Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.52 KB, 27 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM



VIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT





LÊ VIỆT LONG




ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU TRÍ TUỆ




Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 62.38.40.01



LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học

GS. TS. VÕ KHÁNH VINH





HÀ NỘI – 2009



DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI



1. Lê Việt Long (2005), Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp – Những vấn
đề đặt ra từ thực tiễn, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (5), tr. 61-61.
2. Lê Việt Long (2008), Xâm phạm sở hữu trí tuệ: Thực trạng, nguyên nhân
và giải pháp, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (10), tr. 49-53.
3. Lê Việt Long (2008), các qui định của Bộ luật Hình sự về Xâm phạm
quyền sở trí tuệ
, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (5), tr. 63- 68.
4. Lê Việt Long (2008), Revising Penal Code to better protect IPRs,
Vietnam law and Legal Forum (15), tr. 17-19.




Công trình đợc hon thnh tại Viện Nh nớc v Pháp luật

Ngời hớng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:


Luận án sẽ đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nớc tại
Viện Nhà nớc và Pháp luật vào hồi giờ ngày tháng năm

Có thể tìm đọc luận án tại Th viện Quốc gia và Th viện Viện Nhà
nớc và Pháp luật


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
“Sở hữu trí tuệ” là một thuật ngữ mang nghĩa rộng, được dùng để mô
tả “sự sáng tạo của tư duy”. Ở Việt Nam, “sự sáng tạo của tư duy” có từ rất
lâu, nhưng việc bảo hộ “sự sáng tạo của tư duy” này (hay nói cách khác là
sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ) được bắt đầu tri
ển khai từ rất sớm, nhưng
chỉ sau khi Bộ luật Dân sự (1995) được ban hành và đặc biệt là từ khi Bộ
luật Hình sự năm 1999 qui định các tội danh về sở hữu trí tuệ thì hoạt động
này mới thực sự được quan tâm hơn.

Trong những năm gần đây, các hành vi xâm phạm về sở hữu trí tuệ
nói chung và các tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ nói riêng, diễn ra khá
phổ biế
n và ngày càng phức tạp, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa,
vi phạm nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp. Các hành vi xâm
phạm này không chỉ dừng lại ở tính chất nhỏ lẻ, manh mún, do cá nhân
thực hiện mà phát triển ngày càng phức tạp hơn thể hiện ở tính chất vi
phạm có tổ chức, có sự câu kết, móc nối với nhiều cá nhân, tổ chức nước
ngoài. Theo báo cáo sơ kết về công tác phòng ngừa đấu tranh chống hàng
giả và xâm ph
ạm sở hữu trí tuệ của Bộ Công an trong năm 2006 và sáu
tháng đầu năm 2007 cơ quan Quản lý thị trường đã xử lý trên 18.577 vụ vi
phạm về hàng giả, 466 vụ vi phạm kiểu dáng công nghiệp, 1.780 vụ vi
phạm nhãn hiệu hàng hóa…Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc áp
dụng các biện pháp chế tài nhằm bảo vệ các quyền về sở hữu trí tuệ và Bộ
luật Hình sự cũng qui định các t
ội danh về sở hữu trí tuệ nhằm ngăn chặn
các hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, kết quả thu được còn có hạn chế nhất
định và khiêm tốn.
Như vậy, câu hỏi đặt ra là vì sao chúng ta có các biện pháp bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta cũng có các cơ quan thực hiện quyền bảo hộ
sở hữu nhưng số lượng hành vi xâm phạm lại có chiều hướng gia tăng và
ngày càng phức tạp hơn, có ph
ải chăng là việc thực hiện chức năng nhiệm
vụ của các cơ quan có thẩm quyền còn chồng chéo, mức độ xử lý còn quá
nhẹ chưa đủ để răn đe người có hành vi xâm phạm, hay chúng ta còn thiếu
cơ sở pháp lý để áp dụng.
Trong thực tế hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp là nạn nhân của các
hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ, mặc dù doanh nghiệp cũng đã xây dựng
lự

c lượng, đầu tư trang thiết bị và tốn rất nhiều công sức, chi phí cho việc
bảo hộ sản phẩm của mình, tuy nhiên hiệu quả cũng còn rất hạn chế. Phần
lớn các doanh nghiệp đều thống nhất cho rằng Nhà nước qui định chế tài


2
xử phạt như hiện nay chưa đủ để răn đe tội phạm trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ, có những qui định còn không phù với tình hình thực tế.
Để góp phần đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm sở hữu trí
tuệ trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay, việc xây dựng hệ thống pháp
luật về sở hữu trí tuệ là rất cần thiết và cấp bách. Trướ
c những yêu cầu đặt
ra đó, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Đấu tranh phòng, chống các tội xâm
phạm sở hữu trí tuệ” nhằm phân tích những cơ sở lý luận về loại tội
phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, những khó khăn trong công tác áp dụng
điều luật của các cơ quan chức năng, đồng thời đưa ra những giải pháp
nhằm tăng cườ
ng hiệu lực thực thi sở hữu trí tuệ.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của
đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ, luận án đưa ra
những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và đấu tranh phòng,
chống có hiệu quả các tội xâm phạm sở
hữu trí tuệ.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Nghiên cứu các qui định của pháp Luật Hình sự nước ta qua các
giai đoạn để làm rõ những ưu điểm và hạn chế còn tồn tại trong Bộ luật
Hình sự và các văn bản pháp Luật Hình sự khác về loại tội phạm này. Trên
cơ sở khoa học đó mạnh dạn đề xuất những quan điểm của mình nhằm

hoàn thiện pháp lu
ật nói chung, pháp Luật Hình sự nói riêng liên quan đến
tội phạm sở hữu trí tuệ
2. Luận án phân tích thực trạng, điều kiện, nguyên nhân phạm tội cũng
như thực tiễn đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ, đưa
ra những biện pháp khả thi, đấu tranh, phòng chống các tội này trong giai
đoạn hiện nay và tương lai, nhằm đẩy lùi và tiến tới xóa bỏ vấn nạn này.
3. Đề xuất nh
ững giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực thực thi các qui
định pháp Luật Hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trên thực tế.
Đồng thời luận án cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trong
giai đoạn hiện nay.
c. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài tương đối rộng, đặt ra nhiều v
ấn đề cần giải quyết
một cách thấu đáo. Khi đề cập đến các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ, tác giả
đặt ra cho mình một số nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu trên hai khía cạnh đó
là khía cạnh pháp lý hình sự và khía cạnh tội phạm học của các tội xâm
phạm sở hữu trí tuệ. Qua đó đưa ra các kiến nghị, biện pháp nhằm hoàn


3
thiện các qui định pháp luật và các biện pháp đấu tranh phòng và chống tội
phạm này.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những qui định pháp lý hình sự
của các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ, tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu
trí tuệ và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu trí
tuệ trong giai đoạn hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được th
ực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm
trong các thời kỳ phát triển khác nhau của đất nước.
Trên cơ sở số liệu t
ổng hợp của Cục thống kê tội phạm - Viện Kiểm
sát nhân dân tối cáo cung cấp, Luận án sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, qui nạp, so sánh, khái quát,
thống kê… Đây là các phương pháp phổ biến và có độ tin cậy cao.
5. Điểm mới và ý nghĩa của luận án
Điểm mới của luận án được thể hiện ở những vấn đề
sau:
- Đây là luận án lần đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn
diện tất cả các tội danh về xâm phạm sở hữu trí tuệ, đưa ra bức tranh toàn
cảnh về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ, từ góc độ hình sự, tội phạm học
và chỉ ra những yếu tố cấu thành các tội phạm này.
- Luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân và điều kiện
ph
ạm tội, phân tích các qui định của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm
sở hữu trí tuệ.
- Luận án góp phần chỉ ra những hạn chế trong công tác xây dựng và
áp dụng pháp luật, đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện cả hai
phương diện này và các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
6. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần m
ở đầu và kết luận, luận án có ba chương:

Chương I: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
trong pháp Luật Hình sự Việt Nam.
Chương II: Thực trạng của tình hình tội phạm và công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ.
Chương III: Hoàn thiện các giải pháp tăng cường hiệu quả của đấu
tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
.



