bán gạo được lập thành văn bản và được 2 bên ký kết.
Nhận xét : thỏa thuận trọng tài của 2 công ty đảm bảo yêu cầu về hình
thức theo quy định tại Luật TTTM 2010.
• Về ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài
Các bên phải hoàn toàn tự nguyện khi giao kết thỏa thuận trọng tài.
Theo như quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật TTTM 2010 thì nếu một trong
các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng

tài và phải có thêm điều kiện là: có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là
vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài mới bị vô hiệu. Xét tình huống, không hề có
yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Hơn nữa, theo nhóm suy luận,
hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên nhằm xác lập, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng mua bán gạo là kết qủa thỏa
thuận của 2 bên, trong đó mỗi bên đều nhằm đạt được mục đích lợi nhuận của
mình. Thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng mua bán gạo, là
thỏa thuận của các bên về phương thức giải quyết tranh chấp. Do đó, theo
nhóm thì thỏa thuận trọng tài trong tình huống được xây dựng trên cơ sở tự
nguyện, thống nhất ý chí của các bên.
Nhận xét : thỏa thuận trọng tài trong tình huống thỏa mãn yêu cầu về ý
chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài được quy định tại Luật TTTM
2010.
• Về nội dung của thỏa thuận trọng tài : thỏa thuận trọng tài phải không
được vi phạm điều cấm của pháp luật.
7
Xét tình huống: Thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công ty B có nội
dung: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng
tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành”. Như vậy,
nội dung của thỏa thuận trọng tài này không hề vi phạm điều cấm của pháp
luật nên thỏa mãn yêu cầu về nội dung của thỏa thuận trọng tài theo quy định
tại Luật TTTM 2010.
Kết luận chung: Trong các điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài theo quy định tại Luật TTTM 2010, thỏa thuận trọng tài của Công ty A với
Công ty B thỏa mãn yêu cầu về đối tượng, hình thức, nội dung của thỏa thuận
trọng tài, năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài, ý chí của các bên khi xác lập
thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên còn điều kiện về thẩm quyền ký kết thỏa thuận
trọng tài tình huống không nêu rõ nên nhóm đưa ra kết luận sau:
- Nếu giám đốc Công ty A và giám đốc Công ty B là đại diện theo pháp
luật của mỗi công ty hoặc là người được 2 công ty ủy quyền để ký kết thỏa

thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài của 2 công ty có hiệu lực.
- Nếu giám đốc Công ty A và Giám đốc ty B không phải là đại diện theo
pháp luật của mỗi công ty và cũng không phải là người được mỗi công ty ủy
quyền hợp pháp để ký kết thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài giữa 2
công ty không có hiệu lực pháp luật.
b. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài
Như trên đã phân tích, từ quy định tại Điều 18 Luật TTTM 2010, có
thể thấy, các điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực bao gồm: đối tượng
của thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài, năng lực chủ
thể ký kết thỏa thuận trọng tài, hình thức của thỏa thuận trọng tài, ý chí của các
bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài, nội dung của thỏa thuận trọng tài
• Về đối tượng của thỏa thuận trọng tài
Đối tượng của thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 2 Luật TTTM
2010. Quy định này đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài ở mức độ nhất định,
không quá rộng cũng không quá hẹp. Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi
8
cho các bên khi tiến hành giao kết thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, so với các
nước khác trên thế giới, thẩm quyền giải quyết của trọng tài Việt Nam còn hẹp,
hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thẩm quyền của trọng tài rất rộng.
Ví dụ Luật Trọng tài Trung Quốc quy định mọi tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng hoặc quyền sở hữu giữa các công dân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác
trên cơ sở bình đẳng đều có thể được giải quyết bằng thỏa thuận trọng tài
(Điều 2), đồng thời loại trừ các tranh chấp không được giải quyết bằng trọng
tài bao gồm các tranh chấp liên quan đến hôn nhân, nhận nuôi con nuôi, giám
hộ và thừa kế, tranh chấp hành chính (Điều 3). Điều 1 Luật Trọng tài Braxin
quy định: “Những người có khả năng ký kết hợp đồng có thể đưa ra trọng tài
để giải quyết các tranh chấp liên quan đến các quyền về tài sản mà họ có
quyền quyết định”.
• Thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài

Một trong những vấn đề ảnh hưởng tới hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
là thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài chỉ có hiệu lực
pháp lý ràng buộc các bên khi người ký kết thỏa thuận trọng tài có thẩm quyền
ký kết. Khi thỏa thuận trọng tài được ký kết bởi người không có thẩm quyền
thì thỏa thuận đó không thể hiện được ý chí đích thực của các bên. Do đó, thỏa
thuận trọng tài sẽ không còn ý nghĩa. Khoản 2 Điều 18 Luật Trọng tài 2010
quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “người xác lập thỏa thuận trọng tài
không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật”.
Tranh chấp giữa cá nhân với nhau thì cá nhân đó chính là người có thẩm
quyền ký kết thỏa thuận trọng tài. Các cá nhân này có thể ủy quyền cho người
khác ký kết thỏa thuận trọng tài. Việc ủy quyền này phải tuân theo các quy
định của Bộ luật Dân sự 2005 về đại diện theo ủy quyền. Đối với tranh chấp
phát sinh giữa pháp nhân với pháp nhân thì người có thẩm quyền ký kết thỏa
thuận trọng tài là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp
nhân (khoản 3 Điều 86 Bộ luật Dân sự 2005). Luật Doanh nghiệp 2005 đã
quy định người đại diện theo pháp luật của từng loại hình doanh nghiệp cụ thể.
9
Như vậy, quy định về thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài trong Luật
TTTM 2010 không thay đổi so với quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương
mại năm 2003. Quy định này là hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật
liên quan, tạo ra sự thống nhất khi áp dụng.
• Về năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài
Theo như quy định tại Luật TTTM 2010 thì người xác lập thỏa thuận
trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự
2005. “Người xác lập thỏa thuận” ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng, tức là
cả cá nhân và pháp nhân bởi có những trường hợp một bên ký kết thỏa thuận
trọng tài là doanh nghiệp không còn tồn tại trên thực tế và cũng không có tổ
chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ, vì vậy mà thỏa thuận trọng tài đã ký không
còn tồn tại trện thực tế nữa.
Quy định này của Luật TTTM cũng không có thay đổi so với Pháp lệnh

Trọng tài thương mại 2003.
• Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Hình thức của thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 16 Luật
TTTM 2010. So với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2005 thì Luật TTTM
2010 đã mở rộng hình thức của thỏa thuận trọng tài, tạo điều kiện tốt nhât cho
các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài.
• Về ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài
Khoản 1 Điều 3 Luật TTTM quy định: “Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành
theo quy định của luật này”.Như vậy, thỏa thuận là yếu tố không thể thiếu đối
với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Do đó,
khoản 5 Điều 18 Luật TTTM đã quy định nếu một trong các bên bị lừa dối,
đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thảo thuận trọng tài và có yêu cầu
tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài đó bị vô hiệu.
Quy định này là hợp lý bởi nếu một trong các bên không có sự tự nguyện ý chí
khi xác lập thỏa thuận trọng tài nhưng lại không có yêu cầu tuyên bố thỏa
10
thuận trọng tài này vô hiệu tức là đã “ngầm” chấp thuận thỏa thuận trọng tài đã
ký kết.
• Về nội dung của thỏa thuận trọng tài
Đây là điều kiện không được quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương
mại 2003. Khoản 6 Điều 18 Luật TTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài
vô hiệu khi vi phạm điều cấm của pháp luật. Bổ sung này là rất hợp lý bởi điều
cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất định. Một thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm
của pháp luật thì chắc chắn phải bị vô hiệu.
Kết luận chung: Luật TTTM 2010 khi quy định về điều kiện có hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài đã khắc phục được những điểm hạn chế, thiếu sót
của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho
các bên khi xác lập thỏa thuận

