BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
NGUYỄN VĂN TIẾN
THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ VIỆC KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 62 38 50 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2009
Công trình được hoàn thành tại Viện Nhà nước và pháp luật
Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Luyện
Phản biện 1:…………………………………………………………………
Phản biện 2:…………………………………………………………………
Phản biện 3:…………………………………………………………………
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước họp
tại Viện Nhà nước và pháp luật, s
ố 27, Trần xuân Soạn, Hà Nội.
Vào hồi……….giờ………ngày……….tháng……… năm 2009
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Viện Nhà nước và pháp luật
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Nguyễn Văn Tiến (2008),
“Đường lối xử lý và hậu quả những
trường hợp không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự”
, Nhà nước và Pháp luật, (7).
2. Nguyễn Văn Tiến (2008),
“Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân đối với vụ việc hôn nhân và gia đình”
, Khoa học pháp lý, (4).
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 cho đến nay,
với chủ trương đổi mới, đất nước ta đã có chuyển biến sâu sắc
trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và đã đạt được
những thành tích quan trọng làm tiền đề cho sự phát triển của
đất nước, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội
ch
ủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Song, quá trình phát triển vẫn bộc lộ những yếu kém,
khuyết điểm và chưa được khắc phục triệt để. Tình hình vi
phạm pháp luật diễn ra vẫn còn phổ biến và ngày càng đa
dạng, trong khi đó pháp luật chưa theo kịp với sự phát triể
n
của xã hội, cơ chế điều chỉnh pháp luật vẫn còn nhiều trở ngại,
bất cập. Điều này làm ảnh hưởng đến trật tự công công, làm
xói mòn các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lòng tin và
quyền lợi của nhân dân.
Những khuyết điểm và yếu kém đó xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự yếu kém trong
hoạt động tư pháp. Theo đ
ánh giá của Bộ Chính trị Ban chấp
hành trung ương Đảng tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005: "
Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự
và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được
sửa đổi, bổ sung
». Thực tiễn này đòi hỏi phải thực hiện hoạt
động cải cách tư pháp, trong đó có sự hoàn thiện pháp luật tố
tụng về kinh doanh, cơ chế áp dụng pháp luật và cải cách tổ
chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Lý luận và thực tiễn cho thấy việc cải cách tư pháp có
mối liên hệ với việc hoàn thiện pháp luật thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân đố
i với các tranh chấp trong kinh doanh
và cơ chế áp dụng pháp luật thẩm quyền tại Tòa án nhân dân.
Đây là một trong số những nội dung cơ bản, quan trọng trong
việc cải cách và trên nền tảng đó, hoàn thiện cơ chế bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị và hội
nhập kinh tế quốc tế.
2
Nhận thức đầy đủ, đúng đắn, chính xác về pháp luật
thẩm quyền xét xử thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối
với các tranh chấp trong kinh doanh và cơ chế áp dụng thẩm
quyền xét xử có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bảo vệ
quyền công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền, đổi mới căn
bản cơ chế xây dựng, thực hiện pháp luật góp phần xây dự
ng
nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân và đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Những điều trình bày trên đây là lý do, lập luận cho sự
lựa chọn việc nghiên cứu
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam
làm đề tài luận án Tiến sĩ khoa học
Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ
việc kinh doanh, thương mại, một phạm vi cơ bản trong luật tố
tụng dân sự, vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn, tiền đề
pháp lý để công dân tiếp cận công lý và là một nội dung của
Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Trong khoa
học pháp lý, thẩm quyền xét xử trong tố tụng dân sự chư
a nhận
được sự quan tâm đầy đủ, đúng mức, chưa đi sâu phân tích,
đánh giá về phạm vi này. Đặc biệt, trong các giáo trình luật tố
tụng dân sự của các trường đại học trong nước hiện nay, thẩm
quyền xét xử với tư cách là một phạm vi cơ bản đã được đề
cập nhưng chưa sâu sắc, toàn diện hoặc chỉ ở mức liệt kê.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, tác gi
ả nhận thấy có một số
công trình khoa học trong nước được nghiên cứu dưới các mức
độ và góc độ khác nhau đã được công bố như:
- "
Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
" của GS.TSKH Đào Trí Úc
(Chủ biên), sách chuyên khảo, nhà xuất bản Tư pháp, Hà nội
năm 2007
- "
Xây dựng Bộ luật tố tụng Tố tụng Dân sự, những
vấn đề lý luận và thực tiễn
" của PGS.TS Phan Hữu Thư, sách
tham khảo, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2001
3
- "
Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở
nước ta hiện nay
" của TS Đào Văn Hội, sách tham khảo, nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004
- "
Về pháp luật tố tụng dân sự
", dự án VIE/95/017-
Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Kỷ yếu của Dự án,
Hà nội tháng 5, năm 2000
- «
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải
quyết các khiếu kiện hành chính
» Luận án tiến sỹ Luật học
của TS Nguyễn Thanh Bình, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà
nội, năm 2003
- «
Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự
trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
»
Luận án tiến sỹ Luật học của TS Lê Thị Hà, Trường Đại học
Luật Hà nội, Hà nội, năm 2005
- "
Luật Tố tụng dân sự, nghiên cứu so sánh
" của Ths
Tống Công Cường, sách tham khảo, nhà xuất bản Đại học
quốc gia Thành phố Hồ chí Minh, năm 2007
- "
Những vấn đề cơ bản của luật pháp Mỹ
", sách tham
khảo, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2007
- "
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh theo