4
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRÍ TUỆ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài
Luật Hình sự luôn là công cụ hữu hiệu nhất để Nhà nước tiến hành
bảo vệ các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị
. Ở mỗi
chế độ xã hội khác nhau thì các quan hệ xã hội được bảo vệ cũng khác
nhau. Việc nghiên cứu Bộ luật Hình sự cũng như hệ thống văn bản pháp
luật của các nước trên thế giới cho chúng ta thấy qui định về các tội xâm
phạm sở hữu trí tuệ của mỗi nước không hoàn toàn giống nhau. Do mỗi
nước khác nhau có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau, vì vậy sự
khác biệt
của các điều luật qui định về các tội này là điều dễ hiểu. Việc nghiên cứu
pháp Luật Hình sự của các nước trên thế giới nói chung, các nước trong
khu vực nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với công

tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Hiện nay, các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới đều có hệ
th
ống các qui định về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ rất rõ ràng. Như Bộ
luật Hình sự của Nhật Bản có riêng chương 16 để qui định về các tội xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ. Các hành vi xâm phạm tài sản trí tuệ được qui
định rất đầy đủ trong chương này.
Mỹ là một nước có nền kinh tế phát triển nhất trên thế giới hiện nay.
Tình trạng xâm phạm sở hữ
u trí tuệ ở Mỹ cũng đang ở mức báo động. Có
rất nhiều bài viết nổi bật của các tác giả Mỹ về thực trạng này. Các bài viết
tập trung làm rõ các khái niệm về sở hữu trí tuệ, xâm phạm sở hữu trí tuệ
và các giải pháp phòng, chống hiện tượng này. Một số bài viết gần đây
nhất như: “Sở hữu trí tuệ là gì?” của Thomas G.Field Jr., “Tại sao bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ lại quan trọng” của E. Anthony Wayne, “Giới thiệu
khái quát các điều ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ” của Paul E.
Salmon, “Các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo về sở hữu trí tuệ”
của Allison Areias, “GioócĐani hưởng lợi từ cải cách quyền sở hữu trí
tuệ” của Jeanne Holden, “Ra tay hành động: Các quốc gia đang chống vi
phạm quy
ền sở hữu trí tuệ như thế nào” - một bài viết đặc sắc được in
trong chuyên đề về quyền sở hữu trí tuệ, ấn phẩm Thông tin quốc tế, Bộ
ngoại giao Hoa Kỳ tháng 1/2006, “Cách tiếp cận của Hoa Kỳ: nguồn gien,
tri thức truyền thống và văn hóa dân gian” của Jeanne Holden viết về


5
những cơ chế nhằm bảo hộ nguồn gien, tri thức truyền thống và văn hóa
dân gian, ba thành tố thường bện chặt vào nhau trong đời sống hàng ngày
của con người… Có thể nói bảo hộ sở hữu trí tuệ rất được các nhà nghiên

cứu và lập pháp ở Mỹ quan tâm. Vì có thể nói hiện nay Mỹ là quốc gia bị
xâm phạm sở hữu trí tuệ nhiều nhất trên thế giới.
Các qui định pháp luật của các nướ
c trên thế giới cũng thể hiện rất rõ
sự quan tâm của các nước đó đối với vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ. Bộ luật
Hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997 đã qui định riêng
một chương về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tại mục 7, chương
III qui định các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gồm 8 đi
ều, từ Điều
213 đến Điều 220. Có thể thấy rằng Trung Quốc quan tâm rất nhiều đến
các hành vi xâm phạm đến nhãn hiệu hàng hóa như sử dụng bất hợp pháp
nhãn hiệu hàng hóa đã được đăng ký sở hữu.
Là thành viên của EU, Cộng hòa liên bang Đức có nhiều chính sách
pháp luật về sở hữu trí tuệ nằm trong cấp độ của EU. Cũng như pháp luật
nước ta, đối tượng đượ
c bảo hộ sở hữu trí tuệ tại Đức bao gồm: quyền tác
giả, sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, giống cây
trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. Đức có nhiều đạo luật đơn
hành để điều chỉnh lĩnh vực sở hữu trí tuệ chứ không có một đạo luật
thống nhất qui định về sở hữu trí tu
ệ. Pháp luật Đức cũng có biện pháp chế
tài về dân sự, hình sự và biện pháp kiểm soát biên giới về sở hữu trí tuệ đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Hiện nay một số nước trên thế giới đang có những qui định về bảo hộ
sở hữu trí tuệ rất đáng để chúng ta tham khảo và học hỏi.
Nhật Bản là một quốc gia có nền kinh t
ế phát triển hàng đầu trên thế
giới. Nhận thức được vai trò quan trọng của sở hữu trí tuệ đối với sự phát
triển của quốc gia, Chính phủ Nhật Bản đã sớm xây dựng một chiến lược
tổng thể quốc gia về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Với bốn chính sách đó hoạt động bảo hộ quyền sở hữu củ
a Nhật Bản
đã thu được nhiều kết quả quan trọng đối với nền kinh tế đất nước cũng
như về tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ.
Chính phủ Mỹ cũng đã thành lập Văn phòng chống vi phạm sở hữu trí
tuệ toàn cầu. Văn phòng đã phối hợp hoạt động với nhiều cơ quan chức
năng trong nước để ch
ống lại tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ đang lan
tràn trong nước Mỹ. Văn phòng cũng đặt ra cho mình trọng trách chống lại
mọi sự xâm phạm sở hữu trí tuệ trên thế giới.
Liên minh Châu Âu EU cũng đã tiến hành rất nhiều biện pháp chống
xâm phạm sở hữu trí tuệ từ nhiều năm trước. EU đã thông qua Chỉ thị về
thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Ch
ỉ thị này hài hòa pháp luật về thực thi


6
trong nội bộ khối EU. EU cũng sửa đổi Quy chế Hải quan nhằm tăng
cường cuộc đấu tranh chống hàng giả và hàng sao chép. Ngay từ năm
2004, Ủy ban Châu Âu đã thông qua một chiến lược mới về thực thi quyền
sở hữu trí tuệ ở các nước thứ ba. Điều này giúp các nước đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu của Hiệp định TRIPs và nâng cao nhận thức về hậu quả c
ủa
việc không đáp ứng các yêu cầu này.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước
Ở nước ta, có thể nói đây là đề tài khá mới mẻ. Từ trước đến nay chưa có
công trình nghiên cứu nào nghiên cứu đầy đủ về tất cả các tội xâm phạm sở hữu
trí tuệ.
Các công trình nghiên cứu chủ yếu là về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Một
số công trình, bài viết nổi bật như :Tác gi

