Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Truyện viết về miền núi trong giai đoạn 1930 - 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.48 KB, 26 trang )


1

Bộ giáo dục v đo tạo
TRờng đại học s phạm h nội




Nguyễn thanh trờng




Truyện viết về miền núi
trong giai đoạn 1930 - 1945



Chuyên ngành: Lí lun vn hc
Mã số: 62.22.32.01




tóm tắt luận án tiến sĩ ngữ văn



H nội 2008


2


Công trình đợc hoàn thành tại:
TổLý luận Khoa Ngữ văn Trờng Đại học S phạm Hà Nội


Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS.TSkh. Nguyễn nghĩa trọng
PGS. TS. Trần mạnh tiến




Phản biện 1: PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp
Phản biện 2: PGS. TS Đoàn Đức Phơng
Phản biện 3: PGS. TS Ngô Văn Giá



Luận án đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm Luận án
cấp nhà nuớc
Họp tại: Th viện Trờng Đại học s phạm Hà Nội

Vào hồi: 08giờ 30 ngày 08 tháng 06 năm 2008






Có thế tìm hiểu luận án tại tại Th viện Quốc gia,
Th viện Trờng Đại học s phạm Hà Nội










3

mở đầu


1. Lý do chọn đề tài
Từ đầu thế kỷ XX nền văn học Việt Nam bớc vào thời kỳ hiện đại dẫn tới
cuộc cách tân về quan niệm nghệ thuật và sáng tác trong giai đoạn 1930-1945, phân
chia thành nhiều xu hớng trong quá trình phát triển, mở ra nhiều con đờng sáng tác
cho các nhà văn. Trong đó, cuộc sống con ngời miền núi là mảng hiện thực vô cùng
phong phú, hấp dẫn đã thu hút nhiều cây bút đơng thời nh Lan Khai với các
Truyện đờng rừng, Thế Lữ với tập Vàng và máu, TChya với Thần Hổ, Ai hát
giữa rừng khuya, Lu Trọng L với Ngời sơn nhân, Khái Hng với Tiếng khèn,
Nhất Linh với Lan rừng, Nguyễn Tuân với Đỉnh non Tản, Vũ Bằng với Cô gái
Thổ quàng khăn đỏ, Vũ Trọng Phụng với Đi săn khỉ, Thanh Tịnh với Ngậm ngải
tìm trầm, Hồ Dzếnh với Trong bóng rừng, Lý Văn Sâm với tập Kòn trôvv Sự
xuất hiện những sáng tác của họ đã mở ra một thời kỳ mới cho nền văn xuôi viết về
rừng núi.

Mặc dù truyện viết về miền núi giai đoạn 1930-1945 đã đạt đợc những thành
tựu nhất định nhng hoạt động nghiên cứu vẫn cha toàn diện và hệ thống, cha
tơng xứng với những đóng góp của các nhà văn. Đây là một thực tế sáng tác làm nẩy
sinh những vấn đề lí luận về các phơng diện nh: quan niệm nghệ thuật, cảm hứng
sáng tác, cũng nh đề tài, chủ đề, thể loại vv
Việc nghiên cứu truyện viết về miền núi còn mang ý nghĩa thời sự, thực tiễn về
vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc hiện nay.
Thực hiện công trình này, chúng tôi mong muốn góp thêm một số kiến giải mới
về sự vận động và phát triển của thể loại tự sự trong tiến trình phát triển của nền văn
học Việt Nam hiện đại; đồng thời cung cấp thêm những t liệu mới cho quá trình
nghiên cứu, học tập và giảng dạy văn học trong nhà trờng.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện viết về miền núi giai đoạn 1930 - 1945 từ khi mới xuất hiện đã đợc
xem nh một hiện tợng văn học mới và trong các công trình nghiên cứu đơng thời
gọi là Truyện đờng rừng
. Trớc cách mạng tháng Tám, một số nhà nghiên cứu nh

4

Trơng Tửu, Vũ Ngọc Phan đã chú ý tới những cây bút viết về miền núi nh Lan
Khai, Thế Lữ, TChya, Lu Trọng L vv và cho họ là các nhà văn mới mẻ vì đã
cách mệnh lối tả cảnh trong văn học Việt Nam hiện đại; đã mở lối cho nghệ thuật
bớc vào một thế giới lạ lùng, đầy rẫy những hình trạng nhiệm màu, đột thú. Trong
vòng hai mơi năm (1945-1965), nhiều tác phẩm của các tác giả nêu trên cha đợc
nghiên cứu. Những năm tiếp theo (1965 - 1990), tuy đã có một số bài nghiên cứu về
thành tựu này nhng cha hệ thống. Từ năm 1990 lại đây có nhiều tác giả quan tâm
hơn nh Ngọc Giao, Bích Thu, Vũ Tuấn Anh, Hoài Anh, Gia Dũng, Trần Mạnh Tiến
vv đã đề cập tới hoạt động sáng tác của các nhà văn Lan Khai, Thế Lữ, TChya, Lu
Trọng L, Lý Văn Sâm vv và đặc biệt đánh giá những truyện đờng rừng của Lan
Khai có nhiều đóng góp cho mảng văn xuôi viết về miền núi.

Nhìn chung cách gọi tên và tiêu chí phân loại những sáng tác viết về miền núi
đều dựa vào đặc điểm nội dung của đề tài và phơng thức phản ánh trong các tác
phẩm. Khi đề cập tới những truyện viết về miền núi cũng có nghĩa là nói tới những
Truyện đờng rừng. Đây là một loại hình tự sự chủ yếu bao gồm truyện ngắn và tiểu
thuyết nói chung đợc viết bằng văn xuôi và lấy cuộc sống, con ngời miền núi làm
đối tợng phản ánh. Đặc điểm chung của thể tài này là đa dạng về kiểu loại và có
quy mô dung lợng phản ánh khác nhau. Trong đó, mỗi truyện là một khung cảnh
mới lạ, vừa thể hiện đợc cái nhìn đa dạng vào thế giới khách quan vừa biểu lộ năng
lực tởng tợng hết sức phong phú về thế giới đó của các nhà văn hiện đại.
3. Đối tợng, nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp của luận án
3.1. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện công trình này chúng tôi sẽ tập trung khảo sát toàn bộ những tác
phẩm văn xuôi tự sự viết về miền núi trong giai đoạn 1930-1945 (truyện ngắn và tiểu
thuyết), khi cần thiết có thể liên hệ tới các giai đoạn trớc và sau đó.
3.2. Nhiệm vụ
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ tập trung khảo sát những truyện tiêu
biểu theo hớng lý thuyết ứng dụng nhằm chỉ ra những đặc điểm về quan niệm nghệ
thuật, sự hài hoà các khuynh hớng trong nội dung các truyện viết về miền núi, cấu
trúc thể loại và văn bản trần thuật, trong đó có các vấn đề nghệ thuật xây dựng cốt

5

truyện, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu Qua đó chỉ ra những thành công và hạn chế
trong sáng tác của các nhà văn ở giai đoạn này.
3.3. Đóng góp của luận án
Đây là công trình đầu tiên đi vào khảo sát một cách hệ thống và toàn diện
những thành tựu của truyện viết về miền núi giai đoạn 1930-1945, qua đó sẽ cung cấp
cho bạn đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về vị trí của nó trong tiến trình phát triển của
nền văn học Việt Nam hiện đại. Luận án của chúng tôi cố gắng chỉ ra con đờng
khám phá nghệ thuật của các nhà văn giai đoạn này về một phạm vi hiện thực mới, về

vấn đề sở trờng, đặc điểm của các nhà văn trong sáng tạo.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi phối hợp các phơng pháp nghiên cứu khoa học nh: Thống kê, phân
loại, phơng pháp phân tích tác phẩm,
phơng pháp so sánh, phơng pháp tổng hợp.
5. Cấu trúc của luận án.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án của chúng tôi tập
trung triển khai thành ba chơng sau:
Chơng 1. Truyện viết về miền núi trong bức tranh toàn cảnh của nền văn
xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945
Chơng 2. Sự hài hoà các khuynh hớng trong nội dung truyện viết về miền
núi giai đoạn 1930-1945
Chơng 3. Một số phơng thức biểu hiện nghệ thuật trong truyện viết về
miền núi giai đoạn 1930-1945










6

nội dung
Chơng 1
Truyện viết về miền núi trong bức tranh ton cảnh
của nền văn xuôi việt nam giai đoạn 1930 1945