Bộ luật Tố tụng Dân sự và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi
hành
" của TS Phan Chí Hiếu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 6, 2005
- "
Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân
" của PGS.TS Trần Văn Độ, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 6, 2003
- «
Quyền lực nhà nước và quyền công dân
», PGS.TS
Đinh Văn Mậu, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà nội, 2003…
Trong các công trình nghiên cứu của mình, các nhà
khoa học tập trung nghiên cứu quyền con người đặt trong mối
quan hệ với các cơ quan tư pháp; chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Tòa án nhân dân với việc bảo vệ quyền công dân, xã
hội dân sự và xây dựng nhà nước pháp quyền đặt trong chiến
lược cải cách tư pháp. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
họ
c đã thể hiện sinh động và hiện thực về thực trạng pháp luật
thẩm quyền xét xử, tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp
và điều kiện thực hiện các chức năng đó; những bất cập, hạn
chế cũng như những kiến nghị khoa học đã được luận giải và
4
đề xuất. Đây chính là nguồn nhận thức cơ bản giúp cho tác giả
định hướng việc nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu nêu trên, chưa đề cập toàn diện thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh
doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Theo tác giả, khi nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại
theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, trước hết phải xuất
phát từ bản chất của pháp luật là quyền tiếp cận công lý của
công dân, tính tất yếu khách quan của thẩm quyền xét xử,
những đòi hỏi từ thực tiễn sinh động đến các nội dung cụ thể;
nhận thức các vấn đề từ khía cạnh lý luận đến thực tiễn và thực
hiện pháp luậ
t. Việc tiếp cận như vậy mới có thể nhận thức
đầy đủ những yêu cầu, định hướng hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc
kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam và cơ chế áp dụng thẩm quyền. Phải nhận thức đầy đủ về
thẩm quyền xét xử là phương th
ức công dân thực hiện tố
quyền, khả năng để con người được hưởng quyền tự do, bình
đẳng và được bảo hộ bằng pháp luật.
Có thể khẳng định rằng cho đến nay ở Việt Nam chưa
có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn
diện, bao quát, đầy đủ về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật
tố tụ
ng dân sự Việt Nam, điều này cho phép tác giả khẳng định
tính cấp thiết của đề tài khoa học này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ
việc kinh doanh, thương mại đã được quy định trọng Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2004 và thực hiện trong thực tiễn tại Tòa
án nhân dân trong năm năm qua. Qua năm năm đưa cơ chế giải
quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại theo quy định của
Bộ luật Tố tụng Dân sự bằng hoạt độ
ng xét xử của Tòa án đã
có một số kết quả cụ thể, nhất là việc đề cao vai trò trách
nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ quyền tiếp cận công lý của
công dân.
Tuy nhiên, tình hình thực tế cho thấy các vụ việc kinh
doanh, thương mại được giải quyết tại Tòa án với số lượng vụ
5
việc không nhiều trong các năm qua đặt trong bối cảnh nền
kinh tế phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới là một sự bất
ổn giữa quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng. Điều này
phản ánh sự không tương xứng giữa mức độ phát triển của nền
kinh tế, nhu cầu điều chỉnh pháp luật của xã hội và thực tiễn
thi hành pháp lu
ật. Tình trạng Tòa án giải quyết một số lượng
khiêm tốn các vụ việc kinh doanh, thương mại chứng tỏ pháp
luật kinh doanh nói chung, pháp luật về thẩm quyền xét xử các
vụ việc kinh doanh, thương mại nói riêng, cơ chế áp dụng
pháp luật còn bộc lộ những hạn chế, tác động tiêu cực đến việc
cá nhân, cơ quan, tổ chức kinh tế bảo vệ quyền của mình trước
Tòa án.
Từ tình hình nh
ư vậy, việc thực hiện luận án nhằm các
mục đích :
Một là
, khẳng định quyền của cá nhân, tổ chức kinh tế
trong việc thực hiện quyền được tự mình bảo vệ quyền trước
cơ quan tài phán nhà nước (Tòa án nhân dân).
Hai là
, trách nhiệm của Tòa án nhân dân trên nền tảng
pháp luật về thẩm quyền xét xử bảo đảm mọi vụ việc kinh
doanh, thương mại phải được giải quyết theo yêu cầu của cá
nhân, tổ chức kinh tế.
Ba là
, cần xây dựng cơ chế thích hợp tạo điều kiện để
các chủ thể kinh doanh sử dụng pháp luật nhằm bảo vệ quyền
lợi của mình một cách thuận lợi và triệt để nhất.
Bốn là,
đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
các vụ việc kinh doanh, thương mại và cơ chế áp dụng thẩm
quyền xét xử.
Để thực hiện các mục đích này, nhiệm vụ của luận án
tập trung giải quyết những vấn đề sau :
Thứ nhất
, hệ thống được cơ sở lý luận, các quan điểm
khoa học nhận thức chung về thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại. Đây là
cơ sở khoa học làm căn cứ cho việc xác định thẩm quyền tư
pháp nói chung và thẩm quyền xét xử đối với các vụ việc kinh
doanh, thương mại của Tòa án nhân dân nói riêng. Trọng tâm
của nhiệm vụ
này là phân tích khái niệm thẩm quyền xét xử
các vụ việc kinh doanh, thương mại, căn cứ quy định thẩm
6
quyền và mối tương quan giữa các loại thẩm quyền với tư cách
là bộ phận của luật tố tụng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
Tòa án nhân dân.
Thứ hai
, tập trung phân tích, làm rõ nội dung của thẩm
quyền xét xử các vụ việc kinh doanh, thương mại thuộc trách
nhiệm của Tòa án nhân dân; thực tiễn thi hành pháp luật và
trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong
việc thực thi pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ việc kinh
doanh, thương mại của Tòa án nhân dân cũng như cơ chế áp
dụng pháp luật thẩm quyền. Trên n
ền tảng này, chỉ ra tính tích
cực của pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ việc kinh
doanh, thương mại đồng thời đề cập những tiêu cực làm ảnh
hưởng đến quyền công dân trong việc bảo vệ quyền bằng biện
pháp tư pháp.