ả Ngô Như Quỳnh “Một số vấn
đề về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng” ; Trần Văn Độ “Các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật Hình sự 1999”, Tạp chí Dân chủ Pháp
luật, 2000, số 6; tác giả Lê Quốc Bình “Nâng cao hiệu quả pháp luật trong
đấu tranh chống hàng giả, buôn bán hàng giả ở Việt Nam”, Tạp chí Tòa án
nhân dân, 1999, số 8…
Một số công trình nghiên cứu về hình sự có liên quan đến các tội xâm
ph
ạm sở hữu trí tuệ như: Thạc sĩ Mai Thế Bày, Đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Luận án tiến sĩ luật học. Trong
luận án có nghiên cứu về tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Một số bài viết
khác như: Thạc sĩ Đỗ Thúy Vân, “ Các qui định của Bộ luật Hình sự Việt
Nam về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và hướng sử
a đổi, hoàn thiện”;
Thạc sĩ Trần Ngọc Việt “Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả, thực
trạng và biện pháp phòng, chống”, luận án tiến sĩ luật học; Nguyễn Văn
Hiện “ Một số vấn đề cần bổ sung và sửa đổi ở chương “Các tội phạm về
kinh tế” của Bộ Luật Hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 1996, số 6; tác
giả Nguyễn Bá Ngừng, “Bảo vệ
quyền sở hữu công nghiệp và trách nhiệm
của cơ quan công an - Thực trạng và giải pháp”, đề tài khoa học cấp Bộ,
2002…
Cho đến nay các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ mới chỉ được nghiên cứu
dưới góc độ các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, nghĩa là chủ yếu
nghiên cứu về tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Các tội danh khác ít được
nghiên cứu một cách có hệ thống và tr
ọn vẹn. Khi nói đến xâm phạm sở
hữu trí tuệ thường có sự liên tưởng ngay lập tức đến các hành vi sản xuất,
buôn bán hàng giả.
Như vậy, hiện nay các công trình khoa học trong và ngoài nước

nghiên cứu về vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ khỏi các hành vi xâm hại nói
chung, các hành vi phạm tội nói riêng ngày càng trở nên phổ biến với số


7
lượng ngày càng nhiều. Vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ thực sự là một vấn đề
nóng bỏng, thời sự.
Đặc biệt với các đề tài, công trình nghiên cứu trong nước nhìn từ góc
độ hình sự vẫn chưa có công trình nghiên cứu tổng thể về bảy tội danh
xâm phạm sở hữu trí tuệ. Có thể nói đề tài “Đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm sở hữu trí tuệ”là đề
tài đầu tiên nghiên cứu một cách tổng
thể các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ dưới góc độ hình sự. Việc nghiên cứu
đã giúp tác giả phân tích sâu hơn các khái niệm pháp lý hình sự, tìm ra
được những nguyên nhân của tình hình các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ, từ
đó đưa ra những giải pháp cần thiết về cả lý luận và thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội này.
1.2. Những vấn đề
chung về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
1.2.1. Khái niệm chung về sở hữu trí tuệ
Trên thế giới, sở hữu trí tuệ không phải là một khái niệm xa lạ, nhưng
ở Việt Nam, sở hữu trí tuệ còn khá mới mẻ đối với đại bộ phận nhân dân.
Ở các nước phát triển, Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành từ rất sớm, như
Luật Sở hữu trí tuệ
được ban hành ở Mỹ năm 1787, ở Pháp năm 1791, ở Bỉ
năm 1854, ở Nhật năm 1855, ở Nga năm 1870, ở Đức năm 1877… Cùng
với quá trình phát triển kinh tế thế giới, bảo hộ sở hữu trí tuệ được coi là
vấn đề đặc biệt quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia.
Theo nghĩa rộng, sở hữu trí tuệ là các quyền hợp pháp xuất phát từ
hoạt độ

ng trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học, nghệ
thuật. Tuy nhiên, hiện nay quan niệm của nhiều quốc gia trên thế giới về
việc sở hữu các tài sản trí tuệ đó vẫn chưa được thống nhất. Trong thực tế
vẫn tồn tại ba quan điểm khác nhau về vấn đề này:
- Coi sản phẩm sáng tạo trí tuệ như các sản phẩm lao động khác, do đó
người tạo ra các sản phẩm này có quyền tư hữu; nhà nước bảo hộ các
quyền tư hữu trí tuệ đó.
- Coi sản phẩm sáng tạo trí tuệ thuộc toàn xã hội, không thừa nhận
quyền tư hữu trí tuệ; người tạo ra sản phẩm trí tuệ có giá trị được Nhà
nước thưởng công hoặc ghi công.
- Không phủ nhận quyền tư hữu trí tuệ nhưng cũng không công khai
th
ừa nhận quyền đó, nhất là các sản phẩm được tạo ra ở nước ngoài có giá
trị đối với nền kinh tế trong nước.
Ở Việt Nam, tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 qui định: “Quyền sở
hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm:
quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”.



8
1.2.2. Khái niệm Sở hữu trí tuệ trong Luật Hình sự Việt Nam
Sở hữu trí tuệ là sở hữu những tài sản rất đặc biệt vì đó là những sản
phẩm của hoạt động sáng tạo của con người. Do tính chất “vô hình” của tài
sản trí tuệ mà việc thực hiện các quyền sở hữu đối với tài sản cũng diễn ra
khó khăn hơn và đặc biệt các hành vi xâm phạm sở h
ữu trí tuệ cũng khó bị
phát hiện và khó kiểm soát hơn. Tài sản trí tuệ luôn đứng trước một nguy
cơ xâm phạm rất lớn. Đối tượng bị xâm phạm thường là nhãn hiệu hàng

hóa, kiểu dáng công nghiệp, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Việt Nam đã và đang tích cực xây dựng một hệ thống pháp luật bảo hộ
sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ không ch
ỉ được ghi nhận trong Bộ luật
Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản dưới luật mà còn được bảo đảm
thực thi trong Bộ Luật Hình sự.
Hiện nay BLHS 1999 có bảy điều luật qui định về các tội xâm phạm
sở hữu trí tuệ, các điều luật đó được qui định trong các chương khác nhau
của Bộ luật hình sự. Điều đó gây không ít khó khăn cho vi
ệc nghiên cứu
và đấu tranh phòng, chống tội phạm về sở hữu trí tuệ. Vì vậy, trong thời
gian qua Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều biện pháp nhằm bảo đảm
sở hữu trí tuệ và việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ song hiện tượng vi
phạm sở hữu trí tuệ vẫn diễn ra rất phức tạp và vẫn không ngừng gia tăng
cả về số lượng cũng nh
ư tính chất nguy hiểm cho xã hội. Đặc biệt Việt
Nam đã gia nhập WTO, nền kinh tế hàng hóa được giao lưu mở rộng
nhưng các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ đã làm mất ổn định thị trường,
ảnh hưởng xấu đến uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đến thời
điểm này nhiều người chưa thực sự hiểu sở hữu trí tuệ là gì, vì vậy đôi khi
họ đang vi phạm pháp luật mà chính họ cũng không nhận ra. Việc qui định
các tội phạm về xâm phạm sở hữu trí tuệ là rất cần thiết để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu trí tuệ. Có như vậy ý thức của người
dân mới được nâng cao, các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ mới có xu
hướng giảm.
1.2.3. Các dấu hiệu pháp lý hình s
ự của các tội xâm phạm sở hữu trí
tuệ
Như đã phân tích ở trên, các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ không
chỉ bị ràng buộc bởi các qui định tại Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ,

Luật Hải quan mà còn được qui định trong BLHS.
Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ được nghiên cứu trong luận án thông
qua các yếu tố cấu thành tội phạm là khách thể của tội phạ
m, mặt khách
quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và
hình phạt.