1.1. Những quan niệm cơ bản về văn học giai đoạn 1930 1945
1.1.1. Tính dân tộc và hiện đại trong văn học
Tính dân tộc là khái niệm thuộc phạm trù t tởng - thẩm mĩ chỉ mối liên hệ
khăng khít giữa văn học và dân tộc, thể hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo
tơng đối bền vững chung cho các sáng tác của một dân tộc, đợc hình thành trong
quá trình phát triển lịch sử, phân biệt với văn học của các dân tộc khác. Theo đó, tính
dân tộc vừa là thuộc tính tất yếu, vừa là phẩm chất mang giá trị tinh thần có tính chất
đặc thù của mỗi nền văn học. Đơng thời, các cây bút Lan Khai, Lu Trọng L, Bùi
Công Trừng, Hoài Thanh vv rất đề cao bản sắc dân tộc trong văn học. Tính dân tộc
biểu hiện nh một đặc tính với những phẩm chất đợc kết tinh từ truyền thống dân
tộc, nằm ở tính cách con ngời và truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc.
Song song với nhiệm vụ bồi đắp tinh thần dân tộc, các tác gia còn yêu cầu nhà
văn phải luôn có ý thức đổi mới trong sáng tác. Trên Tạp chí Tao Đàn, Hoài Thanh
chỉ ra sự đổi mới bắt đầu từ việc nhìn lại văn chơng ta còn bị lệ thuộc về chính
trị, bị chi phối bởi những phép tắc làm văn, những phép tắc hẹp hòi và phiền phức,
ngoài ra, lại còn sự kiềm chế của xã hội. Ông cho rằng: Muốn cho văn chơng ta
ngày một thêm phong phú, cần nhất phải để cho nhà văn đợc tự do. Lu Trọng L
trong bài Một nền văn chơng Việt Nam cũng chỉ ra rằng, bên cạnh việc gìn giữ tính
cách riêng của văn chơng thì nền văn chơng Việt Nam đã đến lúc phải siêng năng
trong sự phô diễn t tởng, cố gắng trong sự sáng tạo. Trong các bài viết trên Tạp chí
Tao Đàn (1939) và các bài phê bình về Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Lan Khai cho rằng:
Một nền văn học mới không chỉ phản ánh đợc truyền thống yêu nớc của tổ tiên mà
cần phải biết chống lại những thái độ thờ ơ nguội lạnh trớc cuộc sống của nhân
dân. Tác giả phê phán những nhà văn sáo lặp cổ nhân nh con trâu nhai lại cỏ, thiếu
trách nhiệm trong sáng tác. Ông ca ngợi Tản Đà là nghệ sĩ mang tâm hồn dân tộc, Vũ
Trọng phụng là nhà văn có bản lĩnh nghệ thuật. Trong cuốn Mực mài nớc mắt

7


(1941), Lan Khai đã đề ra ý tởng phá bỏ cái lỗi thời lạc hậu của xã hội cũ để xây
dựng một tân văn hoá cho đất nớc. Có thể nói, tính dân tộc và hiện đại luôn là mối
quan hệ sống còn của nền văn học dân tộc và đó cũng chính là cái gốc, cái ngọn
làm nên một nền văn hoá đậm đà bản sắc Việt Nam.
1.1.2. Thiên chức của nhà văn và văn chơng
Về vấn đề nhà văn, các nhà lý luận phê bình nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm
của ngời cầm bút: Nhà văn phải sáng tác vì lợi ích của dân tộc, phải đấu tranh cho tự
do của con ngời, dùng văn chơng giác ngộ cho nhân dân, lên án áp bức bóc lột. Nhà
văn phải có trách nhiệm cao trong sáng tác, là ngời thực hiện cái sứ mệnh phải tiếp
tục chuyển giao quá khứ ấy cho hậu lai, làm cho ngời Việt Nam bất diệt trong tinh
thần, trong t tởng. Nhà văn phải tin yêu vào truyền thống văn hiến của tổ tiên, biết
phát huy tiềm năng và bản sắc dân tộc, phải là tấm gơng sáng về đạo đức, biết trân
trọng và làm ra cái đẹp. Muốn vậy, nhà văn cần phải nhìn thẳng vào thực tế xã hội
để tìm một lẽ sống xác đáng. Lu Trọng L đã thẳng thắn phê phán những cây bút
thiếu đào sâu suy nghĩ, theo ông : Cái tinh thần lời biếng cẩu thả ấy sẽ làm cho văn
chơng nghèo nàn. Nh vậy, nhà văn là lơng tâm và trí tuệ gắn bó với cộng đồng để
từ đó vơn tới sự hoà hợp với nhân loại. Các tác giả cũng yêu cầu nhà văn không đợc
đánh mất thiên chức cao quí của mình, không đợc làm nô lệ của đồng tiền. Lý luận
phê bình đều nhằm biểu dơng truyền thống yêu nớc, khích lệ lòng tự hào dân tộc,
đổi mới nền văn nghệ nớc nhà để đi tới tơng lai. Văn chơng chính là sự biểu hiện
t tởng tình cảm và con ngời là trung tâm của phản ánh nghệ thuật. Đồng thời, lý
luận phê bình thời kỳ này quan tâm đến vấn đề đặc tr
ng thể loại khoa học hơn so với
gia đoạn 30 năm đầu thế kỷ XX. Đặc biệt về thể loại tự sự, qua các ý kiến bàn về tiểu
thuyết của Thiếu Sơn, Thạch Lam, Vũ Bằng, Bùi Công Trừng, Hải Triều, Vũ Ngọc
Phan vv đều đi tới nhận diện và phân loại các thể loại văn xuôi trên cơ sở kế thừa
những quan niệm của những học giả đi trớc.
Nh vậy, quan niệm nghệ thuật về nhà văn và văn học đợc hình thành trên cơ sở
thống nhất của nhiều nhân tố về tài năng, vốn sống, tâm hồn, trí tuệ, về t tởng và
văn hoá, về truyền thống và hiện đại, về sáng tác và thực tiễn, về sở trờng sáng tạo và

chỗ đứng trong thế giới nghệ thuật của riêng mình.

8

1.1.3. Quan niệm về tác phẩm tự sự
Quan niệm về tác phẩm tự sự mang tính hiện đại khởi đầu với bài Bàn về tiểu
thuyết (1921) của Phạm Quỳnh và tiếp theo trong các công trình của các tác giả Lệ
Xuân với Cách viết đoản thiên tiểu thuyết (1929), Trúc Hà với Lợc khảo về sự tiến
hoá của Quốc văn trong lối văn tiểu thuyết (1932), Thiếu Sơn với Phê bình và cảo
luận (1933), Vũ Bằng với Khảo về tiểu thuyết (1941 1942), vv càng ngày càng thể
hiện cái nhìn phong phú về tác phẩm văn xuôi tự sự.
Các ý kiến đều có sự gặp gỡ nhau khi nhận diện về thể loại nh: Tiểu thuyết là
một thể loại văn xuôi tự sự mới phản ánh sâu rộng đời sống hiện thực, là phơng tiện
truyền bá văn minh, năng động, linh hoạt, có khả năng bao quát rộng rãi hiện thực
nh: tả tình, tả cảnh, kể chuyện, lời văn rất đa dạng phong phú; văn tiểu thuyết là loại
văn sinh hoạt, là một thể loại tham gia tích cực vào cuộc cách tân văn học. Đáng
chú ý trong đó có ý kiến bàn về đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn). Đây là những cơ
sở giúp ta nhận thấy tính đa dạng của lý thuyết văn xuôi tự sự
Quan niệm về phản ánh hiện thực trong tác phẩm của các nhà lí luận phê bình
giai đoạn 1930 1945 là một hệ thống t duy lí thuyết mới, có sự tiếp nối quan niệm
văn học 30 năm đầu thế kỷ nhng đã đợc đào sâu mở rộng trên cơ sở tiếp tục tiếp thu
những thành tựu của phơng Tây và thế giới ngày càng nhiều. Lí luận và phê bình giai
đoạn này đã tác động mạnh mẽ vào mọi hoạt động sáng tác nhằm khám phá hiện thực
ở những qui mô khác nhau. Vì thế, các thể loại tự sự trong giai đoạn 1930 - 1945 cũng
thể hiện sự đa dạng cha từng thấy trong giai đoạn văn học trớc đó.
1. 2. Sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi giai đoạn 1930-1945
1.2.1. Sự chuyển mình theo hớng hiện đại hoá
Trong vòng 15 năm (1930 1945) phát triển, văn học giai đoạn này có một vị
trí hết sức quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử văn học Việt Nam. Đây có thể
xem là thời kỳ cách mạng nghệ thuật cả về nội dung và hình thức đa nền văn học

thoát ra khỏi những quan niệm thẩm mỹ và hệ thống thi pháp cũ, mở ra thời kỳ mới
trên các khuynh hớng hiện thực, lãng mạn và cách mạng, với các thể loại nh tiểu
thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tuỳ bút vv ở thể loại nào cũng có những tác phẩm
xuất sắc. Sự phát triển khá mạnh mẽ của lý luận và phê bình văn học là nhân tố tác