Thứ ba
, sau khi phân tích, hệ thống cơ sở lý luận, phân
tích thực trạng về thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các vụ
việc kinh doanh, thương mại; những vướng mắc, bất cập khi
áp dụng pháp luật thẩm quyền xét xử, luận án có nhiệm vụ
phân tích một số phương hướng nhằm hoàn thiện về pháp luật
thẩm quyền xét xử đối với các vụ việc kinh doanh, thương mạ
i
và cơ chế áp dụng thẩm quyền. Hoàn thiện pháp luật thẩm
quyền xét xử đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại và cơ
chế áp dụng thẩm quyền là hoàn thiện công cụ pháp lý bảo
đảm quyền công dân, tổ chức kinh tế; xác định trách nhiệm
của Tòa án trong việc thực hiện các hoạt động phục vụ nhân
dân tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
xã h
ội hội dân chủ, bình đẳng, văn minh.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Trong khuôn khổ quy định pháp luật về chuyên ngành
luật kinh tế, trong bối cảnh cải cách tư pháp và tố quyền của
công dân, luận án tập trung chủ yếu vào việc xác định thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh
doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu và hoàn thành luận án trước hết là dựa
vào quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và
Pháp luật mà trọng tâm hướng về quyền con người. Luận án
7
cũng dựa vào đường lối đổi mới của đất nước, cải cách tư pháp
thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng, các Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hiến pháp và văn
bản pháp luật của Nhà nước trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền trong đó có sự hoàn thiện pháp luật, các thiết chế
tài phán kinh doanh, thương mại nhằm mục tiêu khẳng định
b
ản chất của nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân.
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân
tích, tổng hợp, so sánh, liệt kê lịch sử, kết hợp lý luận với thực
tiễn.
6. Những đóng góp về mặt khoa học
Luận án là chuyên khảo được nghiên cứu một cách khá
cơ bản, toàn diện về thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các
vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta.
Luận án có những đóng góp tích cực như sau:
- Luận án đã nêu được cơ sở lý luận cơ bản của việc
quy
định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các
vụ việc kinh doanh, thương mại, qua đó chứng minh quan
điểm đúng đắn, chính xác của Đảng và nhà nước ta trong việc
bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực này.
- Từ những quy định của pháp luật, quyền tự định đoạt
của công dân, khẳng định quyền của công dân được nhà nước
bảo hộ khi có quyền bị xâm phạm. T
ố quyền là căn cứ pháp lý
để công dân đòi hỏi nhà nước phải đảm bảo những quyền cơ
bản được thực thi trong thực tiễn xuất phát từ bản chất của nhà
nước ta là của dân, do dân, vì dân.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh
doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,
qua đó nêu lên được những nội dung tích cực cũng như tiêu
cực, phát hiện những bất cập, hạn chế của pháp luật về thẩm
quyền xét xử để từ đó có phương hướng khắc phục, sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa
án đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại và cơ chế áp
dụng thẩ
m quyền.
- Những kết luận, giải pháp, kiến nghị trong luận án
này góp phần làm căn cứ để hoàn thiện quy định của pháp luật
8
về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc
kinh doanh, thương mại và cơ chế áp dụng pháp luật thẩm
quyền xét xử. Trên nền tảng đó, nhà nước ta hoàn thiện các
chế định tư pháp, tăng cường quyền tiếp cận công lý của công
dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà
nước pháp quyền.
7. Cơ cấu của luận án
Luận án được thực hiện với một khối lượng phù hợp
với mục đích, phạm vi, nhiệm vụ và mức độ nghiên cứu vấn
đề. Luận án được thiết kế bao gồm lời nói đầu, phần nội dung
và phần kết luận.
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH THẨM
QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
ĐỐI VỚI
CÁC TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử các vụ việc kinh doanh,
thương mại trong Tố tụng Dân sự
1.1.1. Quyền tiếp cận công lý của công dân
Luận án phân tích quyền tiếp cận công lý là quyền cơ
bản của công dân, nội dung của quyền con người. Quyền tiếp
cận công lý gắn liền với thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân trong việc bảo vệ quyền công dân tại Tòa án. Quyền tiếp
cận công lý của công dân là quyền cơ bản của con người, Hiến
định và được thực thi bởi các thiết chế tư pháp. Thẩm quyền
xét xử góp phầ
n bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử các vụ việc kinh
doanh, thương mại
Từ trước đến nay trong khoa học pháp lý của nhà nước
ta chưa có khái niệm thống nhất và cụ thể về thẩm quyền xét
xử của Tòa án đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại.
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của thẩm quyền này, luận
án xây dựng khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
các vụ việc kinh doanh, thương mại.
9
Là giới hạn (khả năng) do luật định cho Tòa án nhân
dân trong việc giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại
trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác và trong hệ
thống các cơ quan Tòa án nhân dân
.
- Thẩm quyền xét xử là phạm vi quyền hạn của Toà
án nhân dân trong việc thực hiện pháp luật mà trọng tâm là
công tác xét xử các loại vụ án theo quy định của pháp luật
- Thẩm quyền xét xử là sự phân định quyền hạn giữa
Toà án nhân dân với các cơ quan chức năng khác trong hệ
thống các cơ quan nhà nước
- Thẩm quyền xét xử là sự phân định quyền hạn giữa
các Toà án với nhau
1.1.3. Phân loại thẩm quyền xét xử
Ở góc độ chung về khoa học học pháp lý, thẩm quyền
xét xử phân loại theo các tiêu chí :
- Căn cứ vào bản chất của sự việc, thẩm quyền xét xử
được chia thành thẩm quyền xét xử hình sự, hành chính và dân
sự.