9
* Khách thể của tội phạm
Bảy tội xâm phạm sở hữu trí tuệ tuy có khách thể trực tiếp khác nhau
và được qui định tại các chương khác nhau của Bộ luật Hình sự nhưng đều
có chung khách thể loại đó là xâm phạm sở hữu trí tuệ.
* Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
Hành vi khách quan của bảy tội xâm phạm sở hữu trí tuệ hầu hết được
th
ực hiện dưới dạng hành động phạm tội. Riêng hành vi khách quan của
Tội vi phạm qui định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có
một dạng hành vi nhỏ trong các hành vi phạm tội cơ bản là hành vi không
hành động phạm tội, đó là hành vi không cấp văn bằng bảo hộ cho người
có đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ.
* M
ặt chủ quan của các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm động cơ phạm tội, mục đích
phạm tội và lỗi của người phạm tội, trong đó lỗi là dấu hiệu không thể
thiếu của bất kỳ cấu thành tội phạm nào.
Lỗi của người phạm tội xâm phạm sở hữu trí tuệ là lỗ
i cố ý. Với bảy
tội xâm phạm sở hữu trí tuệ thì động cơ chủ yếu thường là yếu tố lợi

nhuận, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với mong muốn thu lợi
bất chính. Trong bảy tội đó chỉ có hai tội qui định động cơ, mục đích là
dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm: Mục đích l
ừa dối người tiêu
dùng nhằm thu lợi bất chính là dấu hiệu bắt buộc của các tội sản xuất,
buôn bán hàng giả. Mục đích kinh doanh là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Điều 171.
* Chủ thể của tội phạm
Trong bảy tội xâm phạm sở hữu trí tuệ hầu hết chủ thể là ng
ười từ 16
tuổi trở lên và có năng lực TNHS. Riêng chủ thể của tội sản xuất, buôn bán
hàng giả theo khoản 3 Điều 156; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh theo khoản 3, khoản
4 Điều 157; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi,
phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây tr
ồng, vật nuôi
theo khoản 3 Điều 158 là người từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực
TNHS.
Trong Luật Hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá
nhân. Trong thực tế có rất nhiều cơ sở sản xuất, công ty, xí nghiệp… sản
xuất hàng giả. Trường hợp này đại diện cho pháp nhân sẽ là chủ thể của tội
phạm.
Trong số bảy tội danh xâm ph
ạm sở hữu trí tuệ có một tội danh đòi hỏi
dấu hiệu chủ thể đặc biệt là Tội vi phạm các qui định về cấp văn bằng bảo


10
hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170). Chủ thể của tội phạm là người
có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

* Hình phạt
Mục đích thu lợi bất chính thường là động cơ chính thúc đẩy người
phạm tội thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu trí tuệ. Vì vậy,
ngoài hình phạt tù, còn áp dụ
ng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Đây
cũng là một nét đặc trưng của các tội phạm này.
Điều 131 tội xâm phạm quyền tác giả không có hình phạt bổ sung.
Tuy nhiên đối với tội danh này hình phạt tiền lại là một trong những hình
phạt chính.
1.3. Lịch sử lập pháp hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
1.3.1. Các qui định của pháp Luật Hình sự về các tội xâm phạm sở
h
ữu trí tuệ trong giai đoạn nhà nước phong kiến đến trước khi ban hành
BLHS 1985
Trước năm 1985, nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, các tội xâm
phạm sở hữu trí tuệ cũng phát triển ở mức độ thấp và chủ yếu là các tội về
sản xuất, buôn bán hàng giả.
Mặc dù chưa có khái niệm về hàng giả và tội sản xuất, buôn bán hàng
giả nhưng ngay từ thời Hồng Đức, trong Quốc triề
u hình luật đã qui định
một số tội về hàng giả và sản xuất hàng giả.
Đến giai đoạn 1858-1945, Nước ta rơi vào ách thống trị của thực dân
Pháp. Các qui định pháp luật của Pháp đều nhằm phục vụ cho lợi ích của
bọn chúng. Do đó không thấy xuất hiện các qui định pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ của người Việt Nam.
Giai đoạn 1945-1975, mụ
c tiêu cao nhất của cả nước là thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ. Nhân dân cả nước dồn toàn tâm toàn lực cho công cuộc
thống nhất đất nước.
Sau năm 1976, các văn bản pháp luật qui định về bảo hộ sở hữu trí

tuệ lần lượt được ra đời. Song ở thời kỳ này, mới chỉ có hành vi sản xuất,
buôn bán hàng giả bị coi là tội phạm. Nhà nước ta đã ban hành một số vă
n
bản pháp luật về các tội làm và buôn bán hàng giả như Sắc luật số 01/SL
ngày 19/4/1975, Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976, Pháp lệnh trừng trị tội
đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30/6/1982.
1.3.2. Các qui định của Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Hình sự
1999 về xâm phạm sở hữu trí tuệ
BLHS 1985 có ba điều luật qui định về các tội xâm phạm sở hữu trí
tuệ. Đến BLHS 1999, số đ
iều luật đã tăng lên thành bảy điều, trong đó có
ba điều luật được tách ra từ một điều luật cũ và hai điều luật mới được qui
định.


11
Hai điều luật mới được qui định lần đầu tiên trong BLHS 1999 là Điều
170 và Điều 171, qui định tội phạm về sở hữu công nghiệp. Việc bổ sung
này hoàn toàn hợp lý và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, cũng như sự xuất hiện của các loại tội phạm mới
trong xã hội.
Theo BLHS 1985 thì người nào có hành vi chiếm đoạt hoặc có hành vi
khác xâm ph
ạm quyền tác giả đối với các tác phẩm khoa học, văn hóa,
nghệ thuật hoặc đối với sáng kiến cải tiến kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất,
sáng chế, phát minh thì sẽ bị truy cứu TNHS (Điều 126). Đến BLHS 1999,
điều kiện truy cứu TNHS đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả được bổ
sung thêm. Một người có các hành vi xâm phạm quyền tác giả chỉ bị coi là
tội phạm và bị
truy cứu TNHS khi gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị

xử phạt hành chính về các hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm.
Về hình phạt, BLHS 1985 qui định các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền
đến năm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến một năm, hoặc bị phạt tù
từ ba tháng đến một năm. BLHS 1999 qui định mức hình phạt cao hơn,
phạt ti
ền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không
giam giữ đến hai năm, phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Ngoài ra, người
phạm tội còn có thể chịu hình phạt bổ sung: Phạt tiền từ mười triệu đến
một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ mộ
t đến năm năm.
Các tội danh về xâm phạm sở hữu trí tuệ được qui định trong BLHS
1999 hoàn thiện hơn rất nhiều so với BLHS 1985. Các tội danh được qui
định chặt chẽ hơn, cụ thể hơn cả về vấn đề định tính và định lượng và hình
phạt, điều này tạo ra nhiều thuận lợi hơn cho công tác xét xử.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ CÔNG TÁC ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ

2.1. Tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ
Cuộc đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ
trong giai đoạn hiện nay đã và đang diễn ra rất quyết liệt. Do tác động của
nền kinh tế thế giới cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, tình
trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ở nước ta chưa giảm mà có xu hướng tăng.
Tình tr
ạng xâm phạm sở hữu trí tuệ diễn ra phức tạp: xâm phạm quyền tác
giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây



12
trồng, đặc biệt là nạn sản xuất, buôn bán hàng giả. Hàng giả không chỉ
được sản xuất trong nước mà còn được sản xuất ở nước ngoài sau đó đưa
vào thị trường nội địa tiêu thụ. Trước đây, việc nhái lại kiểu dáng, nhãn
hiệu chỉ được thực hiện trong nước với quy mô nhỏ, lẻ, nhưng hiện nay
việc nhái lại các nhãn mác, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu đã được thự
c
hiện với quy mô lớn hơn nhiều, thậm chí được sản xuất ở nước ngoài. Các
nhãn hiệu nổi tiếng như dầu gội của Unilever Việt Nam; các thiết bị gia
đình của Jorden, Sanwa; phụ tùng ô tô, xe máy của Honda, Toyota,
Daewoo; mỹ phẩm của Essance, Debon, Sisheido; quần áo, giày dép của
Gucci, Nike; đồ điện gia dụng của National… luôn có số lượng hàng giả,
hàng nhái kiểu dáng lớn. Do đây là các nhãn nhiệu đã nổi tiếng và được
khách hàng tin cậy, yêu thích, vì v
ậy bọn tội phạm thường hay làm giả để
đánh lừa người tiêu dùng nhằm thu lợi bất chính.
Trước đây, đối tượng sản xuất hàng giả thường là các hộ gia đình,
làng nghề… và thường sản xuất các loại hàng hóa thông dụng như nước
mắm, bánh kẹo, thuốc lá… Các loại hàng giả thường được sản xuất thủ
công, vì vậy chất lượng và hình thức của hàng giả thường dễ
phân biệt với
hàng thật. Hiện nay, dựa vào trình độ khoa học kỹ thuật phát triển, một số
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất do hám lợi đã sử dụng nhiều thiết bị kỹ thuật
cao để sản xuất các loại hàng giả tinh xảo, đẹp mắt hơn nhằm đánh lừa
người tiêu dùng. Do đó những năm gần đây hiện tượng sản xuất hàng gi

không chỉ xuất hiện ở các hộ kinh doanh cá thể mà còn tập trung ở các nhà
máy, khu công nghiệp ở các thành phố lớn. Hàng giả vì thế mà cũng khó bị
phát hiện hơn.

Trong các quyền sở hữu công nghiệp thì quyền đối với nhãn hiệu hàng
hóa bị xâm phạm nhiều nhất. Ngoài ra, hiện tượng vi phạm chỉ dẫn địa lý,
tên gọi, xuất xứ hàng hóa, sáng chế cũng đang có dấu hiệu gia tăng. Trước
đ
ây, sự vi phạm chủ yếu dừng lại ở việc làm nhái, làm giả… nhãn hiệu
hàng hóa, nhưng hiện nay do trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển nên sự “bắt chước” cũng tinh vi, đa dạng hơn. Kiểu dáng công
nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích… đều trở thành đối tượng để bọn tội
phạm lợi dụng xâm phạm.
Xâm phạm sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay đượ
c thực hiện
bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử
dụng các thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hóa làm cho người tiêu dùng và
cơ quan quản lý thị trường khó phát hiện thật, giả.
Các tội phạm thuộc lĩnh vực xâm phạm sở hữu trí tuệ có đặc điểm rất
phức tạp vì chủ thể củ
a tội phạm thường hầu hết là những người có điều
kiện kinh tế, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, có tay nghề cao, am hiểu


13
những lĩnh vực mình đang quản lý, một số người còn có chức vụ, quyền
hạn nhất định.
Tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ gây ra rất nhiều hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, không chỉ ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở
hữu trí tuệ mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng,
uy tín của Việ
t Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, số lượng
các vụ vi phạm sở hữu trí tuệ bị khởi tố theo qui định của BLHS lại không
nhiều, số vụ bị đưa ra xét xử lại chiếm tỷ lệ thấp hơn. Hiện nay, hiện tượng

“hành chính hóa” các vụ án hình sự xảy ra rất nhiều.
Bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện nay được coi là vấn đề toàn cầu, là một
trong những yêu cầu không thể thiếu để hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy
nhiên, hiện nay các mức hình phạt mà Tòa án tuyên đối với người phạm
tội chưa đủ nghiêm khắc và chưa tương xứng với hậu quả của những hành
vi phạm tội đã gây ra cho xã hội.
2.2. Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về xâm phạm sở
hữu trí tuệ trước khi có BLHS 1985
Mặc dù đến n
ăm 1985 BLHS đầu tiên của nước ta mới ra đời, song
giai đoạn trước đó (trước 1985) hoạt động phòng, chống tội phạm nói
chung, tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ nói riêng cũng đã đạt được một
số kết quả quan trọng. Các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ chủ yếu xảy ra
đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Các hành vi xâm phạm khác như
xâm phạm quyền tác giả
, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có xảy ra
nhưng với số lượng không đáng kể. Một số văn bản quan trọng được ban
hành trong giai đoạn này là: Sắc luật số 03 năm 1976 của Hội đồng Nhà
nước, Thông tư số 03-BTP/TT tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp, Pháp lệnh
trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày
30/6/1982 của Hội đồng Nhà nước, Nghị định số
46-HĐBT ngày
10/5/1983 của Hội đồng Bộ trưởng … Các văn bản pháp luật này phần nào
đã đáp ứng được đòi hỏi thực tế về việc xử lý các hành vi làm và buôn bán
hàng giả. Tuy nhiên, cần sớm ban hành một Bộ luật Hình sự hoàn chỉnh để
có thể điều chỉnh toàn bộ các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ nói riêng,
các hành vi phạm tội nói chung.
2.3. Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật v
ề xâm phạm sở
hữu trí tuệ khi có BLHS 1985 và BLHS 1999

Mặc dù BLHS 1985 có qui định về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền
sáng chế, phát minh và tội vi phạm các qui định về xuất bản và phát hành
sách, báo, ấn phẩm khác song trên thực tế rất ít khi tòa án xét xử các vụ án
liên quan đến hai tội này. Do đòi hỏi của tình hình thực tế, cần phải tội
phạm hóa một số hành vi nguy hiểm cho xã hội Bộ luật Hình sự 1999 ra


14
đời đã qui định thêm một số hành vi bị coi là tội phạm xâm phạm sở hữu
trí tuệ.
Thực tế xét xử cũng cho thấy cần có hệ thống các văn bản dưới luật
hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật thực
hiện nhanh chóng và chính xác nhiệm vụ của mình. Có như vậy công tác
đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ m
ới thu được kết
quả cao, từng bước loại bỏ các tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.
2.4. Nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm xâm phạm sở hữu
trí tuệ
2.4.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm
Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, trái pháp Luật
Hình sự, mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình lịch sử
được thể
hiện ở tổng thể các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong khoảng
thời gian nhất định.
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là tổng hợp những
ảnh hưởng và quá trình xã hội, xác định tình hình tội phạm là hậu quả của
chúng. Đó là toàn bộ những hiện tượng, quá trình xã hội làm phát sinh tình
hình tội phạm.
Tội phạm xâm phạm sở hữ

u trí tuệ chịu sự tác động mạnh mẽ của điều
kiện kinh tế - xã hội. Nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ bao cấp sang
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã tạo ra môi trường thuận lợi cho các
tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ có cơ hội phát triển. Nền kinh tế phát
triển theo hướng mở cửa giúp cho các thành phần kinh tế khác nhau đều có
cơ hộ
i cạnh tranh, phát triển, thúc đẩy sự phát triển của xã hội về mọi mặt.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường chính là nguyên nhân phát
sinh tội phạm. Nhiều người xuất hiện tư tưởng cạnh tranh không lành
mạnh, làm ăn gian dối nhằm thu lợi nhuận cao. Hiện tượng “ăn cắp” các
sản phẩm sở hữu trí tuệ vì thế mà ngày càng gia tăng. Các tội phạm xâm
phạm sở hữu trí tuệ
cũng ngày càng phát triển.
Có ý kiến khác cho rằng các tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ có
nguyên nhân chính là do cơ chế quản lý kinh tế của các cơ quan nhà nước
còn thiếu chặt chẽ. Chính sự quản lý lỏng lẻo đó lại là điều kiện thuận lợi
cho các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ phát triển.
Yếu tố tâm lý - xã hội của con người cũng là một nguyên nhân làm
nảy sinh tội phạm. Chính con ng
ười là chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.
Con người chịu sự tác động của nhiều yếu tố để dẫn đến quyết định thực
hiện các hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là