9

động tích cực đến quá trình đổi mới. Các tác gia Vũ Bằng, Thiếu Sơn, Võ Liêm Sơn,
Trơng Tửu, Hải Triều vv đơng thời rất quan tâm đến phạm vi hiện thực mới trong
quá trình sáng tạo của nhà văn. Trong Khảo về tiểu thuyêt (1941-1942), Vũ Bằng đặt
ra yêu cầu nhà văn phải đi sâu khám phá những lĩnh vực mới. Thiếu Sơn khích lệ
những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh mang đợc bản sắc Nam Bộ. Trong bài Văn học
và xã hội (1934), Võ Liêm Sơn yêu cầu nhà văn sáng tạo là sinh mệnh của văn học.
Hải Triều khen ngợi Kép T Bền của Nguyễn Công Hoan, Hai ngả của Từ Ngọc
(Nguyễn Lân). Trơng Tửu đánh giá cao những Truyện đờng rừng của Lan Khai,
Thế Lữ, Lu Trọng L ở nhiều bình diện nhng trớc hết là bớc đột phá của nghệ
thuật vào mảng hiện thực miền núi.
Không chỉ quan tâm tới bề rộng và chiều sâu của hiện thực, các nhà lý luận phê
bình còn chú ý đến những vấn đề căn bản của nội dung t tởng trong các tác phẩm.
Vấn đề áp bức bóc lột và giải phóng con ngời khỏi tối tăm nô lệ đã đợc phản ánh
qua các bài viết của Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan vv Với việc đề cao
giá trị t tởng trong các sáng tác của các nhà văn, các cây bút phê bình đã giúp ngời
đọc hiểu sâu sắc thêm những vấn đề cơ bản đặt ra trong cuộc sống.
Trong giai đoạn 1930 1945 trớc trào lu đổi mới về nghệ thuật, văn học
cũng hình thành những khuynh hớng khác nhau nh: lãng mạn, kỳ ảo, hiện thực
vv Mỗi khuynh hớng phản ánh đều thể hiện rõ động lực bên trong của ngời nghệ
sĩ. Đây cũng chính là những bình diện nghệ thuật khiến các nhà phê bình quan tâm.
Các ý kiến phê bình đã đem đến cho bạn đọc những tình cảm mới, thể hiện qua những
nhận xét, đánh giá về các nhà văn và tác phẩm văn học giai đoạn này.
1.2.2. Sự đổi mới về nội dung và khuynh hớng phản ánh

1.2.2.1. Xu h
ớng mở rộng đề tài
Sau 30 năm chuyển mình, nền văn học Việt Nam đã đi tới cuộc cách mạng về
nghệ thuật (1930 -1945) diễn ra mạnh mẽ. Trong đó phải kể đến sự mở rộng đề tài ở
các phạm vi hiện thực khác nhau nh nông thôn, thành thị, hầm mỏ, miền núi vv
Việc lực chọn đề tài miền núi là một bớc khám phá mới của nhiều cây bút trong trào
lu cách tân tiểu thuyết. Những sáng tác của các nhà văn đã đem đến cho bạn đọc

10

những bức tranh mới lạ về thế giới Sơn lâm. Từ nhận thức mới mẻ đó, nhiều tác phẩm
có giá trị đã ra đời, nhanh chóng tạo đợc vị trí và sức hấp dẫn mới trên văn đàn.
1.2.2.2. Các khuynh hớng phản ánh
Một khuynh hớng văn học bao giờ cũng xuất hiện trên cơ sở những tiền đề xã
hội nhất định. Văn học giai đoạn này có sự hình thành các khuynh hớng: khuynh
hớng hiện thực, khuynh hớng hiện thực cách mạng, khuynh hớng lãng mạn và đan
xen nhiều khuynh hớng. Trong đó mỗi khuynh hớng thẩm mỹ lại có mức độ và
dạng biểu hiện khác nhau trong quá trình phản ánh đời sống xã hội. Thực tế đời sống
thì vô cùng phong phú, đòi hỏi ngời nghệ sĩ phải vận dụng linh hoạt những đặc trng
cơ bản của các khuynh hớng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ nhiều mặt
của tâm hồn con ngời, của đời sống văn học một cách đa dạng.
1.2.3. Sự phong phú về thể loại
Giai đoạn 1930 1945 ngoài sự phong phú về nội dung và khuynh hớng phản
ánh thì các thể loại sáng tác cũng đua nhau nẩy nở. Trong đó phải kể đến sự phát triển
mạnh mẽ của tiểu thuyết và truyện ngắn. Trong Khảo về tiểu thuyết (1941 - 1942) Vũ
Bằng cho rằng có hơn chục loại thể văn tiểu thuyết. Trong Nhà văn Việt Nam hiện
đại (1942) Vũ Ngọc Phan khẳng định: chúng ta có gần đủ các lối tiểu thuyết: luân lý,
phong tục, tâm lí Có đợc sự phong phú đặc sắc đó phải kể đến sự đóng góp không
nhỏ của các nhà văn Tự lực văn đoàn nh Nhất Linh, Khái Hng, Hoàng Đạo, Thạch
Lam đã góp phần đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bớc mới. Cùng với đó là các

nhà tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa nh Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,
Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Lan Khai vv đã có công gắn tiểu thuyết với đời
sống hiện thực lớn lao của nhân dân. Song song với đó, truyện ngắn thời kỳ này cũng
phát triển hết sức mạnh mẽ. Những đóng góp của Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Hồ DZếnh,
Thạch Lam, Lan Khai, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao vv đã đem lại sự phong phú
đa dạng về kiểu loại và khuynh hớng phản ánh. Thời kỳ này còn xuất hiện một thể
văn mới: Phóng sự,
nổi lên những cây bút nh: Vũ Trọng Phụng, Tam lang, Ngô Tất
Tố. Thể văn tuỳ bút và bút ký tiếp tục phát triển với nhiều cây bút nh: Thạch Lam,
Xuân Diệu, Nguyên Hồng, Vi Huyền Đắc vv đã đem đến trong các sáng tác một sự
phô diễn, t tởng, tình cảm mới.

11

Đây cũng là thời kỳ hoạt động lý luận phê bình nghiên cứu đợc đẩy mạnh gắn
với các cây bút tiêu biểu nh: Trúc Hà, Phan Khôi, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Thạch
Lam, Vũ Bằng, Trơng Tửu, Lu Trọng L, Lan Khai, Vũ Ngọc Phan vv Với hàng
loạt các bài nghị luận của các tác giả trên đăng ở các báo Tao Đàn, Phổ thông bán
nguyệt san, Tiểu thuyết thứ Năm, Tiểu thuyết thứ Bảy, Tri Tân, Loa, Ngọ báo vv đã
tác động trực tiếp đến sự sáng tạo của văn nghệ sĩ và tạo nên không khí sinh hoạt văn
học sôi động.
Có thể nói, với 15 năm vừa sáng tác, vừa học tập Phơng Tây cả về phơng
diện sáng tác và lý luận, nền văn xuôi nớc ta phát triển trên mọi phơng diện thể
loại, với những thành tựu phong phú, đặc sắc, có tầm cao mới trong nghệ thuật.
1.3. Tính đa dạng của truyện viết về miền núi giai đoạn 1930-1945
Đây là những sản phẩm nghệ thuật phong phú, đa dạng đan xen nhiều khuynh
hớng thẩm mĩ khác nhau.
1.3.1. Những tác phẩm giầu chất lng mạn
Những truyện Chim đèo, Hoa bên suối, Trăng ngàn, Cô Thơ, Cô Bụt, Một đêm
trăng, Kòn Trô, Đêm trăng huyền hoặc, vv cho thấy miền núi hiện lên là những

miền xa xứ lạ và trong những bức tranh đó yếu tố tởng tợng có tính bao trùm trong
mạch cảm xúc của nhà văn. Các nhà văn đem đến cho ngời đọc cảm giác vừa nhẹ
nhàng, xao xuyến tâm hồn trớc vẻ đẹp của đất trời và lòng ngời nơi nguồn xanh hoa
dại. Bên cạnh đó ta còn thấy những truyện nh Ngời lạ, Ma thuồng luồng, Đôi vịt
con, Ngời hoá hổ (Lan Khai), Vàng và máu,
Một truyện ghê gớm, Tiếng hú ban đêm
(Thế Lữ),
Thần Hổ, Ai hát giữa rừng khuya (TChya), Đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân),
Ngời con gái của thần rắn (Cung Khanh) vv với các tình tiết ly kỳ đã đem đến cho
ngời đọc những cảm giác rùng rợn khi chứng kiến những cảnh hãi hùng. Trong
những câu chuyện đó mang bóng dáng thần thoại, cổ tích, những nét phong tục, tín
ngỡng, khiến cho ngời đọc có cảm giác con ngời, mãnh thú và các thế lực siêu
nhiên dờng nh có mối quan hệ với nhau.
Yếu tố kỳ ảo đợc các nhà văn sử dụng
nh một phơng tiện nghệ thuật phản ánh cái hiện thực vô hình nhằm thỏa mãn nhu
cầu giải trí của độc giả.