- Căn cứ vào mức độ vụ việc được giải quyết, thẩm
quyền xét xử được chia thành thẩm quyền chung và thẩm
quyền riêng biệt.
- Căn cứ vào mức độ ph
ức tạp, giá trị tranh chấp của
các vụ việc, thẩm quyền xét xử được phân chia thành thẩm
quyền xét xử của Tòa án cấp huyện, thẩm quyền xét xử của
Tòa án cấp tỉnh.
- Căn cứ vào yếu tố lãnh thổ, thẩm quyền xét xử phân
chia thành thẩm quyền nơi cư trú, có trụ sở (đối với pháp
nhân) và thẩm quyền nơi có tài sản (bất động sản).
- Căn c
ứ vào mức độ, giới hạn, thẩm quyền xét xử
được chia thành thẩm quyền theo sự bắt buộc và thẩm quyền
theo sự lựa chọn.
- Căn cứ vào yếu tố quốc tịch, lãnh thổ quốc gia, thẩm
quyền xét xử được phân chia thành thẩm quyền xét xử của Tòa
án nước này hay của Tòa án nước khác.
Ở góc độ pháp luật tố tụng dân sự, thẩm quyền xét xử
các vụ vi
ệc kinh doanh, thương mại được chia thành: Thẩm
quyền của Tòa án đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại,
thẩm quyền của Tòa án các cấp, thẩm quyền của Tòa án theo
10
lãnh thổ và thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của
nguyên đơn.
-
Thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc kinh
doanh, thương mại
Thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp về kinh
doanh là giới hạn (khả năng) do pháp luật quy định để Tòa án
nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc
thụ lý và giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại
.
Thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp về kinh
doanh được quy định căn cứ vào các yếu tố :
- Tính chất riêng biệt của các quy phạm pháp luật
kinh doanh, thương mại.
- Thành phần chủ thể của quan hệ pháp luật kinh
doanh, thương mại
- Mục đích của các chủ thể khi tham
gia
quan hệ
pháp luật kinh doanh, thương mại
- Thẩm quyền của Tòa án các cấp
Thẩm quyền của Tòa án các cấp là giới hạn do pháp
luật quy định để Tòa án các cấp thực hiện chức năng giải
quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại.
Thẩm quyền của Tòa án các cấp đối với các tranh chấp
trong căn cứ vào các tiêu chí : tính chất phức tạp của vụ việc,
hệ thống tổ chức Tòa án và điều kiện, khả năng giải quyết các
loại vụ việc của từng cấp Tòa án.
-
Thẩm quyền theo lãnh thổ
Thẩm quyền theo lãnh thổ là giới hạn (khả năng) do
pháp luật quy định xác định chức năng giải quyết các vụ việc
kinh doanh, thương mại của Tòa án theo đơn vị hành chính-
lãnh thổ cụ thể
.
Thẩm quyền theo lãnh thổ được xác định là nơi người
bị kiện cư trú, làm việc, có trụ sở (đối với pháp nhân), theo
thỏa thuận và nơi có bất động sản. Loại thẩm quyền này được
quy định căn cứ vào các yếu tố: tạo điều kiện thuận lợi bị đơn
tham gia tố tụng, sự thuận lợi của Tòa án trong việc giải quyết
các v
ụ việc kinh doanh, thương mại và phòng tránh tình trạng
một vụ án được giải quyết nhiều lần.
-
Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của
nguyên đơn
11
-
Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn là giới
hạn do luật định cho các chủ thể trong việc lựa chọn Tòa án
giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại
.
Thẩm quyền theo sự lựa chọn là hình thức pháp luật
đưa ra các quy định về Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ
việc kinh doanh, thương mại và dựa vào đó nguyên đơn tự
chọn Tòa án giải quyết các yêu cầu của mình.
1.2. Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
các vụ việc kinh doanh, thương mại trong tố tụng dân sự
Luận án nghiên cứu căn cứ quy định thẩm quyền xét xử
của Tòa án đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại trong
tố tụng dân sự dựa vào các cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam.
1.2.1. Tố quyền của công dân
Luận án khẳng định tố quyền là quyền quan trọng của
công dân trong xã hội có pháp luật. Tố quyền được hiểu với
hai phương diện: quyền công dân kêu gọi đến nhà nước mà
trực tiếp là các cơ quan tư pháp bảo vệ quyền và là phương
thức nhà nước bảo hộ quyền công dân.
Tố quyền có các đặc điểm: Là quyền pháp định và
được thực hiện theo sự định đoạ
t của công dân. Hình thức của
tố quyền thể hiện ở các hình thức sau: Quyền đưa ra yêu cầu
của nguyên đơn khi khởi kiện, của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập, quyền phản tố của bị đơn và
quyền phản đối yêu cầu của các đương sự. Tố quyền gắn liền
với quyền khởi kiện, yêu cầu củ
a công dân trước Tòa án nhằm
mục đích tiếp cận công lý. Thẩm quyền xét xử là hình thức bảo
đảm cho tố quyền được thực thi tại cơ quan tư pháp.
1.2.2. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của các đương sự
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự là nội dung của sự tư do, dân chủ. Trên nền tảng
đó, công dân có quyền lựa chọn các phương thức bảo vệ quyền
trong đó có biện pháp khởi kiện tại Tòa án. Pháp luật phải ghi
nhận và tôn trọng quyền tự định đoạt của công dân. Tòa án có
nghĩa vụ phải tiếp nhận, gi
ải quyết các yêu cầu của công dân
với tư cách là cơ quan thực hiện dịch vụ công.