15
ở chính chủ thể đó, quyết định phạm tội hay không phạm tội là do chính ý
chí chủ quan của con người, không ai có thể quyết định thay họ được.
Lại có ý kiến cho rằng pháp luật là một trong những nguyên nhân
chính làm phát sinh, phát triển tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ. Hệ
thống pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ của nước ta hiện nay còn chồng

chéo, thiếu đồng bộ và chưa th
ực sự nghiêm khắc. Công tác phòng ngừa
tội phạm không được quan tâm thích đáng, vì vậy hành vi xâm phạm sở
hữu trí tuệ vẫn diễn biễn phức tạp.
Tuy nhiên, hiện tượng xâm phạm sở hữu trí tuệ không chỉ do một
nguyên nhân tác động đến. Có thể nói tổng hợp các điều kiện về kinh tế,
xã hội, pháp luật và con người là nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm xâm phạm sở hữ
u trí tuệ.
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trí
tuệ không phải là những ảnh hưởng tồn tại vĩnh viễn và cố định. Chúng có
thể chuyển hóa cho nhau hoặc có thể bị triệt tiêu bởi những yếu tố xã hội
tích cực. Do đó, đấu tranh loại bỏ các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ thực
chất là đấu tranh loại bỏ nguyên nhân và đ
iều kiện tồn tại của tình hình tội
phạm của các tội này.
2.4.2. Những ảnh hưởng của điều kiện Kinh tế - Xã hội đến tình hình
tội phạm các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
Có thể nói điều kiện Kinh tế - Xã hội là nguyên nhân, điều kiện cơ bản
làm phát sinh, tồn tại và phát triển tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ.
Nền kinh t
ế thị trường đã làm xuất hiện ba mâu thuẫn chủ yếu là
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ.
Thứ nhất là: Mâu thuẫn giữa cung và cầu.
Thứ hai là: Mâu thuẫn giữa các đối thủ cạnh tranh trong nền sản xuất
hàng hóa.
Thứ ba là: Là mâu thuẫn về nhu cầu lao động.
2.4.3. Những sơ hở và thiếu sót trong cơ chế quản lý kinh tế
Mặc dù
đã mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế nhưng các cơ quan quản

lý kinh tế ở nước ta vẫn còn chậm chễ trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức
và còn khá lỏng lẻo trong việc quản lý việc sản xuất kinh doanh, quản lý
thị trường tiêu thụ.
Sự buông lỏng quản lý, sự thiếu trách nhiệm của các cán bộ quản lý sẽ
là tiền đề và điều ki
ện quan trọng cho tội phạm phát triển. Vì vậy, cần kiện
toàn hệ thống các cơ quan quản lý để đạt được hiệu quả cao nhất trong
công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ.
2.4.4. Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng
chống các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ


16
Hiện nay, các qui định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu
trí tuệ còn chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản như Hiến
pháp 1992, Bộ luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2002, 2008), Bộ luật
Hình sự 1999, Luật Khoa học và Công nghệ 2000, Pháp lệnh Giống cây
trồng 2004, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ
luật Tố tụng dân sự 2005,
Luật Hải quan 2002… và nhiều văn bản hướng dẫn khác.
Việc sửa đổi, bổ sung hệ thống các văn bản pháp luật cho phù hợp với
xu hướng phát triển của tình hình tội phạm có ý nghĩa quyết định đối với
diễn biến của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ.
2.4.5. Những hạn chế từ phía các cơ quan bảo vệ
pháp luật
Hiện nay nước ta có đến sáu loại cơ quan cùng có thẩm quyền xử phạt
vi phạm về xâm phạm sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các cơ
quan này trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm phạm
sở hữu trí tuệ còn chồng chéo, mạnh ai nấy làm, chưa thực sự phù hợp. Để

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ đạt
hiệu qu
ả cao cần có qui định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan này.
2.4.6. Những hạn chế của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật
Công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm phạm sở hữu trí
tuệ hiện nay chủ yếu quan tâm đến việc phát hiện, xử lý tội phạm mà chưa
quan tâm đúng mức đến công tác ngăn ngừa tội phạm. Công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho người dân còn yếu, chưa
thường xuyên.
CHƯƠNG III
HOÀN THIỆN CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CỦA ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ
3.1. Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ trong
thời gian tới ở Việt Nam
3.1.1. Cơ sở lý luận của việc dự báo tình hình tội phạm xâm phạm sở
hữu trí tuệ
Dự báo tình hình tội phạm có vai trò hết sức quan trọng trong việc
hoạch định các chính sách phòng, chống tội phạm. Hoạt động dự báo tình
hình tội phạm được xác lập trên cơ sở khoa học sau:
- Những số
liệu chính xác về tình hình tội phạm trong khoảng thời
gian nhất định: với khoảng thời gian dài thì mới có thể xác định chính xác
qui luật, khuynh hướng phát triển của tội phạm trong xã hội, hạn chế sai
sót trong dự án;


17
- Những tài liệu về các hiện tượng tiêu cực tác động đến tình hình tội

phạm;
- Những kết quả nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm, những thay đổi của chúng trong tương lai;
- Hệ thống pháp luật hiện hành và việc hoàn thiện nó trong tương lai
ảnh hưởng đối với tình hình tội phạm;
- Những tư liệu về kết quả đấu tranh chống tội phạ
m cũng như hiệu
quả hoạt động phòng, chống tội phạm của hệ thống tội phạm hình sự;
- Những tư liệu về kinh tế, chính trị và tâm lý xã hội đã, đang và sẽ
ảnh hưởng đối với tình hình tội phạm.
Dự báo tình hình tội phạm phải thực sự được coi là một trong những
hoạt động quan trọng của Nhà nước trong việc hoạch định chính sách kinh
tế, xã hội.
3.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình các tội xâm phạm sở hữu
trí tuệ
Trong những năm tới nền sản xuất của nước ta vẫn ở trong tình trạng
cung không đủ cầu, lượng hàng hóa sản xuất ra ngày càng phong phú và đa
dạng, nhiều người đã biết nắm bắt cơ hội để làm ăn kinh tế và giàu lên
nhanh chóng. Nhưng cũng có một số lượng không nh
ỏ những người lâm
vào tình trạng phá sản, bần cùng hóa. Đây có thể là một lực lượng bổ sung
vào những đường dây sản xuất, buôn bán hàng giả, sao chép, xuất bản sách
báo, băng đĩa lậu. Khi đó tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ sẽ
gia tăng rất mạnh và diễn biễn phức tạp hơn nhiều.
Nhiều cơ sở sản xuất đã lợi dụng chính sách mở c
ửa hội nhập của
Đảng và Nhà nước ta để móc nối với các cơ sở sản xuất ở nước ngoài nhập
nguyên liệu rẻ tiền vào trong nước hoặc sản xuất hàng giả ngay ở nước
ngoài rồi nhập khẩu vào trong nước để đánh lừa người tiêu dùng.
Tổng hợp các yếu tố có tác động mạnh mẽ đến tình hình các tội xâm

phạm sở hữu trí tuệ nêu trên, là cơ sở
để dự báo tình hình tội phạm, từ đó
đưa ra các biện pháp phòng ngừa thích hợp trong thời gian tới.
3.1.3. Dự báo tình hình các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trong thời
gian tới
Dựa vào tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ trong những năm
qua và các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình tội phạm có thể đưa ra dự báo
về tình hình các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ ở nước ta trong thờ
i gian tới
đó là các vụ phạm tội xâm phạm sở hữu trí tuệ sẽ có xu hướng giảm dần.
Tuy nhiên, một thực tế đáng lo ngại là để tồn tại, để không bị phát hiện và
xử lý, thủ đoạn của những người phạm tội xâm phạm sở hữu trí tuệ sẽ
ngày càng tinh vi. Nghĩa là trong thời gian tới sẽ giảm mạnh các vụ phạm