12

1.3. 2. Những tác phẩm giầu chất hiện thực
Những sáng tác nh: Mọi rợ, Tiền mất lực, Sóng nớc Lô Giang, Mu thằng
Đợi, Pàng Nhả, Dới miệng Hùm, LôHnồ (Lan Khai), Tiếng khèn (Khái Hng), Đi
săn khỉ (Vũ Trọng Phụng) vv là những tác phẩm giầu chất hiện thực ở miền núi.
Ngời đọc đợc các nhà văn đa đến từng ngôi nhà, bên bếp lửa, thấy đợc những nỗi
buồn, vui, vất vả của con ngời miền núi trong cuộc mu sinh ở thế giới sơn lâm. Đó
là những cuộc săn bắn, nhng buổi phát nơng, làm rẫy; cảnh vui chơi ca hát, khung
cảnh tấp nập của những phiên chợ vùng cao, các lễ hội truyền thống của đồng bào
Tày, Nùng, Dao, ÊĐê, Giarai vv Đó còn là những bức tranh miêu tả chân thực về
cuộc đời, số phận những con ngời lao động lơng thiện nhng đói nghèo, chìm khuất

trong u mê lạc hậu, bị áp bức, bóc lột do thế lực hắc ám, tham lam, tàn ác, gieo rắc
đau thơng, tang tóc.
Qua những tác phẩm Mũi tên dẹp loạn, Chiếc nỏ cánh dâu, Đỉnh non thần,
Trong cơn binh lửa của Lan Khai; Mũi Tổ của Lý văn Sâm vvngời đọc nh sống
lại không khí của những trận chiến, những cuộc đấu tranh bảo vệ cuộc sống của bản
làng, buôn sóc, và cả những cuộc tranh giành quyền lực cá nhân, những xung đột sắc
tộc. Tuy nhiên, lấy cảm hứng từ những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, song các nhà
văn chú ý nhiều đến thế sự. Viết về những con ngời và sự kiện trong lịch sử lại gắn
với cuộc sống hiện tại, các nhà văn nhằm đa con ngời lịch sử bớc ra cuộc sống
không còn khoảng cách về thời gian.
1.3.3. Những tác phẩm đan xen nhiều cảm hứng
Đọc những truyện nh: Tiếng gọi của rừng thẳm, Rừng khuya, Suối đàn, Tiền
mất lực, Vàng và máu vv có sự hòa trộn một cách tự nhiên giữa các yếu tố lãng
mạn, hiện thực, truyền kỳ, lịch sử, phong tục, nhằm h
ớng tới sự biểu hiện thành công
các hình tợng nghệ thuật, phù hợp với cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Chẳng hạn,
truyện Tiếng gọi rừng thẳm, Rừng khuya, Suối đàn vvchất hiện thực đợc thể hiện ở
bức tranh miêu tả cảnh sắc thiên nhiên sinh động, rừng trong con mắt của các nhà văn
là cuộc sống muôn sắc màu, là một thế giới sinh hoá hồn nhiên, mang sức sống mãnh
liệt. Trên nền cảnh đó là những mối tình thơ mộng của đôi lứa. Sự đan xen khuynh

13

hớng sáng tác vừa tạo cho tác phẩm có sức khái quát cuộc sống rộng hơn, vừa
chuyển tải t tởng của nhà văn một cách linh hoạt hơn.
1.4. Kết luận chơng 1
Truyện viết về miền núi trong giai đoạn 1930 - 1945 đã góp vào bức tranh toàn
cảnh của nền văn học Việt Nam hiện đại từ đề tài hiện thực đến phơng thức phản
ánh, là một bớc tiến mới của nền văn nghệ nớc nhà gắn với trào lu cách tân nghệ
thuật diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ nhất ở thế kỷ xx.


Chơng 2
Sự hi ho các khuynh hớng trong nội dung
truyện viết về miền núi Giai đoạn 1930 1945
Truyện viết về miền núi giai đoạn này có những diện mạo riêng, khác với những
truyện viết về hầm mỏ, thành thị, nông thôn ở đồng bằng. Đọc những tác phẩm viết về
miền núi của Lan Khai, Thế Lữ, Tchya, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân, Lý Văn Sâm vv
chúng ta thấy những bức tranh thiên nhiên mới lạ. Môi trờng sinh hoạt, văn hoá
phong tục và thế giới nhân vật trong các truyện viết về miền núi cũng khác xa với các
câu chuyện của Nguyễn Công Hoan (Bớc đờng cùng), Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Vũ
Trọng Phụng (Giông tố), Nam Cao (Sống mòn), Khái Hng (Hồn bớm mơ tiên),
Nhất Linh (Bớm trắng), Hoàng Đạo (Trống mái) vv Đây là sự khác biệt về phạm
vi hiện thực giữa hai bức tranh nghệ thuật đồng bằng và miền núi ở nhiều bình diện.
Các tác phẩm của các nhà văn viết về đồng bằng đợc thể hiện rõ theo hai khuynh
hớng hiện thực và lãng mạn. Ngời ta có thể gọi Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
Vũ Trọng Phụng, Nam Cao là các cây bút hiện thực; hay gọi các nhà văn nh Nhất
Linh, Khái Hng, Hoàng Đạo là những cây bút lãng mạn. Nhng đọc các truyện viết
về miền núi giai đoạn 1930 - 1945 ta thấy khó có thể xếp những cây bút viết về miền
núi ở vào khuynh hớng này, hay khuynh hớng khác. Bởi nội dung phản ánh thể
hiện sự hài hoà giữa các yếu tố hiện thực và lãng mạn. Có những câu chuyện mở đầu
là những mối tình lãng mạn qua lời ca tiếng hát giao duyên nhng diễn biến cốt
truyện lại là những cảnh đời thực đầy sóng gió; có những tác phẩm chủ yếu là bức
tranh kỳ ảo, thể hiện sự hài hoà, đan xen giữa các dòng cảm hứng khác nhau.


14

2.1. Về thế giới thiên nhiên
2.1.1. Thiên nhiên chân thực thơ mộng
Đơng thời nhà phê bình văn học Trơng Tửu đã gọi Thế Lữ, Lan Khai, Lu

Trong L là ba nhà văn mới mẻ vì đã cách mệnh lối tả cảnh trong văn học Việt
Nam hiện đại. Điều mới mẻ đi đến sự thành công đó chính là nguồn cảm xúc mê say
của mỗi nghệ sĩ trớc thế giới thiên nhiên muôn sắc màu thể hiện trong sáng tác của
Lan Khai, Thế Lữ, Lu Trọng L, Khái Hng, Thạch Lam, Hồ ZDếnh, Lý Văn Sâm
vv tất cả họ cùng viết lên những bản nhạc rừng âm vang, sôi động muôn hình,
muôn vẻ tràn đầy sức sống, say đắm lòng ngời. Trong mỗi bức tranh phong
cảnh là một cái nhìn, một khám phá, một thế giới nghệ thuật riêng qua
cảm nhận của tâm hồn nghệ sĩ.
2.1.2. Thiên nhiên hòa cảm với con ngời
Viết về miền núi các nhà văn không chỉ mở ra trớc mắt ngời đọc một thế giới
thiên nhiên muôn màu, muôn vẻ nh bản thân hiện thực mà thiên nhiên ở đây còn
chứa đựng hồn ngời. Đấy là cảnh của một buổi chiều đông tàn trong Suối Đàn. Khi
thì cảnh hoa nở gợi những kỷ niệm sâu sắc trong tâm thức của con ngời qua Rừng
khuya, Mọi rợ, Tiếng gọi của rừng thẳm, Lan rừng. Cũng có khi ngời đọc đợc đến
với những âm thanh trong trẻo của tiếng suối nh những cung đàn muôn điệu đang
giãi bày về một kỷ niệm đẹp của đôi lứa bị chia phôi vv Thiên nhiên xuất hiện
không đơn thuần là một cái nền cảnh bình thờng, nó nh một cơ thể sống, đồng tham
gia vào nội dung câu chuyện.
2.1.3. Thiên nhiên huyền bí kỳ ảo
Truyện viết về miền núi giai đoạn 1930 1945 hớng tới khám phá những điều
mới lạ, kỳ bí của thế giới sơn lâm. Sự sáng tạo của các nhà văn là sự cảm nhận hiện
tợng, sự vật đều bắt nguồn từ hiện thực đời sống miền núi. Từ hớng cảm hứng đó,
nhà văn đã mở ra những trờng liên tởng cho ngời đọc bớc vào một thế giới lạ
lùng, đầy rẫy những hình trạng nhiệm màu đột thú. Nơi đó có một môi tr
ờng sống
rộng lớn, còn chất chứa bao điều bí mật nhiều hình vẻ, ở nhiều điểm nhìn, trong dòng
thời gian không hề ngừng chảy mà con ngời cha hiểu hết.