1.2.3. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người tiến hành
tố tụng
12
Luận án phân tích trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
người tiến hành tố tụng có vai trò quan trọng trong hoạt động
tố tụng và giúp cho hoạt động xét xử của Tòa án ngày càng
đúng pháp luật. Pháp luật về thẩm quyền xét xử khi được ban
hành có căn cứ vào yếu tố này.
1.2.4. Biên chế và cơ sở vật chất
Luận án khẳng định: Hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân không thể thực hiện nếu ngành Tòa án không được giao số
lượng biên chế nhất định và điều kiện để làm việc. Tuy hai yếu
tố này có tính chất phục vụ cho công tác xét xử nhưng có ảnh
hưởng đến kết quả xét xử của Tòa án nhân dân. Ở góc độ
chung, biên chế và cơ sở vật chất có vai trò trợ giúp Tòa án
trong việc thực thi pháp luật, trong
đó có pháp luật về thẩm
quyền xét xử.
1.3. Vị trí, vai trò của thẩm quyền xét xử của Tòa án đối
với các vụ việc kinh doanh, thương mại trong tố tụng dân
sự
Luận án phân tích, khẳng định thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân có vị trí, vai trò quan trọng trong tố tụng dân
sự và thể hiện ở các mặt sau :
- Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân là cơ sở
pháp lý bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp
luật
- Thẩm quyền xét xử là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền
khiếu nại, tố cáo và xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể
vi phạm pháp lu
ật
- Thẩm quyền xét xử là cơ sở pháp lý đảm bảo tính
thống nhất trong hoạt động áp dụng pháp luật
1.4. Phân biệt thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân đối
với các vụ việc kinh doanh, thương mại trong tố tụng dân
sự với thẩm quyền xét xử của Toà án nhân về hình sự,
hành chính
Luận án phân tích sự khác nhau giữa các loại hình tố
tụng trong pháp luật tố tụng và căn cứ của sự phân biệt đó là:
Nhiệm vụ của các luật tố tụng, chủ thể làm phát sinh quan hệ
tố tụng và tiêu chí quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án các
cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ
13
1.5. Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật về thẩm
quyền xét xử của Tòa án đối với các vụ việc kinh doanh,
thương mại
tại Việt Nam từ tháng Tám năm 1945 đến nay
Trên cơ sở các quy định của pháp luật được ban hành
tại Việt Nam sau khi giành được độc lập ngày 02.09.1945 cho
đến nay, luận án trình bày quá trình phát triển của pháp luật
Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với
các vụ việc kinh doanh, thương mại. Đặc biệt là các văn bản:
Nghị định số 75-CP ngày 14/4/1975 của Hội đồng Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Trọ
ng tài kinh tế Nhà
nước, Pháp lệnh Trọng tài kinh tế ngày 10.01.1990, Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 28.12.1993 và Bộ
luật Tố tụng Dân sự ngày 15.06.2004. Trên cơ sở đó, luận án
khẳng định: Nhà nước ta luôn quan tâm đến pháp luật giải
quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THẨM
QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỐI VỚI
CÁC VỤ VIỆC KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
2. 1. Thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc kinh
doanh, thương mại
Luận án phân tích các vụ việc kinh doanh, thương mại
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo quy định
của pháp luật hiện hành. Cụ thể về kinh doanh, thương mại
Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với bốn loại vụ án: tranh
chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; tranh chấp giữa
công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau và tranh chấ
p khác về kinh doanh,
thương mại mà pháp luật có quy định. Đối với các việc kinh
doanh, thương mại, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các việc
liên quan đến Trọng tài thương mại Việt Nam, yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của Toà án nước ngoài, quyết định kinh
doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài hoặc không công
14
nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án
nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
Luận án chỉ ra những hạn chế trong loại thẩm quyền
này bao gồm :
- Việc phân loại vụ việc kinh doanh, thương mại với
các vụ việc khác chưa rõ ràng, chưa đi vào bản chất của vụ
việc để từ đó, chú trọng giải quyết yêu cầu của công dân.
- Tên gọi vụ việc kinh doanh, thương mại là quá dài, dễ
gây nhầm lẫn
- Cách lập pháp theo hướng liệt kê là chưa khoa học
- Mục đích trong hoạt động kinh doanh thiếu tiêu chí
phân biệt với các quan hệ pháp luật khác tạo ra sự phức tạp khi
áp dụng pháp luật.
2.2. Thẩm quyền của Tòa án các cấp
Luận án phân tích các vụ việc thuộc thẩm quyền của
Tòa án các cấp cũng như tiêu chí để phân chia thẩm quyền.
Qua nghiên cứu, thẩm quyền của Tòa án các cấp bộc lộ các
hạn chế :
- Pháp luật thẩm quyền của Tòa án các cấp chưa áp
dụng thống nhất theo Bộ luật Tố tụng Dân sự (còn thực hiện
theo các Pháp lệnh)
- Sự phân chia thẩm quyền của Tòa án các cấp chưa
hợp lý. Tòa án c
ấp tỉnh hiện hành giải quyết quá nhiều thủ tục
(sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm).
- Quy định Tòa án cấp tỉnh giải quyết những vụ việc
thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện là chưa khoa học, dễ
dẫn đến sự tùy tiện, lạm quyền và không tạo được sự thuận
tiện cho công dân bảo vệ quyền của họ.
