Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Đấu tranh, phòng chống các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.41 KB, 109 trang )

đại học quốc gia Hà nội
Khoa luật


Phạm thị hoài ph-ơng

Phòng ngừa các tội phạm xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
ng-ời trên địa bàn tỉnh bắc ninh

Chuyên ngành: T- pháp hình sự
Mã số: 60 38 40

Tóm tắt Luận văn thạc sĩ luật học


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang



Hà Nội - năm 2007

3

Mục Lục
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, biểu và đồ thị
Phần mở đầu
Ch-ơng 1. Nhận thức chung về các tội xâm phạm tính


mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời và
hoạt động phòng ngừa các tội phạm này
1.1. Nhận thức chung về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự nhân phẩm con ng-ời.
1.1.1. Khái niệm về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
1.1.2. Lịch sử phát triển pháp luật hình sự của nhà n-ớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm của con ng-ời.
1.1.3. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm đến tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
1.2. Nhận thức chung về hoạt động phòng ngừa các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
1.2.1. Khái niệm hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
1.2.2. Chủ thể trong hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con ng-ời.
1.2.3. Các giải pháp trong phòng ngừa các tội xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con ng-ời.
Trang
1
2
3
6
7



11


11

11


16

22

26

26

28

31

4
Ch-ơng 2. Tình hình và kết quả phòng ngừa các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con
ng-ời tại tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000 đến năm 2005
2.1. Một số đặc điểm chung của tỉnh Bắc Ninh
2.2. Số liệu tình hình các tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời tại tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000
đến 2005.
2.2.1. Số liệu tình hình tội phạm đã bị phát hiện.
2.2.2. Tình hình tội phạm ẩn.
2.3. Kết quả phòng ngừa các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời từ năm 2000 đến 2005.
2.2.1. Những kết quả đạt đ-ợc trong phòng ngừa các tội phạm xâm

phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời trên tại tỉnh
Bắc Ninh từ năm 2000 đến 2005.
2.2.2. Nhng tn ti trong phũng nga cỏc ti phm xõm phm tớnh
mng, sc kho, danh d, nhõn phm ca con ngi ti tnh Bc Ninh.
2.2.3. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời tại tỉnh Bắc Ninh từ 2000 đến 2005
Ch-ơng 3. những giải pháp nâng cao hiệu quả phòng
ngừa các tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của con ng-ời tại tỉnh Bắc ninh.
3.1. Một số dự báo về tình hình các tội phạm xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời tại tỉnh Bắc
Ninh đến năm 2010.
3.2. Các giải pháp phòng ngừa chung nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống các loại tội phạm xâm phạm tính mạng, sức


35
35


38
38
55

58


58


63


69


85


85

87


5
khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
3.2.1. Tăng C-ờng hiệu lực quản lý công tác đấu tranh, phòng
ngừa các loại tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của con ng-ời.
3.2.2. Tăng c-ờng ổn định và phát triển kinh tế ở địa ph-ơng.
3.2.3. Giải quyết việc làm cho ng-ời lao động.
3.2.4. Chú trọng phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục.
3.2.5. Tăng c-ờng công tác quản lý trật tự an toàn xã hội.
3.3. Các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa
các loại tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của
con ng-ời trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3.3.1. Những giải pháp nâng cao hiệu quả của các cơ quan t- pháp.
3.3.2. Giải pháp tăng c-ờng các biện pháp phòng ngừa tội phạm
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
3.3.3. Nõng cao hiu qu cỏc bin phỏp phũng nga nghip v.