15

2.2. Về truyền thống văn hóa phong tục
Truyền thống văn hóa miền núi là sự kết tinh truyền thống văn hóa thuộc nhiều
dân tộc về bản sắc riêng trong tổng hòa những mối quan hệ thống nhất cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Truyện viết về miền núi giai đoạn 1930 - 1945 là những bức tranh
đầu tiên về truyền thống văn hóa, phong tục của các dân tộc thiểu số ở nhiều bình
diện, từ nét đẹp tinh thần đến các sinh hoạt vật chất tiêu biểu cho bản sắc của từng
dân tộc lại vừa mang đặc tính chung của cộng đồng dân tộc miền núi.
2.2.1. Về môi trờng sinh thái

Đó là những thói quen sinh hoạt làm nơng, phát rẫy, săn bắn đi ngựa của
ngời miền núi nói chung; những nếp sinh hoạt của đồng bào đợc lu truyền từ đời
này sang đời khác của ngời HMông, ngời Dao, ngời Barna, Giarai vv Đó còn là
những bức tranh về lễ hội đậm đà bản sắc miền núi với những buổi hát then, múa lợn
của đồng bào Tày trong Suối Đàn; là quang cảnh của một cuộc hát cọi của ngời Dao
đỏ trong Hồng thầu, Gió trăng ngàn vv Đó là cái đẹp hài hòa giữa tâm hồn con ngời
với thiên nhiên hào phóng và tình ngời muôn điệu mà các giai đoạn văn học trớc cha
khám phá đuợc. Trong nhiều trang viết cho ta thấy, từ thực tế thâm nhập vào cuộc sống
con ngời miền núi nhiều nhà văn thời kỳ này đã nêu ra đợc những trở ngại trong
ứng xử của con ngời với thiên nhiên, là sự gắn bó của con ngời với môi trờng.
Thiên nhiên vừa mang những vẻ đẹp chân chính vừa tiềm ẩn những sức mạnh to lớn
mà con ngời cha hiểu hết. Qua những hình tợng nghệ thuật, các nhà văn mong
muốn con ngời sống hòa hợp hơn với môi trờng thiên nhiên, nguồn sống muôn đời
của nhân loại.
2.2.2. Về tình yêu cuộc sống
Tình yêu quê hơng đất nớc là chủ đề lớn xuyên suốt văn học truyền thống của
dân tộc. Tình cảm đó đợc các nhà văn thể hiện sâu sắc qua vẻ đẹp huyền diệu của
thiên nhiên và cuộc sống của đồng bào các dân tộc ở mọi miền rừng thẳm núi cao gắn
bó sâu nặng với bản làng, với Tổ quốc thân yêu.

Có thể nói, những cung bậc tình cảm, những sắc thái biểu hiện của tình yêu
làng bản, tình yêu lứa đôi luôn làm nên chất men say trong nhiều sáng tác của các nhà
văn. Mỗi câu chuyện nh đa ta đến với những tình cảm đẹp đẽ, trong sáng, thuỷ
chung và lãng mạn. Đó là tình yêu cao đẹp giữa cô gái Tày Dua Phăn và chàng trai

16

Mai Kham (Rừng khuya); là mối tình thơ mộng, cháy bỏng của nàng LôHli và Tô
Đay (Tiền mất lực), của Nhạn Nhi với Tuyết Hận (Đỉnh non Thần), Peng Lang và
Hoài Anh (Tiếng gọi rừng thẳm), Peng Gai Lâng với Mai Khâm (Chiếc nỏ cánh dâu)
của các cô gái Dao đỏ ở động Hồng Thầu hay cô Thơ, cô Bụt, cô Thay, cô Tơi
cùng các chàng trai Kinh trong truyện của Thế Lữ vv cho dù họ là những ngời con
của các dân tộc khác nhau: Tày, Dao, Mông, Bana, Giarai, Kinh nhng đều hớng tới
khát vọng hạnh phúc.
2.2.3. Về quan niệm vũ trụ và nhân sinh

Bức tranh miền núi không những thể hiện mỗi quan hệ giữa con ngời với con
ngời mà còn gắn bó con ngời với vũ trụ, thể hiện trong các tục cầu cúng trời đất khi
hạn hán, lũ lụt, cầu mùa khi cấy hái; lễ mừng lúa mới trong mùa gặt của ngời Tày,
Dao, HMông, Bana, Giarai vv Họ cầu mùa mong trời giúp cho ma thuận gió hoà
ma lúc bỏ hạt, nắng lúc làm cỏ, mát mẻ lúc thu gặt. Đó còn là quan niệm về tự do
yêu đơng và tính dục, các nhà văn cho thấy con ngời miền núi ít bị chi phối bởi cái nhìn
khắc nghiệt của Nho giáo vv Do đó, việc khám phá tính đặc thù mang bản sắc dân tộc
của mỗi cộng đồng, các nhà văn không chỉ mang lại những điều kỳ lạ cho bạn đọc, mà còn
làm cho họ đồng cảm hơn với đồng bào miền núi
2.2.4. Về đời sống tâm linh

Các nhà văn còn đặc biệt chú ý mô tả đời sống tâm linh gắn với từng dân tộc,
đúng với từng loại nghi thức và đặt đúng môi trờng phong tục. Đó là lễ cúng tế và
tập tục mai táng ngời chết của ngời Dao, cách quàn ngời xấu số trong rừng đợi

ngày tốt mới chôn của ngời Mờng, hay việc để ngời đã chết lâu trong nhà của
ngời HMông, là phép chiêu hồn ngời bất hạnh bằng những cử chỉ và những câu
hát bí mật để cho linh hồn đợc trở về với thế giới ma thiêng" trong Mọi rợ; Tiếng
khèn. Đó còn là những tập tục lạ nh: Ngời Dao trong Hồng Thầu khi nghe tiếng cú
kêu thì cho rằng tai nạn sắp đến gần; ngời Giarai, Barna trong Chiếc nỏ cánh dâu
xem chim bay "bói điềm" xấu tốt; ngời H'Mông trong Mọi rợ khi nghe chim báng
kêu cho là điềm gở vv Những phong tục lạc hậu từ ngàn đời đã ăn sâu vào tiềm thức
con ngời, len lỏi vào cuộc đời số phận mỗi ngời, là trở lực trong đời sống xã hội và là
tác nhân gây ra những bi kịch cho con ngời.