- Thẩ
m quyền giải quyết các vụ án kinh doanh có yếu
tố nước ngoài theo quy định của luật hiện hành còn nhiều mặt
hạn chế, chưa tương xứng với tầm vóc các quan hệ kinh
doanh, thương mại như hiện nay.
2.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Luận án phân tích thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
được quy định trong pháp luật hiện hành và chỉ ra một số hạn
chế :
15
- Quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp mang
tính cưỡng ép, chưa thật sự tạo cơ hội để đương sự chọn Tòa
án thuận lợi nhất trong việc bảo vệ quyền.
- Khái niệm tranh chấp bất động sản chưa có tiêu chí
phân biệt cụ thể, rõ ràng.
- Nơi cư trú, có trụ sở của bị đơn chưa được hướng dẫn
cụ thể nhất là b
ị đơn là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
2.4. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên
đơn
Luận án phân tích thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa
chọn của nguyen đơn quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự
và tiêu chí phân biệt các loại thẩm quyền này (lựa chọn có điều
kiện và lựa chọn không có điều kiện).
2.5.
Thực tiễn áp dụng pháp luật thẩm quyền xét xử
2.5.1. Nhận xét chung
Luận án trình bày một số kết quả giải quyết vụ việc dân
sự của ngành Tòa án Việt Nam và các vụ việc kinh doanh,
thương mại trong thời gian qua, trên cơ sở các số liệu cụ thể và
rút ra một số kết luận:
Một là, các vụ việc kinh doanh, thương mại mà ngành
Tòa án Việt Nam giải quyết trong thời gian qua ngày càng
tăng. Đây là biểu hiện của sự phát triển về kinh tế-xã hội và
nhu cầu giải quyết tranh chấp bằng pháp luật được công dân
chú trọng.
Hai là, kết quả giải quyết các loại vụ án tại Tòa án nhân
dân ngày càng được cải thiện. Điều này cho thấy ngành Tòa án
đã có nhiều nỗ lực trong việc thực thi nhiệm v
ụ của mình.
Tuy nhiên, việc giải quyết các loại vụ án tại Tòa án
nhân dân có sự phân hóa và không đồng đều giữa các loại vụ
án.
Thứ nhất, các loại vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình chiếm đa số trong tổng số các loại vụ án mà ngành
Tòa án Việt Nam thụ lý giải quyết hằng năm.
Thứ hai, số lượng các vụ việc kinh doanh, thương mại
do Tòa án giải quyết trong thời gian qua chiếm tỷ lệ
khiêm tốn
so với các vụ việc khác, nhất là so với vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình.
16
Ba là, hầu hết các vụ việc kinh doanh, thương mại phát
sinh chủ yếu ở các trung tâm kinh tế lớn, có đời sống kinh tế
năng động, phát triển.
2.5.2. Một số vướng mắc trong thực tiễn về xác định thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh
doanh, thương mại
Luận án chỉ ra một số bất cập, vướng mắc trong quá
trình áp dụng pháp luật về kinh doanh tại Tòa án, bao gồm
:
-
Về thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc kinh
doanh, thương mại
Một là, sự hạn chế của pháp luật về thẩm quyền xét xử
cản trở công dân thực hiện tố quyền. Hiện nay công dân, cơ
quan, tổ chức chỉ có thể khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết
các vụ việc kinh doanh, thương mại được quy định tại Điều 29,
30 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004. Các vụ việc khác chưa
được quy định trong đi
ều luật này không được Tòa án giải
quyết.
Hai là, các vướng mắc vẫn còn tồn tại khá nhiều trong
quá trình áp dụng pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa án
đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại. Bao gồm:
Thứ nhất, khi người được thi hành án yêu cầu Tòa án
công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài và Tòa án đã
thụ lý nhưng người phải thi hành chứng minh được quyết định
trên là giả mạo thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết không?
Thứ hai, cá nhân
đã nộp tiền mua phần vốn góp của
thành viên công ty nhưng chưa đăng ký để trở thành thành
viên công ty, nếu có tranh chấp thì đó là tranh chấp dân sự hay
kinh doanh, thương mại?
Thứ ba, trong quá trình điều hành hoạt động của công
ty, lợi dụng cương vị quản lý, giám đốc công ty chiếm dụng
vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh riêng của mình,
công ty khởi kiện đòi lại số tiền đó thì đây là tranh ch
ấp kinh
doanh hay dân sự?
Thứ tư, tranh chấp giữa cá nhân góp vốn và là thành
viên Hội đồng quản trị của Trường phổ thông dân lập với pháp
nhân là Trường phổ thông dân lập thì đây là tranh chấp dân sự
hay kinh doanh?
17
Thứ năm, xã viên hợp tác xã không nhất trí với quyết
định khai trừ ra khỏi hợp tác xã, nếu họ khởi kiện thì Tòa án
có thẩm quyền giải quyết không? Nếu có thì đó là loại vụ án
gì?
Thứ sáu, nếu trong một giao dịch nhưng có cả mục
đích sinh hoạt, tiêu dùng và mục đích lợi nhuận thì có thể nhập
vụ án dân sự vào vụ án kinh doanh thương mại để giải quyết
không ?
Thứ bảy, tiêu chí nào
để phân biệt mục đích tiêu dùng,
sinh hoạt với lợi nhuận?
Thứ tám, vướng mắc về thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng bị phá sản gắn liền với
quyền sử dụng đất.
-
Về thẩm quyền của Tòa án các cấp
Luận án chỉ ra một số bất cập trong việc áp dụng thẩm
quyền các cấp, bao gồm:
Thứ nhất, về việc áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 33 Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2004.