18
tội nhỏ, lẻ, đơn giản nhưng các vụ phạm tội với quy mô lớn, thủ đoạn tinh
vi, phức tạp vẫn có xu hướng gia tăng.
Trong thời gian tới những sản phẩm hàng hóa xâm phạm sở hữu trí tuệ
sẽ tăng mạnh đối với các loại hàng có nhãn mác ngoại, những mặt hàng
sản xuất bằng công nghệ cao như điện tử, điện lạnh, thi
ết bị viễn thông…
Các loại hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ sẽ chủ yếu là giả về hình
thức, như nhái lại kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa…
Hiện tượng câu kết, móc nối với tội phạm nước ngoài ngày càng trở
nên phổ biến do biết cách lợi dụng chính sách mở rộng giao lưu kinh tế
của Đảng và Nhà nước ta.
Địa bàn trọng điểm sản xuất hàng giả, hàng vi ph
ạm sở hữu trí tuệ,
xuất bản, phát hành các ấn phẩm xâm phạm quyền tác giả sẽ là các khu

công nghiệp, khu chế xuất, khu vực giáp ranh giữa thành thị và nông thôn,
khu đông dân cư, các làng nghề tập trung ở các thành phố lớn…
Từ các dự báo về tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ trong
thời gian tới hy vọng các cơ quan chức năng sẽ sớm có biện pháp giải
quyết để công tác đấu tranh phòng, chố
ng tội phạm xâm phạm sở hữu trí
tuệ đạt kết quả cao nhất.
3.2. Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện các giải pháp nhằm đấu
tranh phòng, chống có hiệu quả các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
Nhà nước phải coi pháp Luật Hình sự là công cụ sắc bén nhất của
mình trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ và việc thực thi quyền của các chủ sở
hữu trên thực t
ế. Việc hoàn thiện hệ thống pháp Luật Hình sự đang là yêu
cầu cấp thiết cần được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đẩy mạnh hơn nữa.
Một xã hội không có tội phạm không chỉ là một xã hội bình yên mà còn là
một xã hội giàu mạnh và ổn định về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội.
3.3. Hoàn thiện pháp Luật Hình sự nhằm đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm sở hữ
u trí tuệ
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự qui định về các tội xâm phạm sở
hữu trí tuệ
Theo tác giả nên sửa đổi, bổ sung các qui định của BLHS về cấu thành
các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ như sau:
Thứ nhất, nên qui định bảy tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trong cùng
một chương.
Thứ hai, đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả Điều 156 BLHS
1999.
Điều luật qui định số lượng hàng giả phải tương đương với số lượng
của hàng thật có giá trị từ 30 triệu đồng trở lên hoặc dưới 30 triệu đồng

nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, hoặc đã


19
bị kết án chưa được xóa án tích thì mới bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, trên
thực tế ít khi xảy ra những vụ việc sản xuất hoặc buôn bán hàng giả có số
lượng lớn như vậy. Bọn tội phạm thường lợi dụng sơ hở của pháp luật, tổ
chức sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ nhỏ lẻ với số lượng hàng giả dưới 30
triệu đồng. Vì v
ậy, khi bị bắt giữ thì chưa đủ giá trị qui định trong BLHS,
nên không bị xử lý bằng hình sự.
Thứ ba, sửa đổi bảy tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
theo hướng tăng nặng khung hình phạt và áp dụng hình phạt bổ sung là
phạt tiền.
Thứ tư, để phù hợp với xu hướng quốc tế, chúng ta nên bỏ hình phạt
tử hình qui định tại Điều 157, tộ
i sản xuất, buôn bán hàng giả là lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh.
Thứ năm, hầu hết các điều luật qui định các tội xâm phạm sở hữu trí
tuệ không qui định rõ yếu tố định lượng trong điều luật mà chỉ qui định
chung chung là “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm
trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.Theo tác gi
ả nên qui định rõ
các yếu tố định lượng trong điều luật để thuận tiện hơn cho việc áp dụng
pháp luật.
Thứ sáu, để phù hợp với các điều ước quốc tế nên qui định chi tiết
“với quy mô thương mại” vào trong Điều 131 tội xâm phạm quyền tác giả
và Điều 171 tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Thứ bảy, nên bổ
sung thêm hai tội là tội xâm phạm quyền liên quan

đến quyền tác giả và tội xâm phạm quyền đối với giống cây trồng.
Thứ tám, cần có sự phân biệt rõ ràng giữa tội sản xuất, buôn bán hàng
giả Điều 131 với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Điều 171 BLHS
1999. Như vậy, hàng giả hiện nay có thể chia thành ba loại: hàng giả về
nội dung, hàng giả về hình thức, hàng giả cả
về nội dung và hình thức. Tuy
nhiên, hàng giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc,
xuất xứ hàng hóa, nhãn hàng hóa lại là đối tượng bảo vệ của Điều 171, tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trên thực tế các nhà thực thi pháp
luật chưa phân định rõ ràng hai loại tội phạm này.
3.3.2. Hoàn thiện hoạt động áp dụng pháp luật
Ngoài việc sửa đổi, bổ sung các qui định của BLHS về các t
ội xâm
phạm sở hữu trí tuệ cần tiếp tục hoàn thiện các qui định pháp luật về sở
hữu trí tuệ và xử lý vi phạm sở hữu trí tuệ trong các hệ thống pháp luật
chuyên ngành khác cũng như việc áp dụng pháp luật trong thực tế. Hiện
nay, các qui định về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ vẫn còn nhiều điểm
yếu, dẫn đến hiệu quả thực thi còn h
ạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu


20
bảo vệ sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ. Đây sẽ là một trong những bất lợi
cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.4. Hoàn thiện một số giải pháp khác nhằm đấu tranh phòng,
chống có hiệu quả các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
3.4.1. Giải pháp về Kinh tế - Xã hội
Mục đích chủ yếu của người phạm tội khi thự
c hiện các hành vi xâm
phạm sở hữu trí tuệ là vì lợi nhuận do những hành vi đó đem lại là vô cùng

lớn. Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ có tính Kinh tế - Xã hội sâu sắc. Như
đã phân tích ở phần nguyên nhân của tình hình tội phạm, sự thay đổi của
nền kinh tế là một trong những nguyên nhân chủ yếu đầu tiên dẫn đến hiện
tượng phạm tội.
Vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm hơ
n nữa đến việc xây dựng
và thực hiện các chính sách Kinh tế - Xã hội đúng đắn. Đi đôi với việc
thúc đẩy kinh tế phát triển cần chú ý đến đời sống của nhân dân. Cần có
các chính sách xã hội phù hợp, tạo việc làm ổn định cho người dân.
Tăng cường vai trò điều hành, quản lý của Nhà nước trong phát triển
Kinh tế - Xã hội là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến hiệ
u quả công
tác phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ. Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong việc phát triển kinh tế, khuyến khích, đẩy mạnh sản xuất hàng
hóa trong nước, đồng thời mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
nhằm tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động đang là một trong
những thách thức lớn đặ
t ra cho Đảng và Nhà nước ta. Khi cuộc sống của
người lao động được đảm bảo, họ sẽ không rơi vào con đường phạm tội.
3.4.2. Giải pháp về cơ chế quản lý kinh tế
Đi đôi với việc xây dựng các chính sách Kinh tế - Xã hội, Đảng và
Nhà nước ta cần kiện toàn lại cơ chế, bộ máy quản lý kinh tế - xã hội cho
phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển củ
a nền kinh tế trong và ngoài nước.
Cần tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, nhanh chóng, thuận tiện
nhưng vẫn đảm bảo được tính an toàn cao. Thủ tục đơn giản thì các hoạt
động sản xuất, lưu thông hàng hóa mới có thể dễ dàng được tiến hành trên
diện rộng, tạo bước đệm cho sản xuất kinh doanh phát triển.
3.4.3. Giải pháp về nâng cao vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật

Nâng cao vai trò của ngành Công an.
Cơ quan Công an là cơ quan đầu tiên tiế
p nhận các nguồn tin tố giác
về tội phạm. Vì vậy, cần tổ chức hệ thông tiếp nhận thông tin một cách
thuận tiện nhất như đường dây điện thoại nóng, hòm thư tố giác tội
phạm…


21
Cần nâng cao trình độ chuyên môn và đặc biệt là biện pháp nghiệp vụ
trong công tác điều tra cho cơ quan Công an.
Trong quá trình điều tra, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động
của lực lượng cảnh sát điều tra với lực lượng cảnh sát kinh tế. Các tội
phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ có mục đích phạm tội chủ yếu là lợi nhuận,
gây ảnh hưở
ng trực tiếp đến nền kinh tế. Vì vậy, phải có sự phối hợp trao
đổi thông tin nhịp nhàng giữa cảnh sát điều tra và cảnh sát kinh tế để thực
hiện tốt nghiệp vụ điều tra. Cần trang bị đầy đủ cho lực lượng cảnh sát
điều tra các thiết bị máy móc hiện đại để phục vụ tốt hoạt động giám định
chất lượng hàng hóa.
Nâng cao vai trò củ
a hệ thống cơ quan Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát cũng có trách nhiệm tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội
phạm do các cơ quan, tổ chức và cá nhân chuyển đến. Vì vậy, ngành kiểm
sát cần làm tốt công tác xử lý các thông tin về tội phạm đã tiếp nhận, đưa
ra các biện pháp xử lý kịp thời, đúng đắn.
Viện kiểm sát cũng cần chủ động tiến hành các biện pháp kiểm tra,
giám sát th
ị trường để kịp thời phát hiện ra các hành vi vi phạm pháp luật.
Từ đó có biện pháp xử lý nhanh chóng, đúng đắn, giảm tối thiểu hậu quả

nguy hiểm của các hành vi đó gây ra cho xã hội. Đồng thời, cần nâng cao
trình độ chuyên môn của các kiểm sát viên; tổ chức thống nhất lại cơ cấu
quản lý để thực hiện tốt nhất chức năng công tố và kiểm sát việc thi hành
pháp luật trong các giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Nâng cao vai trò của Tòa án nhân dân các cấp.
Trong quá trình xét xử, vai trò của Thẩm phám là hết sức quan trọng,
cùng với Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán, đặc biệt là Thẩm phán là chủ tọa
phiên tòa, là người ra quyết định cuối cùng của phiên tòa. Vì vậy, để đạt
được hiệu quả xét xử cao, cần có đội ngũ cán bộ Thẩm phán có trình độ
am hiểu sâu rộng về sở hữu trí tuệ, nắm v
ững pháp luật, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với các tội phạm về xâm phạm sở hữu trí
tuệ.
Hội thẩm nhân dân là một yêu cầu bắt buộc trong các phiên tòa xét xử
sơ thẩm và phúc thẩm của chúng ta hiện nay. Hầu hết các Hội thẩm nhân
dân đều là những người kiêm nhiệm, họ có thể là giáo viên, bác sỹ, kỹ sư,
cán bộ nghỉ hưu… có uy tín, có phẩm chất đạo đứ
c tốt được mời đến tham
gia phiên tòa. Không phải tất cả các Hội thẩm nhân dân đều có kiến thức
về pháp luật một cách có hệ thống, bài bản nhưng họ lại độc lập với Thẩm
phán, ý kiến của họ ngang với ý kiến của Thẩm phán. Trong khi đó sở hữu
trí tuệ là một lĩnh vực rất khó, cần có kiến thức chuyên sâu. Việc Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân chư
a có am hiểu sâu sắc về sở hữu trí tuệ là


22
một yếu tố quan trọng khiến công tác xét xử hiện nay còn nhiều lúng túng,
hiệu quả xét xử không cao. Vì vậy, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về sở

hữu trí tuệ cho các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là một đòi hỏi có tính
cấp bách cần thực hiện.
Nâng cao vai trò của hệ thống các cơ quan quản lý thị trường
Không nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp nhưng vai trò của cơ
quan quản lý thị tr
ường đối với công tác đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm sở hữu trí tuệ. Nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý thị
trường trong công tác đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng
vi phạm sở hữu trí tuệ là một yêu cầu cấp thiết.
Nâng cao vai trò của cơ quan Hải quan.
Trên thực tế, Hải quan các nước trên thế giới đều có vai trò là cơ quan
duy nhất có chức năng, quyền hạn làm thủ tục hải quan và kiể
m tra, kiểm
soát hàng hóa xuất, nhập khẩu, hành khách, phương tiện vận tải xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh. Chính vì vậy, Hải quan là cơ quan có lợi thế nhất
trong việc thực hiện các biện pháp kiểm tra, kiểm soát biên giới chống vi
phạm sở hữu trí tuệ. Hải quan là cơ quan có thể ngăn chặn ngay từ biên
giới các hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ.
3.4.4. Giải pháp về tuyên truyền, phổ biến, giáo d
ục pháp luật cho
người dân
Vai trò của người tiêu dùng trong cuộc đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm sở hữu trí tuệ là vô cùng to lớn. Do đó cần tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục người dân tích cực tham gia phòng ngừa
và đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng hóa xâm phạm sở
hữu trí tuệ. Nên đưa nội dung giáo dục vào nhà trường, tổ chức các cuộc
thi tìm hiểu pháp luật về sở hữu trí tuệ trong các doanh nghi
ệp, cơ quan,
đoàn thể, đồng thời kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để
tuyên truyền. Từ đó xây dựng ý thức, trách nhiệm của người dân trong

phòng, chống tội phạm.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật
phải được thực hiện thường xuyên và có sự phối hợp của toàn xã hội.
3.4.5. Giải pháp liên quan đến hợp tác quốc tế
Việt Nam đã là thành viên chứ
c thức của Tổ chức thương mại thế giới
WTO với mong muốn hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Hiện nay, xu
thế chung của nhân loại cũng là hình thành một thị trường chung trên toàn
thế giới. Quốc tế hóa nền kinh tế là xu hướng chung của thời đại, là một tất
yếu khách quan đang diễn ra từng ngày từng giờ. Đây thực sự vừa là thời

, cũng vừa là thách thức đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt
Nam.

×