17


2.3. Thế giới hình tợng nhân vật
2.3.1. Hình tợng ngời thanh niên tiêu biểu cho sức sống và vẻ đẹp của con ngời
miền núi
Các nhà văn đã dành nhiều tâm huyết và niềm say mê sáng tạo hình tợng
những chàng trai, cô gái đẹp đẽ, khoẻ mạnh, tài ba, dũng cảm, hiếu thảo, thuỷ chung
và trên hết là tình cảm với quê hơng làng bản. Họ là ẻn, Peng Lang, Dua Phăn,
TsiĐoà, là Mai Kham, Sẩu, Tuyết Hận, KònTrô, Răng Sa Mát, Châu Phiền vv những
điển hình cho vẻ đẹp của con ngời miền núi, lại vừa có những nét riêng về thế giới
tâm hồn, tính cách khác nhau, các nhà văn đã khắc họa khá thành công hiện thực cuộc
sống sinh động ngời dân miền núi trớc cách mạng.
2.3.2. Hình tợng các nhân vật với những mảnh đời bất hạnh.
Qua nhiều trang viết của các nhà văn, ngời đọc có thể nhận thấy những con
ngời phải sống trong cảnh nghèo hèn tăm tối, khắc nghiệt của môi trờng hoặc trong sự
áp bức bóc lột của cờng quyền, bạo lực. Họ là T.Siná, Tsi Đoà, anh chàng Phù, ông Cả
Tiễn, lão Ghình Gúng, lão Nùng Phay, ngời cha của Răng Sa Mát vv Mỗi nhân vật
có một số phận, tựu trung là một bức tranh hiện thực phong phú, phản ánh cuộc sống

của con ngời trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
2.3.3. Hình tợng những nhân vật đại diện cho thế lực hắc ám
Truyện viết về miền núi, các nhà văn thể hiện khá sinh động hình tợng những
nhân vật điển hình cho thế lực đen tối thống trị miền núi nh quan lang, quan chánh,
thầy mo, thày tạo, những tên giặc cớp tàn bạo, độc ác phá hoại cuộc sống dân lành.
Chúng là Ma Vạn Thắng, Yến Xuân, Tô Chố, tên quan lục sự, ả Dúc, woòng Tsi, Lày
Sập Trởng vv Tất cả chúng đã liên kết với nhau thành những bóng đen bao phủ lên
cuộc sống của những ngời dân lơng thiện.
2.3.4. Hình tợng những nhân vật kỳ ảo
2.3.4.1. Kiểu nhân vật vừa thực vừa ảo

Trên cơ sở kế thừa những tinh hoa truyền thống của dân tộc và nhân loại, các nhà
văn đã xây dựng lên nhiều hình tợng nghệ thuật mới hấp dẫn đáp ứng nhu cầu giải trí
của bạn đọc. Những yếu tố thực và ảo trộn lẫn, đan xen trong cùng một nhân vật trong

18

đi đứng, nói năng, biểu cảm đã đem đến cho bạn đọc hứng thú về những điều bí ẩn sau
màn sơng huyền ảo của thế giới đại ngàn. Đây là sản phẩm độc đáo từ t duy sáng tạo
của nhà văn đã mang lại cho ngời đọc bức tranh tởng tợng phong phú, sinh động.
2. 3.4.2. Kiểu nhân vật nửa ngời nửa vật
Loại nhân vật này xuất hiện trong những câu chuyện lạ của mảng truyện viết về
miền núi giai đoạn 1930 - 1945. Những hình ảnh nh: Ma thuồng luồng, Con thuồng
luồng nhà họ Ma, Ngời hoá hổ, Thần Hổ vvmỗi nhân vật mang những nét dị
thờng khác nhau, đem đến cho ngời đọc những ly kỳ, thú vị và rùng rợn.
2.4. Kết luận chơng 2
Dới bức tranh nghệ thuật của các cây bút viết về miền núi ta thấy hiện lên một
thế giới mới về cuộc sống và con ngời ở những vùng xa xôi của đất nớc. Thiên
nhiên phác thực, thơ mộng, thanh khiết, tơi đẹp, đặc biệt kỳ thú nhng cũng không
giấu hết vẻ huyền bí, hoang sơ. Con ngời miền núi gắn bó mật thiết với thiên nhiên

xứ sở, với những phong tục tập quán từ ngàn đời. Trong môi trờng đó cũng có những
mảnh đời, những số phận, những thế lực khác nhau. Tất cả đợc thể hiện qua các hình
tợng văn học phong phú đã giúp ngời đọc có một tầm nhìn vừa khái quát về sự sinh
tồn hàng ngày, hàng giờ diễn ra trong thế giới sơn lâm.


Chơng 3
Một số phơng thức biểu hiện nghệ thuật
trong Truyện viết về miền núi Giai đoạn 1930 1945

3.1. Cốt truyện và kết cấu
3.1.1. Cốt truyện dung dị nhng hấp dẫn
Các mô hình truyện viết về miền núi thể hiện tính đa dạng, phong phú và có qui
mô, dung lơng phản ánh khác nhau, thờng có cốt truyện đơn giản nh những câu
chuyện trong đời sống hàng ngày. Có khi truyện chỉ xoay quanh cuộc tình của một
chàng trai ngời Kinh với một cô gái Tày, hoặc cuộc hôn nhân ngẫu nhiên giữa chàng
họa sĩ ngời Kinh với cô gái ngời Dao đỏ, hoặc đôi trai gái yêu nhau bị thế lực đồng

19

tiền phá hoại, hay cuộc sống tăm tối của một gia đình ngời Mông trên đỉnh núi vv
Phần lớn các cốt truyện ở đây đợc tạo bởi diễn biến và các mối quan hệ nhân vật
nh: Gặp gỡ yêu nhau rồi trắc trở chia ly; gặp gỡ, say mê, rồi sóng gió, cuối cùng là
vĩnh biệt; có khi mở đầu câu chuyện là bóng tối rồi trải qua diễn biến phức tạp, cuối
cùng bóng tối lại bao trùm lên bóng tối Các cốt truyện gần gũi với các truyện cổ
dân gian, nhng trình tự và qui mô lại linh hoạt, phong phú và đa dạng hơn nhiều. Đối
tợng phản ánh trong những câu chuyện không phải là truyện xa, tích cũ mà chính là
những con ngời, cảnh đời trong thôn bản. Cách tổ chức sắp xếp các phần trong cốt
truyện từ mở đầu cho đến kết thúc đợc diễn ra cũng tự nhiên, khiến cho ngời đọc dễ
đồng cảm hơn. Kết thúc truyện hay xuất hiện hình ảnh cái chết, sự mất mát của những

con ngời tốt đẹp, thủy chung.
Bên cạnh những tác phẩm có qui mô tiểu thuyết là những tác phẩm nh những
lát cắt khác nhau của cuộc sống muôn màu. Đó là những truyện tiếp thu cốt truyện
dân gian truyền thống, trong đó nổi bật là sử dụng những yếu tố h ảo để tạo cốt
truyện. Mỗi cốt truyện mang một màu sắc khác nhau, đợc tạo bởi những góc nhìn
hiện thực, lãng mạn, lịch sử hay kỳ ảo.
3.1. 2. Kết cấu phong phú nhiều kiểu loại

Truyện viết về miền núi ở giai đoạn này thờng có số lợng nhân vật không
nhiều, nhng chi tiết thì phong phú với các mối quan hệ tơng phản, đối lập thờng
xuất hiện trong suốt mạch truyện. Ngoài ra, các tác giả còn tạo ra các mối quan hệ nhân
vật bổ sung, đan xen bổ trợ cho nhau khá linh hoạt, tạo thêm đợc nhiều lớp tính cách
trong thế giới nhân vật của mình. Trong nhiều tác phẩm, các nhà văn còn tạo ra những
mối quan hệ chính phụ, qua các nhân vật phụ làm rõ thêm hình tợng nhân vật chính.
Ngoài ra còn có một số kiểu kết cấu thờng gặp nh: kết cấu tự do, kết cấu mở, kết
cấu tâm trạng, kết cấu mang tính chất kịch.
Cuộc sống con ngời miền núi là cả một thế giới hiện thực đa dạng, phong
phú và phức tạp, tạo tiền đề cho các nhà văn trong quá trình xây dựng cốt truyện và
kết cấu nghệ thuật, cho nên việc phân loại chỉ mang tính tơng đối, bởi các kiểu
kết cấu thờng đan xen lẫn nhau tạo ra những bức tranh về cuộc sống con ngời
miền núi nhiều hình, nhiều vẻ với những số phận khác nhau.