Thứ hai, về việc áp dụng Điều 29 và điểm b, khoản 1,
Điều 33 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, đối với các loại hợp
đồ
ng không được liệt kê trong Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Thứ ba, về áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố
tụng Dân sự đối với sự thỏa thuận giữa các đương sự.
- Về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Luận án phân tích những vấn đề vướng mắc, hạn chế thể
hiện trong thẩm quyền này gồm:
Một là, việc xác định nơi cư trú, làm việc, có trụ sở
chính (đối với pháp nhân) của bị đơn còn gặp nhiều trở ngại.
Hai là, tính khách quan của Tòa án nơi bị đơn cư trú, có
trụ sở chính (đối với pháp nhân) giải quyết các tranh chấp về
kinh doanh nhưng đương sự là cán bộ, công ch
ức của ngành
Tòa án.
Ba là, thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các vụ án
kinh doanh có yếu tố nước ngoài và quyền lựa chọn Tòa án
của đương sự.
18
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
XÉT XỬ CỦA TÒA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ
VIỆC KINH DOANH, THƯƠNG MẠI VÀ CƠ CHẾ ÁP
DỤNG THẨM QUYỀN XÉT XỬ Ở VIỆT NAM
3.1. Các quan điểm về việc hoàn thiện pháp luật về thẩm
quyền xét xử các vụ việc kinh doanh, thương mại
Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo về hoàn thiện pháp
luật gắn liền với chủ trương cải cách tư pháp đặt dưới sự lãnh
đạo chặt chẽ của Đảng, luận án đưa ra phương hướng hoàn
thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các
vụ việc kinh doanh, thương mại và cơ chế áp dụng thẩm quyền
xét xử như sau :
Một là, pháp luật về thẩm quyền xét xử kinh doanh,
thương mại phải thể chế hóa quyền công dân, phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân và bản chất của pháp luật. Pháp luật về
thẩm quyền xét xử là công cụ hữu hiệu để công dân bảo vệ
quyền của mình và góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Hai là, hoàn thiện pháp luật phải đồng bộ, thống nhất,
tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau. Phải có quan
điểm
hoàn thiện pháp luật theo định hướng lâu dài, toàn diện, phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu của xã
hội.
Ba là, hoàn thiện pháp luật phải đặt trong bối cảnh hội
nhập với thế giới về pháp luật và kinh tế.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật cùng với việc khẳng định tố
quyền, quyền tiếp cận công lý của công dân, bảo đảm cho công
dân được thực hiệ
n quyền của mình một cách toàn diện, đầy
đủ phù hợp với nguyên tắc
«
công dân được làm những gì
pháp luật không cấm
».
Năm là, hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp tạo điều
kiện cho cơ quan tư pháp thực hiện tốt nhiệm vụ của mình,
công dân thuận lợi trong việc tiếp cận công lý.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh,
thương mại và cơ chế áp dụng thẩm quyền
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa
án đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại
19
3.2.1.1. Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
trong việc giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại
Luận án kiến nghị mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa
án nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại gắn
liền với việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật nội dung
và pháp luật tố tụng. Bao gồm các nội dung sau:
Một là, sửa đổi cách lập pháp về thẩm quyền của Tòa án
nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại không
theo hướng liệt kê như pháp lu
ật hiện hành.
Hai là, xây dựng tiêu chí xác định các vụ việc kinh
doanh, thương mại với các vụ việc khác.
Ba là, tên gọi của vụ việc kinh doanh, thương mại là vụ
việc kinh doanh
Bốn là, các tranh chấp phát sinh từ việc thành lập, tổ
chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp là tranh chấp về
kinh doanh, thương mại.
Năm là, bổ sung thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
quyết định của c
ơ quan khác có liên quan đến việc giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh, thương mại.
Sáu là, bổ sung thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
chứng nhận của cơ quan công chứng.
Bảy là, phân định quyền hạn giữa Tòa án và Trọng tài
thương mại bằng việc bãi bỏ quy định điểm b tiểu mục 1.2
mục 1 Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao.
3.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử của
Tòa án các cấp
Luận án kiến nghị :
Một là, xây dựng, hoàn thiện cơ cấu, tổ chức ngành
Tòa án nhân dân mà trọng tâm là xây dựng Tòa án theo thẩm
quyền xét xử, không căn cứ vào địa giới hành chính-lãnh thổ,
trong đó Tòa khu vực xét xử sơ thẩm, Tòa phúc thẩm xét xử
phúc thẩm, Tòa án tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án chỉ
có ba cấp. Việc giám đốc thẩm chỉ được thực hiện một lần.
Hai là, bãi bỏ quy định thẩm quyề
n của Tòa án cấp tỉnh
xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.
Ba là, mở rộng thẩm quyền xét xử của Toàn án đối với
các tranh chấp kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài.
20
Bốn là, thành lập các Tòa chuyên trách trong Tòa khu
vực
.
3.2.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử của
Tòa án theo lãnh thổ
Luận án kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật về thẩm
quyền xét xử của Tòa án theo lãnh thổ bao gồm những vần đề
sau:
Một là, quy định chi tiết về nơi bị đơn cư trú, làm việc,
có trụ sở.
Hai là, mở rộng thẩm quyền xét xử theo sự thỏa thuận
của các đương sự.
Ba là, bổ sung thẩm quyền xét xử của Tòa án trong một
số trường h
ợp đặc biệt khi người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng hoặc người làm việc trong ngành Tòa án là đương sự
trong vụ án và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nơi các chủ thể nói trên công tác.
Bốn là, quy định rõ hơn về tranh chấp bất động sản
trong luật tố tụng dân sự.
3.2.1.4. Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo sự lựa chọn
của nguyên đơn
Luận án đề xuất Tòa án tối cao hướng dẫn, bổ sung
những vấn đề sau :
- Làm rõ khái niệm nơi thực hiện hợp đồng.