3.3.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo



87

90
91
93
94


96
96

102
103
106
109
111




7
Phần mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Con ng-ời luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi chính sách
xã hội và pháp luật. Đấu tranh bảo vệ quyền con ng-ời là trách nhiệm
của nhà n-ớc và mọi cá nhân trong xã hội. Do vậy, khi có bất kỳ hành
vi nào xâm phạm đến các quyền con ng-ời đều bị trừng phạt rất nghiêm
khắc. Bộ luật hình sự năm 1999 đã dành một ch-ơng riêng quy định
trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất n-ớc, tình hình kinh
tế ở Bắc Ninh cũng có nhiều thay đổi. Là một tỉnh đ-ợc tách ra từ tỉnh Hà Bắc
cũ, đ-ợc tái lập theo nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 ngày 06
tháng 11 năm 1996, có đặc điểm là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng bắc bộ,
nhiều làng nghề truyền thống, giao thông thuận lợi, Bắc Ninh thu hút đ-ợc rất
nhiều nhà đầu t- n-ớc ngoài đền đầu t Nhiều khu công nghiệp đã đ-ợc xây
dựng và đi vào hoạt động nh- khu công nghiệp Tiên Sơn, khu công nghiệp
Quế Võ, ngoài ra một số khu công nghiệp khác đang tiến hành triển khai, xây
dựng nh- khu công nghiệp Đại Đồng-Hoàn Sơn, khu công nghiệp Nam Sơn-
Hạp Lĩnh, khu công nghiệp Yên Phong, khu công nghiệp D-ợc phẩm, khu
công nghiệp Kỹ thuật cao. Ngoài các khu công nghiệp trên còn có các cụm
công nghiệp vừa và nhỏ và là nơi tập trung các làng nghề tiểu thủ công nghiệp
truyền thống. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế nói trên thì bên
cạnh đó cũng xuất hiện các loại tội phạm trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế xã hội trong đó có sự gia tăng của các loại tội phạm xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời. Đây là vấn đề đ-ợc sự quan tâm
của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân,
Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ra nhiều văn bản yêu cầu các ban, ngành,

8
đoàn thể, các tổ chức xã hội đề ra và áp dụng nhiều biện pháp cụ thể nhằm
đấu tranh với các loại tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm của con ng-ời. Các cơ quan bảo vệ pháp luật nh- Công an, Viện kiểm

sát, Toà án là những cơ quan đ-ợc giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với các
loại tội phạm trên, đã áp dụng các biện pháp có hiệu quả để phát hiện, điều
tra, truy tố những kẻ phạm tội.
Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời
còn bộc lộ nhiều hạn chế và ch-a mang lại kết quả cao, nhiều khó khăn,
v-ớng mắc về thực tiễn ch-a đ-ợc giải quyết. Các biện pháp đấu tranh
phòng, chống đối với các loại tội phạm này còn mang tính tổng quát
ch-a đi vào cụ thể. Do vậy, nghiên cứu Phòng ngừa các tội phạm xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh là cần thiết, bảo đảm giữ gìn an ninh trật tự và góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Bắc Ninh nói riêng
và cả n-ớc nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về các tội
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
Tuy nhiên, các công trình đề cập đến các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời nói trên nghiên cứu trên khía
cạnh quy định của luật hình sự, hoặc nghiên cứu đối với từng tội phạm
cụ thể trong phạm vi toàn quốc, ch-a có công trình nào nghiên cứu về
loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Vì lý do đó, đề tài Phòng
ngừa các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nhằm nghiên cứu các
nguyên nhân, điều kiện, đặc điểm nhân thân ng-ời phạm tội để từ đó
đ-a ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa đối

9
với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con
ng-ời trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.

Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm làm rõ đ-ợc tình hình
các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của
con ng-ời; kết quả đấu tranh của các cơ quan bảo vệ pháp luật và đ-a ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa các tội phạm
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đánh giá một cách đúng đắn tình hình tội phạm xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh trong 6 năm từ năm 2000 đến năm 2005.
- Đánh giá chính xác, hiệu quả của các biện pháp đấu tranh đối
với các loại tội phạm này.
- Xác định những nguyên nhân và điều kiện phạm tội; phân tích
các ảnh h-ởng của các yếu tố kinh tế - xã hội; từ đó dự báo tình hình tội
phạm trong thời gian tới.
- Kiến giải và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh,
phòng ngừa đối với các loại tội phạm trên không chỉ trong địa bàn tỉnh
Bắc Ninh mà ở phạm vi cả n-ớc.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu góc độ tội
phạm học về các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm con ng-ời và kết quả đấu tranh, phòng ngừa trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000 đến 2005.
4. Điểm mới của luận văn.
Luận văn này là công trình khoa học đầu tiên trong khoa học hình
sự, nghiên cứu cụ thể về tình hình, nguyên nhân, điều kiện của các tội

10
phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con
ng-ời trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời đ-a ra biện pháp kịp thời và
có hiệu quả để đấu tranh, phòng ngừa đối với loại tội phạm này.