20


3.2. Nghệ thuật mô tả sinh động
3.2.2. Miêu tả thiên nhiên nhiều màu sắc, đờng nét, âm thanh
3.2.2.1. Miêu tả thiên nhiên giàu chất hiện thực
Sức hấp dẫn của những truyện viết về miền núi 1930 1945 là những bức tranh
về thế giới thiên nhiên bằng nhiều điểm nhìn nghệ thuật khác nhau. Cái hay của

những bức tranh này là các cây bút đã phác hoạ sự tồn tại và vận động khách quan của
thế giới thiên nhiên. Trong nhiều trang viết ta còn thấy tác giả tạo ra các trờng quan
sát từ nhiều góc độ thời gian, không gian khác nhau. Thời khắc nào ứng với màu sắc
của cảnh vật ấy. Mùa xuân cảnh vật tràn trề sức sống; mùa thu, không khí trong suốt;
mùa đông đến trời lờ lờ nớc gạo. Hay đó là cảnh vật lúc sáng sớm, khi buổi tra,
lúc chiều buông, rồi màn đêm buông xuống, mỗi bức tranh hiện lên tự nhiên, nhẹ
nhàng, chân thực, đã đem lại cảm giác về thời gian sâu hơn, không gian rộng hơn, sức
sống trải dài hơn.
Dới ngòi bút của nhà văn cuộc sống tuôn trào mãi theo dòng chẩy bất tận của
thế giới âm thanh. Âm thanh ngân vang của thác lũ ma nguồn, của tiếng suối chảy,
gió thổi rừng cây dào dạt, "tiếng kêu của muôn loài cầm thú" tạo thành bản nhạc rừng
muôn điệu làm say đắm lòng ngời. Rừng nh mang trong mình thế giới của muôn
sắc hơng và nhạc họa. Trong nhiều tác phẩm, thiên nhiên ở đây nh chứa đựng tâm
t của con ngời, khơi dậy những trạng thái tình cảm trong sâu thẳm tâm hồn mỗi
ngời. Khi thì "những tiếng chim lạ kêu ran trong không khí thanh lãng" khiến cho
lòng ngời cảm thấy nhớ nhung, khi là "cái màu vàng úa của hoàng hôn" vào một
buổi chiều đông tàn ấy cũng đủ làm cho "tâm hồn thấy tơng t tất cả. Hay những
cảnh hoa nở, ong kêu bớm lợn, tiếng chim hót véo von, tiếng suối reo hoà vào trong
cái cảnh rực rỡ của chiều hôm mà lòng ngời cảm thấy yêu cuộc sống hơn.
3.2.1.2. Miêu tả thiên nhiên giàu cảm hứng lãng mạn
Bên cạnh những bức tranh thiên nhiên muôn sắc màu, tràn đầy hơi thở của cuộc
sống còn có những phiên bản về thiên nhiên giàu tởng tợng mà qua đó các nhà văn
đã khắc họa lên những bức tranh sống động và kỳ ảo. Đó là những liên t
ởng độc
đáo: giọt sơng mai long lanh trên ngọn cỏ nh trăm ngàn hạt pha lê (Lô Hnồ).

21

Rồi những cảnh thu về nớc ngòi in sắc mây trời lung linh nh một con đờng ngũ
sắc chạy xa về cõi mộng (Lô Hnồ), và khi mùa xuân đến những "dải đồi liên tiếp

chạy dài nh một chuỗi ngọc bích đặt nằm trên hộp những màu hoa lý (Đỉnh non
thần). Cũng có khi đó chỉ là âm thanh của giọt ma rơi: những giọt gianh rơi thánh
thót, rơi âm thầm trong đêm lạnh chẳng khác những giọt lệ của ngời cô phụ mong
chồng" (Hồng Thầu). Rừng trong con mắt của Thế Lữ, cái hang Văn Dú không phải
là kỳ công của tạo hóa mà là địa ngục của rừng thiêng (Vàng và máu); Với TChya
Hổ trở thành Thần Hổ, là những loài ma quái yêu tinh (Thần Hổ). Mô tả cuộc sống
thiên nhiên, dờng nh các nhà văn lẫn mình trong gió, trong mộng, trong âm sắc
của rừng. Với Lan Khai, cảnh núi rừng hiện lên thật sinh động. Khi thì ta thấy núi
in hình trên nền mây rực rỡ nh những bóng tơng t (Suối Đàn), có lúc rừng núi
nổi từng đám đen bí mật lì lì nh đang thầm tính những chuyện gì ghê gớm (Đỉnh
non thần) và kia khi chiều buông xuống những dải núi tím hồng nh những con
rắn khổng lồ đơng quằn quại trong đám lửa đỏ rực (Đỉnh non thần). Việc tạo ra
các hình ảnh độc đáo, các nhà văn đã mở ra một thế giới thiên nhiên thứ hai trong
nghệ thuật.
Nhiều tác phẩm thiên nhiên hiện lên nh một bức tranh hài hoà giữa cảm hứng
hiện thực và lãng mạn, từ đờng nét, hình khối đến màu sắc, âm thanh vừa chân thực
sinh động vừa chứa chan thi vị. Trong nhiều trang viết của các nhà văn thấm đẫm
tính nhạc và hội họa trong mạch cảm xúc, tạo nên cho ngôn từ thêm thi vị. Đó là phối
hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, kỳ ảo trong sáng tạo đã đem đến
những cảm giác và ấn tợng sâu sắc, sinh động trong bạn đọc.
3.2.2. Miêu tả nhân vật đa diện và ấn tợng
3.2.2.1. Những nhân vật là con ngời xã hội

Truyện viết về miền núi cho thấy, cái nhìn của các nhà văn về nhân vật trong
tác phẩm luôn gắn với quan niệm thẩm mĩ của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đó là
chân dung những con ngời gắn với khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống nơi thôn
bản. Xây dựng chân dung ngời phụ nữ các tác giả chú ý tới vẻ đẹp, sự khoẻ khoắn
cùng với trang phục mang tính sắc tộc. Xây dựng chân dung những chàng trai mang
vẻ đẹp và sức mạnh của non cao rừng thẳm. Xây dựng hình tợng ngời nghèo khổ,
các tác giả chú ý tới những phần méo mó, xộc xệch từ diện mạo. Khắc hoạ, hình


22

tợng nhân vật mang cái xấu, cái ác đợc các tác giả chú ý gắn liền với đặc điểm của
từng loài mãnh thú. Trong quá trình xây dựng nhân vật nhà văn còn chú ý thể hiện
những diễn biến phức tạp của tâm hồn nhân vật làm hiện rõ cá tính con ngời.
3.2.2.2. Những nhân vật kì ảo

Xây dựng nhân vật kì ảo, các nhà văn đã khéo léo dựa trên nền hiện thực và dựa
vào sự kỳ bí của thế giới thiên nhiên để lồng vào đó nhân vật kỳ ảo. Giữa cái thực- cái
ảo; cái tự nhiên - cái siêu nhiên; cuộc sống của ngời phàm trần và của Thần linh đan
xen, trộn lẫn tạo nên một thế giới sống động, hấp dẫn. Bên cạnh đó, các nhà văn còn
tạo ra không gian ảo làm điểm tựa cho nhân vật xuất hiện, ngời viết đã khéo léo tạo
ra những tình huống bất ngờ đa đến cho ngời đọc những hình tợng khác thờng, dị
biệt, giúp ngời đọc đồng sáng tạo trong tởng tợng.
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật phong cách hoá
3.3.1.1. Ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ

Đó là ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của những con ngời sống cùng làng, cùng
bản: từ cách cảm, nếp nghĩ, thói quen giao tiếp, sinh hoạt đợc biểu hiện rất tự nhiên,
phác thực, nghĩ sao nói vậy đã đi vào tác phẩm. Trong nhiều truyện các tác giả sử
dụng khá nhiều câu khuyết thành phần, câu đặc biệt trong lời thoại của các nhân vật,
góp phần khắc hoạ chân dung của nhiều kiểu ngời, nhiều cách cảm, cách nghĩ và
diễn biến tâm lý trong đời sống tâm hồn con ngời miền núi.
3.3.1.2. Ngôn ngữ mang sắc thái địa phơng
Trong truyện viết về miền núi giai đoạn 1930-1945 nhiều từ ngữ địa phơng,
nhiều tiếng dân tộc Tày, Nùng, Dao, HMông, Bana, Giarai vv đợc sử dụng trong
đối thoại giúp ta dễ nhận diện phạm vi hiện thực đợc phản ánh trong tác phẩm; đồng
thời làm nổi rõ bản sắc ngôn ngữ mỗi vùng miền. Tuy nhiên, trong một số trang viết

nhà văn lạm dụng nhiều tiếng địa phơng và ngôn ngữ của dân tộc thiểu số sẽ gây
phản cảm cho độc giả.
3.3. 2. Giọng điệu trần thuật nhiều cung bậc
3.3. 2.1. Giọng điệu lôi cuốn linh hoạt

Qua ngôn ngữ ngời kể chuyện, cuộc sống con ngời miền núi hiện lên thật
sinh động. Khi thì qua lời kể ta thấy cảnh thiên nhiên tơi đẹp mà lòng ngời cô đơn.