- Xác định Tòa án giải quyết tranh chấp bất động sản
có ở nhiều địa phương khác nhau khi giá trị của tài sản là khác
nhau
- Bổ sung một số quy định về thẩm quyền xét xử mới.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế áp dụng thẩm quyền xét xử
3.2.2.1 Sửa đổi điều kiện khởi kiện, yêu cầu các vụ việc
kinh doanh, thương mại
Về sửa đổi điều kiện khởi kiện, yêu cầu, luận án kiến
nghị :
Một là, khi công dân có quyền bị xâm phạm thực hiện
việc khởi kiện, yêu cầu thì Tòa án phải thụ lý giải quyết trong
trường hợp pháp luật nội dung không hạn chế quyền khởi kiện,
yêu cầu của công dân.
21
Hai là, công dân không có nghĩa vụ chứng minh tính
hợp pháp của yêu cầu do họ đưa ra khi khởi kiện, yêu cầu
Ba là, các văn bản pháp luật đã có hiệu lực pháp luật
phải được thi hành.
Bốn là, công dân có quyền khởi kiện nhiều lần đối với
một vụ án nếu luật nội dung không cấm.
3.2.2.2. Xây dựng các thiết chế bổ trợ tư pháp
Luận án kiến nghị các cơ quan bổ trợ tư pháp cần phải
được xây dựng và hoàn thiện, bao gồm :
-
Thừa phát lại
-
Hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Thành lập cơ
quan giám định tư.
- Xây dựng cơ quan giám định tính chân thật của hợp
đồng
3.2.2.3. Tăng cường quyền tiếp cận thông tin của công dân
Luận án kiến nghị các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
đang nắm giữ thông tin, tài liệu liên quan đến việc khởi kiện,
yêu cầu của đương sự, người yêu cầu, có trách nhiệm phải
cung cấp theo yêu cầu của đương sự, người yêu cầu trừ các
thông tin chỉ cung cấp hạn chế. Hành vi không cung cấp sẽ bị
xử lý hành chính, hình sự, dân sự. Quyền này của công dân
phải được luật hóa và bảo đảm th
ực hiện.
3.2.2.4. Sửa đổi quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét
xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm
Luận án kiến nghị: khái niệm “vi phạm nghiêm trọng
khác về thủ tục tố tụng” trong tố tụng dân sự được hiểu là:
- Hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng của Tòa án trong
quá trình giải quyết các vụ việc dân sự nói chung, các vụ việc
kinh doanh, thương mại nói riêng, đã không tuân thủ một trong
các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự. Chẳng hạn, khi
giải quyết v
ụ án kinh doanh, Tòa án đã không tạo điều kiện để
đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của họ.
- Tòa án đã không thực hiện các biện pháp tố tụng
(trưng cầu giám định, định giá tài sản ) theo yêu cầu của
đương sự, do đó, việc giải quyết vụ án không đúng pháp luật.
Việc Tòa án không thực hiện các biện pháp tố tụng phải là
nguyên nhân chính làm cho kết qu
ả giải quyết vụ án của Tòa
án không phản ánh được sự thật khách quan của vụ việc, công
22
tác đánh giá chứng cứ không phù hợp và đương sự không thể
chứng minh cho quyền lợi bị vi phạm của mình. Các sai sót
khác về hình thức, tuy không đúng pháp luật nhưng không làm
thay đổi bản chất của sự việc không coi là vi phạm nghiêm
trọng khác về thủ tục tố tụng.
KẾT LUẬN
Thẩm quyền xét xử là bộ phận cấu thành của pháp luật
tố tụng dân sự, tiền đề pháp lý để công dân tiếp cận công lý,
thực hiện tố quyền. Thẩm quyền xét xử còn là cơ sở pháp lý
xác định trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án trong việc giải
quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại theo yêu cầu của
các đương sự, người yêu cầu. Chính từ sự quan trọng của thẩ
m
quyền xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự, tác giả lựa chọn
đề tài này để nghiên cứu và rút ra những kết luận chủ yếu sau
đây :
Thứ nhất, thẩm quyền xét xử là công cụ pháp lý hữu
hiệu để công dân thực hiện quyền tự do, bình đẳng của mình
trước pháp luật. Quyền của công dân được nhà nước ghi nhận
trong các văn bản pháp luật phải được thực thi trên thực tế
khi
quyền đó bị xâm phạm. Khởi kiện, yêu cầu là hành vi công
dân thực hiện tố quyền, đòi hỏi nhà nước phải bảo vệ quyền
công dân. Nếu trước đây nền kinh tế nước ta được xây dựng
theo cơ chế tập trung, bao cấp, các vụ việc kinh doanh, thương
mại giải quyết chủ yếu theo thủ tục hành chính, thì ngày nay
các tranh chấp phải được giải quyết tại Tòa án nhân dân. Thẩ
m
quyền xét xử là cơ sở pháp lý để công dân bảo vệ quyền của
mình.
Thứ hai, thẩm quyền xét xử phân định quyền hạn của
Tòa án nhân dân với các cơ quan chức năng khác và giữa các
Tòa án với nhau trong việc giải quyết các vụ việc kinh doanh,
thương mại. Giới hạn này bảo đảm cho hoạt động của Tòa án
và các cơ quan chức năng khác đươc phân biệt một cách rạch
ròi, rõ ràng. Hơn nữa, th
ẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
các vụ việc kinh doanh, thương mại giúp cho Tòa án áp dụng
pháp luật về thẩm quyền xét xử một cách thống nhất, đồng bộ,
tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lắp trong việc giải
quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.