5. Cơ sở lý luận và ph-ơng pháp nghiên cứu.
Luận văn đ-ợc thực hiện dựa trên ph-ơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lê nin, t- t-ởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, nguyên tắc chỉ
đạo của Đảng và nhà n-ớc ta trong công tác đấu tranh, phòng chống các
loại tội phạm.
Trong quá trình thực hiên luận văn, tác giả đã sử dụng các ph-ơng
pháp nghiên cứu cụ thể nh-: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh đối
chiếu
6. Cơ cấu luận văn.
Luận văn bao gồm: Phần mở đầu, các ch-ơng và danh mục tài liệu
tham khảo.
Ch-ơng 1: Nhận thức chung về các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời và hoạt động phòng ngừa các
tội phạm này.
Ch-ơng 2: Tình hình và kết quả hoạt động phòng ngừa các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời tại tỉnh Bắc
Ninh từ năm 2000 đến 2005
Ch-ơng 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng ngừa các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.






11
Ch-ơng 1
Nhận thức chung về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm của con ng-ời và hoạt động phòng ngừa các tội

phạm này

1.1. Nhận thức chung về các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự nhân phẩm con ng-ời
1.1.1. Khái niệm về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
Con ng-ời với t- cách là một thực thể của tự nhiên và xã hội, luôn
là đối t-ợng đ-ợc quan tâm và bảo vệ hàng đầu trong mọi nhà n-ớc, đặc
biệt là ở các nhà n-ớc hiện đại vấn đề con ng-ời càng đ-ợc quan tâm
hơn bao giờ hết. Xã hội ngày càng phát triển thì việc bảo vệ con ng-ời
và các lợi ích của con ng-ời càng đ-ợc chú trọng.
Đảng và nhà n-ớc ta đã xác định con ng-ời vừa là mục tiêu, vừa
là động lực phát triển của sự nghiệp cách mạng. Mọi chủ tr-ơng, đ-ờng
lối, chính sách pháp luật của Đảng và nhà n-ớc đều phấn đấu cho mục
tiêu vì con ng-ời, từng b-ớc cải thiện chăm lo mở rộng cơ hội lựa chọn
và tăng c-ờng năng lực cho con ng-ời để bằng trí tuệ và tài năng của
mình đóng góp cho xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
bản thân con ng-ời. Vì vậy, để đạt đ-ợc các mục tiêu trên, tr-ớc hết là
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tự do của họ, vì đó
là những điều có ý nghĩa và quan trọng hàng đầu đối với con ng-ời.
Những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của
con ng-ời là xâm phạm vào một trong những quyền thiêng liêng nhất-
quyền đ-ợc sống, quyền đ-ợc bảo vệ sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm.
Nếu những quyền này bị xâm phạm thì có thể tất cả các quyền khác
cũng không thể tồn tại và không thể đ-ợc thực hiện trên thực tế. Chính

12
vì lí do đó mà mục tiêu bảo vệ quyền sống của con ng-ời, quyền đ-ợc
bảo vệ sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm luôn đ-ợc đặt lên hàng đầu đối
với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời kì và mọi chế độ. ở Việt Nam,

tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời đ-ợc pháp luật
bảo vệ trên mọi ph-ơng diện, lĩnh vực liên quan đến cuộc sống, làm
việc, học tập, sinh hoạt của con ng-ời.
Tính mạng con ng-ời, theo giải thích của Từ điển tiếng Việt là
mạng sống của con ng-ời [38, tr965]. Xâm phạm tính mạng con ng-ời
đ-ợc hiểu đó là xâm phạm cuộc sống của con ng-ời, làm cho ng-ời bị
xâm phạm không thể tiếp tục sống. Do cuộc sống của con ng-ời đ-ợc
tính từ thời điểm sinh ra cho đến lúc chết đi một cách tự nhiên nên các
hành vi gây nên cái chết cho ng-ời khác đều phạm tội xâm phạm tính
mạng con ng-ời. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của cuộc sống con
ng-ời, pháp luật hình sự còn quy định cả tr-ờng hợp ch-a xâm phạm
vào tính mạng con ng-ời, nh-ng có hành vi đe doạ xâm phạm tính mạng
con ng-ời cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và hành vi này
cũng đ-ợc coi là xâm phạm tính mạng con ng-ời, mặc dù ch-a có hành
vi tác động vào thân thể con ng-ời. Trong Bộ luật hình sự năm 1999 quy
định các tr-ờng hợp sau đây là phạm tội xâm phạm tính mạng con
ng-ời: Điều 93 (Tội giết ng-ời); Điều 94 (Tội giết con mới đẻ), Điều 95
(Tội giết ng-ời trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh), Điều 96
(Tội giết ng-ời do v-ợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng), Điều 97
(Tội làm chết ng-ời trong khi thi hành công vụ), Điều 98 (Tội vô ý làm
chết ng-ời), Điều 99 (Tội vô ý làm chết ng-ời do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính), Điều 100 (Tội bức tử), Điều 101 (Tội
không cứu giúp ng-ời đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng),
Điều 103 (tội đe doạ giết ng-ời), Điều 117 (Tội lây truyền HIV cho
ng-ời khác), Điều 118 (Tội cố ý truyền HIV cho ng-ời khác).