23

Khi thì lời kể đợc gửi vào cảnh vật mà ngời đọc đến đợc những miền khuất lấp
trong sâu thẳm cuộc đời, số phận mỗi con ngời. Và qua giọng điệu trần thuật linh
hoạt, những đặc điểm về đời sống phong tục, tập quán lần lợt hiện lên trong mối
quan hệ tự nhiên với xã hội đã đem đến cho ngời đọc cái nhìn mới về thế giới sơn
lâm nh cuộc sống vẫn hằng sinh tồn.
Một phơng diện đáng chú ý của giọng điệu trần thuật trong truyện viết về
miền núi giai đoạn 1930-1945 là sự h cấu, tởng tợng trong lời kể. Gắn vào đó luôn
là những yếu tố huyền thoại dân gian, những yếu tố truyền kỳ phù hợp với cái bí
hiểm, rùng rợn vốn có nơi rừng sâu vực thẳm. Chuyện về ngời hóa hổ, ngời bị hổ ăn
thịt, rắn cắn chết ngời, hay ngời gặp ma vv Những câu chuyện kiểu này, sự tuởng
tợng, h cấu không bị gò bó, không theo khuôn mẫu. Trong trần thuật, các nhà văn
luôn kết hợp hài hòa giữa kể và tả xen những yếu tố h ảo, kỳ lạ với đời thực, cùng
nếp sống sinh hoạt, suy nghĩ phù hợp với ngời dân miền núi.
3.3.2.2. Giọng điệu trữ tình tha thiết

Sự uyển chuyển trong lời văn miêu tả đợc hiện hữu qua lời thơ mềm mại của
những bài ca đã đi vào tác phẩm một cách tự nhiên. Đó là những làn điệu dân ca dân
tộc thiểu số, những đoạn thơ nguyên âm tiếng dân tộc Tày, Nùng, Mờng, Dao,
Banar, Giarai vv mang hơi thở và cảm xúc hồn hậu luôn tạo nên chất trữ tình đằm
thắm trong mỗi trang viết.

3.3.2.3. Giọng điệu cảm thơng, ai oán, giận hờn
Trong nhiều trang viết về miền núi ta thấy những con ngời tốt đẹp cất lên
những tiếng kêu thơng từ chính cuộc đời họ. Những thiếu nữ xinh đẹp, duyên dáng,
tơi tắn nh hoa ngàn, tinh khiết nh nớc suối rừng luôn khát khao hạnh phúc giản
đơn, bình dị. Những chàng trai hiền lành, cần cù chịu khó chỉ mong muốn đợc sống
thật với tình cảm của chính mình. Nhng, nỗi khổ, sự nghèo túng cứ luôn đeo bám họ,
tình yêu luôn bị chia cắt. Trong nhiều trang viết cất lên giọng điệu phê phán, căm hờn
hớng vào thế lực đen tối. Miêu tả hành động, ngôn ngữ của thế lực này các tác giả
gián tiếp thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét chúng.
Các nhà văn đều gần gũi nhau ở cảm nghĩ: thơng yêu, thông cảm, trân
trọng, ngợi ca ngời lơng thiện, phê phán những thế lực bạo tàn.


24


3.4. Kết luận chơng 3
Để làm nên bức tranh nghệ thuật nhiều màu sắc trong các truyện viết về
miền núi giai đoạn 1930-1945, các nhà văn có nhiều nỗ lực sáng tạo ra thế giới
nghệ thuật ở nhiều bình diện, phong phú và độc đáo về cốt truyện và kết cấu.
Những cốt truyện đơn giản nhng hấp dẫn, và kết cấu phong phú đa dạng, linh
hoạt, tạo ra các bức tranh nghệ thuật giàu sức sống. Qua việc mô tả thế giới thiên
nhiên, và thế giới nhân vật cho thấy các nhà văn đã tạo ra các điểm nhìn nghệ thuật
linh hoạt làm cho thế giới thiên nhiên tơi đẹp lại càng tơi đẹp hơn, thế giới nhân
vật sinh động lại càng sinh động hơn. Vẻ đẹp của các Truyện đờng rừng còn hiện
hình qua ngôn ngữ và giọng điệu, nhờ năng lực quan sát và sự am hiểu cuộc sống
và con ngời miền núi, các nhà văn còn tạo nên chân dung và tính cách, số phận
nhân vật qua phong cách của lời văn nghệ thuật. Mỗi nhà văn đã tạo ra chỗ đứng
cho riêng mình bằng sở trờng và năng lực riêng. Tất cả tạo nên các thành phẩm
nghệ thuật mới, góp vào bức tranh toàn cảnh của nền văn học dân tộc.


Kết luận
1. Trong giai đoạn 1930 - 1945 sự xuất hiện một số cây bút viết về đề tài miền núi
nh : Lan Khai, Thế Lữ, Lu Trọng L, TChya vv đã trở thành một hiện tợng mới trong
văn học. Do vậy, những đóng góp của những nhà văn viết về miền núi là rất đáng trân trọng,
nhng cha đợc nghiên cứu toàn diện. Đây là công trình đầu tiên của chúng tôi đi vào
nghiên cứu một cách hệ thống về các tác phẩm viết về miền núi. Trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi kế thừa những thành tựu của những ngời đi trớc, đồng thời cố gắng tái hiện,
phân tích, lý giải sâu hơn mảng văn học này. Đây là những sáng tác đã góp vào bức tranh
toàn cảnh của nền văn học Việt Nam hiện đại nhiều thành tựu mới, từ đề tài hiện thực
đến phơng thức phản ánh, là một bớc tiến mới của nền văn nghệ nớc nhà gắn với
trào lu cách tân nghệ thuật diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ nhất ở thế kỷ XX. Với việc
mở rộng đề tài và đa dạng về qui mô, khuynh hớng phản ánh, truyện viết về miền núi
đã đem lại nhiều hình tợng nghệ thuật độc đáo. Đó là sự đổi mới quan niệm nghệ
thuật, phơng thức chiếm lĩnh hiện thực, phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa

25

nghệ thuật thế giới của thế hệ những ngời đi trớc, đã đem lại một diện mạo mới cho
tinh thần dân tộc.
2. Là một vùng đất hoang vu trải qua nhiều thế kỷ, đến thời kỳ 1930-1945, miền núi
trở thành điểm thu hút mạnh mẽ nhiều cây bút đơng thời. Do bản thân hiện thực tiềm tàng
thẩm mĩ đã khơi dậy trong các nhà văn hớng tới khám phá để làm nên những giá trị nghệ
thuật hấp dẫn. Đó là thế giới thiên nhiên muôn sắc màu. Một thiên nhiên chân thực, thơ
mộng với những âm thanh sôi động của sự sống mãnh liệt nơi nguồn xanh hoa dại;
một thiên nhiên lung linh, huyền diệu theo dòng chảy của thời gian; một thiên nhiên
chứa chan thi vị, mới lạ, huyền ảo nh trong truyện cổ tích, thần thoại, trong không
khí hào hùng thấm đẫm chất sử thi của các bộ tộc Tây Nguyên; một thế giới của
muôn loài cầm thú. Đi sâu khám phá thế giới sơn lâm trên nhiều bình diện khác nhau,
các nhà văn đã đem đến bức tranh hiện thực muôn màu muôn vẻ cho ngời đọc. Con

ngời trong những truyện viết về miền núi hiện lên một cách chân thực, sinh
động, gắn bó với thiên nhiên, với môi trờng sống và trở thành những điểm sáng
thẩm mĩ của núi rừng. Sở dĩ các sáng tác viết về miền núi thu hút sự quan tâm của
đông đảo bạn đọc, bởi đó là những bức tranh đầu tiên khám phá truyền thống văn hóa,
phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số từ nét đẹp văn hóa tinh thần đến các sinh
hoạt văn hóa vật chất tiêu biểu cho bản sắc của từng dân tộc lại vừa mang đặc tính
chung của cộng đồng dân tộc miền núi.
3. Truyện viết về miền núi hấp dẫn đợc ngời đọc còn bởi những phơng thức nghệ
thuật độc đáo. Từ nghệ thuật xây dựng cốt truyện, kết cấu, mô tả thế giới thiên nhiên, thế
giới nhân vật đến ngôn ngữ và giọng điệu, tất cả đều linh hoạt, sáng tạo. Các cốt truyện ở
đây thể hiện tính đa dạng, phong phú và có qui mô, dung lơng phản ánh khác nhau.
Có những tác phẩm cốt truyện thể hiện tính qui mô của tiểu thuyết, có những truyện
chỉ dừng lại ở những lát cắt của cuộc sống. Ngoài ra, truyện viết về miền núi giai
đoạn này còn kết cấu hết sức phong phú và đa dạng. Có những truyện đợc xây dựng
theo mối quan hệ tơng phản, mối quan hệ chính phụ, mối quan hệ bổ sung, lại có
truyện đợc xây dựng với lối kết tự do hoặc kết cấu mở. Bên cạnh đó, còn có những
truyện đợc kết cấu bằng hình thức của một bức th hay đợc kết cấu mang tính kịch.
Khả năng khám phá của các tác giả về điểm nhìn bên trong của nhân vật là rất đặc
sắc. Truyện viết về miền núi giai đoạn 1930 - 1945 với việc sử dụng khá nhiều ngôn

×