3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao?
Như đã phân tích ở trên, sẽ có hai trường hợp xảy ra:
TH1: Nếu giám đốc Công ty A và giám đốc Công ty B là đại diện theo
pháp luật của mỗi công ty hoặc là người được 2 công ty ủy quyền để ký kết
thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài của 2 công ty có hiệu lực.
Tháng 1/2012, giám đốc công ty cổ phần A ký hợp đồng mua 1000 tấn
gạo (giá: 10.000 đồng/kg) với giám đốc công ty cổ phần B. Đến thời hạn giao
hàng, công ty B không giao được hàng cho công ty A. Do đó, công ty A
không thực hiện được hợp đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 200
triệu đồng. Công ty A gửi thông báo yêu cầu công ty B bồi thường thiệt hại
500 triệu đồng và chịu phạt 8% giá trị hợp đồng nhưng công ty B không chấp
thuận. Đáng lưu ý là mặc dù đã có thỏa thuận rằng “Mọi tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành.” Nhưng Công ty A quyết định khởi kiện ra
Tòa án luôn mà không thông qua trọng tài thương mại.
11
Điều 6 Luật TTTM 2010 quy định: “Trong trường hợp các bên tranh
chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án
phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả
thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Khi mà thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công ty B không bị vô
hiệu và hoàn toàn có thể thực hiện được thì Tòa án phải từ chối thụ lý đơn
khởi kiện của Công ty A.
TH2: Nếu giám đốc Công ty A và Giám đốc ty B không phải là đại diện
theo pháp luật của mỗi công ty và cũng không phải là người được mỗi công ty
ủy quyền hợp pháp để ký kết thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài giữa 2
công ty không có hiệu lực pháp luật.
Khoản 1, Điều 167 Bộ luật tố tụng dân sự có quy định, tòa án phải
“Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình”.

Như ta đã thấy, đây là vụ án tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hóa giữa hai doanh nghiệp, thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án quy
định tại Điểm a, khoản 1, Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự:
“ Điều 29: Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hóa; ”
Thỏa thuận trọng tài của hai bên là vô hiệu, vì vậy theo quy định tại
Điều 6 Luật Trọng tài thương mại 2010 và căn cứ theo Bộ luật Tố tụng
dân sự, Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của Công ty A.
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu
bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A. Nếu yêu cầu bồi
12
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp pháp, hãy xác
định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B phải
chịu?
Công ty B đã vi phạm hợp đồng và gây tổn thất cho công ty A. Vì vậy,
việc công ty A yêu cầu công ty B bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm là hợp
lý và hợp pháp, dựa vào các căn cứ pháp lý sau đây:
• Về yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty A: Vấn đề này được quy
định trong Chương VII “Chế tài trong thương mại và giải quyết tranh
chấp trong thương mại” Luật Thương mại 2005 mà cụ thể là trong Điều
302.
“Điều 302. Bồi thường thiệt hại:
1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất
do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.”
Như trường hợp của công ty A, vì công ty B đã vi phạm hợp đồng dẫn
tới thiệt hại cho công ty A, đồng thời, hành vi vi phạm của công ty B cũng

thỏa mãn các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định
tại Điều 303 LTM 2005 là:
Điều 303. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật
này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng: Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện,
thực hiện không đúng, không đầy đủ thì bị coi là vi phạm nghĩa vụ . Để xác
định một hành vi có phải là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hay không cần căn cứ
vào nghĩa vụ được xác lập theo hợp đồng. Việc không thực hiện hoặc chỉ thực
hiện một phần nghĩa vụ đó đều bị coi là hành vi vi phạm hợp đồng.
13
+ Có thiệt hại thực tế xảy ra: Hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là
điều kiện đầu tiên để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng như
vậy vẫn chưa đủ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có thiệt
hại thực tế xảy ra cho bên bị vi phạm.
+ Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại:
Ở đây tức là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt
hại thực tế.
Theo như dữ kiện đầu bài nêu, thì rõ ràng hành vi của công ty B là không
giao đúng và đủ số gạo như đã thỏa thuận trong hợp đồng ban đầu giữa hai
công ty là hành vi vi phạm hợp đồng. Và vì hành vi của công ty B đã dẫn tới
hậu quả là công ty A đã không có đủ số gạo để giao cho đối tác và bị phạt vi
phạm 200 triệu đồng. Ta có thể thấy hành vi không giao đủ số gạo của công ty
B là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc công ty A bị đối tác phạt vi phạm.
• Về việc phạt vi phạm mà công ty A áp dụng đối với công ty B
Cơ sở pháp lý của yêu cầu này xuất phát từ Điều 300 Luật Thương mại
2005:

“Điều 300. Phạt vi phạm
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một
khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ
các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.”
Như đã phân tích, trong trường hợp này, công ty B là bên vi phạm hợp
đồng, do đó công ty có thể yêu cầu công ty B trả cho mình một khoản tiền
phạt vi phạm. Tuy nhiên, khác với yêu cầu bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm
chỉ đặt ra trong trường hợp trong hợp đồng hai bên đã thỏa thuận rõ là nếu
nếu bên nào vi phạm sẽ bị phạt vi phạm. Tức là hợp đồng trên thực tế của
công ty A và công ty B phải có nội dung quy định về vấn đề phạt vi phạm
này.
14
Khi xem xét vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm cùng
một hợp đồng thì ta cần chú ý đến quy định tại Điều 307 Luật Thương mại
2005:
“Điều 307. Quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường
thiệt hại
1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi
phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm
có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ
trường hợp Luật này có quy định khác.”
Quy định này để khẳng định thêm về vấn đề thỏa thuận giữa các bên về
phạt vi phạm trong hợp đồng. Tức là nếu công ty A muốn yêu cầu bồi thường
thiệt hại và phạt vi phạm của mình được Tòa án chấp nhận thì phải thỏa mãn
quy định tại Điều 307 Luật Thương mại 2005.
Về mức bồi thường thiệt hại và mức phạt vi phạm mà công ty B phải
chịu:
- Về mức bồi thường thiệt hại: Được quy định tại Khoản 2 Điều 302 Luật

Thương mại 2005:
“2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực
tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp
mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.
Theo như đầu bài đã cho, công ty A bị bên đối tác phạt vi phạm 200
triệu đồng, đây là tổn thất thực tế, trực tiếp mà công ty A (bên bị vi phạm)
phải chịu do công ty B (bên vi phạm) gây ra. Vậy nên công ty B phải bồi
thường cho công ty A số tiền này. Ngoài ra, công ty B phải bồi thường thêm
một khoản tiền được coi là “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ
được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Vấn đề xác định khoản lợi trực
tiếp ở đây là bao nhiêu thì sẽ tùy thuộc vào sự chứng minh của công ty A.
15
Chúng ta không thể ấn định một con số cụ thể bởi trên thực tế, Luật Thương
mại 2005 và ngay cả trong BLDS 2005 cũng không hề có quy định giới hạn
mức bồi thường thiệt hại.
- Về mức phạt vi phạm: Được quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005.
“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối
với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá
8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại
Điều 266 của Luật này”
Do trên thực tế, công ty B chưa hề giao cho công ty A số gạo như đã
ghi trong hợp đồng nên trong trường hợp này “phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm” được hiểu là toàn bộ giá trị của hợp đồng. Giá trị hợp đồng giữa hai
công ty này trị giá là 10 tỷ VNĐ. Vậy 8% của 10 tỷ là 800 triệu đồng
Như vậy, tổng hợp cả hai khoản là bồi thường thiệt hại và phạt vi
phạm (nếu yêu cầu được Tòa án chấp nhận) thì số tiền công ty B phải trả
cho công ty A là 1 tỷ VNĐ cộng thêm số tiền là khoản lợi trực tiếp mà
công ty A chứng minh được là công ty mình đáng lẽ đã được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm của công ty B (nếu được Tòa án chấp nhận).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

16
1. Giáo trình Luật Thương mại tập II - Trường Đại học Luật Hà Nội - Nhà
xuất bản Công an nhân dân/ Hà Nội – 2006.
2. Luật Thương mại 2005.
3. Bộ luật Dân sự 2005
4. Luật doanh nghiệp 2005
5. Luật Trọng tài thương mại 2010.
6. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
17

×