13
Sức khoẻ của con ng-ời, theo giải thích của Từ điển Bách khoa
Việt nam, là trạng thái thoải mái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không
chỉ có nghĩa là không có bệnh hay th-ơng tật, cho phép mỗi ng-ời thích

ứng nhanh chóng với biến đổi môi tr-ờng, giữ đ-ợc lâu dài khả năng lao
động và lao động có hiệu quả [39, tr835]. Xâm phạm sức khoẻ con
ng-ời là gây nên mức độ th-ơng tật hoặc làm mất khả năng lao động
trong một chừng mực nhất định. Tuỳ theo tính chất của hành vi phạm
tội và mức độ lỗi của ng-ời phạm tội mà Luật hình sự quy định mức độ
gây th-ơng tích cho ng-ời khác phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm sức khoẻ của
ng-ời khác tại các điều: Điều 104 (Tội cố ý gây th-ơng tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của ng-ời khác), Điều 105 (Tội cố ý gây th-ơng
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ng-ời khác trong tình trạng thần
kinh bị kích động mạnh), Điều 106 (Tội cố ý gây th-ơng tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của ng-ời khác do v-ợt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng), Điều 107 (Tội gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của ng-ời khác trong khi thi hành công vụ), Điều 108 (Tội vô ý
gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ng-ời khác), Điề u
109 (Tội vô ý gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ng-ời
khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính), Điều
110 (Tội hành hạ ng-ời khác),
Danh dự của con ng-ời là phạm trù đạo đức, thể hiện lòng tôn
trọng đối với các tiêu chuẩn về hành vi đạo đức, ý thức bảo vệ và giữ
gìn những phẩm chất mà bản thân mình lấy làm tự hào và đ-ợc ng-ời
khác tôn trọng. Mất danh dự có nghĩa là mất sự tin yêu, mến phục của
ng-ời khác và đối với ng-ời có danh dự thì đấy là tổn thất lớn nhất
[39,tr647]. Còn nhân phẩm của con ng-ời là phẩm chất và giá trị của
con ng-ời [38,tr688]. Nh- vậy, danh dự, nhân phẩm con ng-ời là phẩm

14
chất và giá trị thể hiện lòng tôn trọng của ng-ời khác đối với một ng-ời.
Mất danh dự, nhân phẩm của một ng-ời là mất đi sự tin yêu, mến phục,
kính trọng của ng-ời khác và đối với ng-ời đó. Hành vi xâm hại danh

dự, nhân phẩm của ng-ời khác trong nhiều tr-ờng hợp còn gây thiệt hại
về sức khoẻ cho ng-ời khác. Pháp luật Việt Nam không chỉ bảo về tính
mạng, sức khoẻ, mà còn bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con ng-ời. Bộ
luật hình sự quy định những điều luật sau đây xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của ng-ời khác: Điều 111 (Tội hiếp dâm), Điều 112 (Tội hiếp
dâm trẻ em), Điều 113 (Tội c-ỡng dâm), Điều 114 (Tội c-ỡng dâm trẻ
em), Điều 115 (Tội giao cấu với trẻ em), Điều 116 (Tội dâm ô đối với
trẻ em), Điều 119 (Tội mua bán phụ nữ), Điều 120 (Tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em), Điều 121 (Tội làm nhục ng-ời khác),
Điều 122 (Tội vu khống).

Tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời là loại tội phạm có các đặc điểm pháp lý riêng biệt so với
các loại tội phạm khác tuy nhiên nó bắt buộc phải có các dấu hiệu pháp
lý chung của tội phạm, đó là: Thứ nhất, các tội phạm xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời bao giờ cũng là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào quyền nhân thân
của con ng-ời, đó là quyền đ-ợc sống, quyền đ-ợc bảo vệ tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm do pháp luật quy định. Thứ hai, tội phạm
xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời
bao giờ cũng phải do ng-ời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
Ng-ời có năng lực trách nhiệm hình sự là ng-ời khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức đ-ợc tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi do mình gây ra và có khả năng điều khiển đ-ợc
hành vi ấy. Theo Luật hình sự Việt Nam, ng-ời có năng lực trách nhiệm
hình sự là ng-ời đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật

15
hình sự) và không thuộc tr-ờng hợp ở trong tình trạng không có năng
lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ luật hình sự). Với việc quy định

nh- vậy, Luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa nhận những ng-ời đạt
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nói chung là có năng lực trách nhiệm
hình sự. Trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng không
đòi hỏi phải đánh giá từng tr-ờng hợp là có năng lực trách nhiệm hình
sự hay không mà chỉ cần xác định độ tuổi và cá biệt, nếu có sự nghi ngờ
mới cần phải kiểm tra xem ng-ời đó có thuộc tr-ờng hợp trong tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Thứ ba, ng-ời
thực hiện hành vi có lỗi. Lỗi là thái độ chủ quan của con ng-ời đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi
đó, thể hiện d-ới dạng lỗi cố ý hoặc vô ý. Ng-ời bị coi là có lỗi khi
ng-ời đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu hành vi ấy là
kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ
điều kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã
hội.
Tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm là những điều có ý
nghĩa và quan trọng hàng đầu đối với con ng-ời, nó liên quan đến sự
sống, sự tồn tại của con ng-ời, đến thể chất và tinh thần của họ. Mọi sự
chăm lo của nhà n-ớc và xã hội giành cho con ng-ời chỉ có ý nghĩa khi
con ng-ời sống và tồn tại trong thế giới khách quan. T-ớc đoạt tính
mạng của một con ng-ời hay làm tổn hại đến sức khoẻ của họ hay làm
tổn th-ơng đến tinh thần của họ đều có nghĩa là đã xâm phạm đến
những điều thiêng liêng, có giá trị vô cùng to lớn không chỉ đối với
ng-ời ấy mà còn ảnh h-ởng đến xã hội, đến những quan hệ xã hội đ-ợc
pháp luật bảo vệ nói chung. Bảo vệ con ng-ời chính là bảo vệ tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của ng-ời đó.

16
Nh- vậy từ những phân tích trên đây, có thể hiểu các tội xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, do ng-ời có năng lực trách nhiệm hình sự

thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quyền sống, quyền đ-ợc
bảo hộ về sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
1.1.2. Lịch sử phát triển pháp luật hình sự của nhà n-ớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm của con ng-ời.
1.1.2.1. Thời kì 1945-1985
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nhà n-ớc Việt Nam dân
chủ cộng hoà ra đời. Cùng với việc ra đời của nhà n-ớc, nhân dân ta vừa
phải xây dựng củng cố chính quyền, vừa phải tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm l-ợc. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của Đảng và nhà n-ớc ta trong giai đoạn này là xây dựng và củng cố
chính quyền, đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Đây cũng là giai
đoạn đánh dấu b-ớc phát triển quan trọng của luật hình sự Việt Nam.
Nhiệm vụ nổi bật của luật hình sự ở thời kì này là phục vụ cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đi đến thắng lợi, trừng trị
bọn việt gian phản động làm tay sai cho thực dân Pháp bảo vệ chính
quyền non trẻ, bảo vệ các quan hệ xã hội mới đ-ợc thiết lập và duy trì.
Tuy nhiên, trong điều kiện nh- vậy, nhà n-ớc đã kịp thời ban hành một
số văn bản pháp luật phục vụ những nhiệm vụ cấp bách. Ngày 10 tháng
10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL quy
định tạm thời về việc sử dụng luật lệ cũ hiện hành ở Việt Nam. Theo nội
dung Sắc lệnh, khi xét xử, Toà án xét xử theo luật hình cũ mà thực dân
phong kiến đề ra nh-ng không đ-ợc trái nguyên tắc độc lập của nhà
n-ớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Do vậy, ở giai đoạn 1945 đến 1954,
việc xét xử các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm

17
của con ng-ời vẫn dựa theo luật hình cũ để xét xử. Đó là B ộ hình luật
Bắc kỳ năm 1923, Bộ hình luật Nam kỳ 1912, Bộ hình luật Trung kỳ
năm 1933.

Năm 1954, với chiến thắng Điện Biên Phủ trấn động địa cầu, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi.
Tuy nhiên, cách mạng Việt Nam phải chuyển sang môt giai đoạn mới,
đất n-ớc bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc đ-ợc hoàn toàn giải phóng
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Do điều kiện kinh tế văn hoá, xã hội ở miền Bắc đã có những biến
đổi về căn bản so với tr-ớc đó nên toàn bộ hệ thống pháp luật của chế
độ cũ không đ-ợc phép áp dụng nữa. Năm 1955, Thủ t-ớng Chính phủ
ban hành Thông t- 442/TTg ngày 19/1/1955 về việc trừng trị một số tội
danh trên cơ sở tổng kết việc áp dụng luật cũ và án lệ. Nội dung của
Thông t- yêu cầu toà án khi xét xử các tội phạm nói chung phải theo
đ-ờng lối chính sách của Đảng. Thông t- cũng h-ớng dẫn việc xét xử
đối với những hành vi cố ý gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của con ng-ời. Cụ thể đánh bị th-ơng phạt tù từ 3 tháng đến 5
năm; Đánh bị th-ơng có tổ chức gây cố tật hay chết ng-ời có thể phạt
đến 20 năm; Cố ý giết ng-ời phạt tù từ 5 năm đến 20 năm; Nếu có
tr-ờng hợp giảm nhẹ thì có thể hạ xuống đến 1 năm; Giết có dự m-u có
thể phạt đến tử hình.
Tiếp đó trong thông báo về hội nghị Ban bí th- Trung -ơng Đảng
ngày 15

tháng 3 năm 1963 bàn về ph-ơng h-ớng nhiệm vụ công tác năm
1963 của ngành toà án ở điểm 3 có chỉ rõ Đấu tranh, chống tệ nạn xã
hội đặc biệt phải nghiêm trị tội giết ng-ời. Năm 1970, Toà án nhân
dân tối cao ra bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử về tội giết ng-ời
(kèm theo công văn số 452 ngày 10 tháng 08 năm 1970). Năm 1976, khi

18
n-ớc nhà thống nhất, Sắc lệnh số 03 ngày 15 tháng 03 năm 1976 do Hội

đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam ban hành, quy
định các hành vi xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, tài sản
công cộng, thân thể và các quyền lợi khác của công dân. Điều 5 của Sắc
lệnh này đã quy định tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của
công dân, văn bản này đã đợc sử dụng cho đến khi Bộ luật hình sự
1985 ra đời và có hiệu lực.
Nói tóm lại, tr-ớc khi Bộ luật hình sự 1985 đ-ợc ban hành thì việc
quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời mới chỉ đ-ợc quy định ở những văn bản d-ới luật nên giá
trị pháp lý của những văn bản đó ch-a cao, đồng thời các quy định còn
quá chung chung, không cụ thể rõ ràng dẫn đến việc áp dụng khó thống
nhất, việc xét xử gặp nhiều v-ớng mắc và do vậy cũng ảnh h-ởng phần
nào đến chất l-ợng xét xử cũng nh- hiệu quả của công cuộc đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này.
1.1.2.2. Thời kỳ 1985-1999.
Bộ luật hình sự 1985 đ-ợc quốc hội thông qua ngày 17/06/1985 và
có hiệu lực từ ngày 01/11/1986 là Bộ luật hình sự đầu tiên của nhà n-ớc
ta. Sự ra đời của Bộ luật này đánh dấu một b-ớc quan trọng trong lịch
sử lập pháp hình sự Việt Nam. Trong Bộ luật này, các tội xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời đ-ợc quy định
tại Ch-ơng II với những chế tài hết sức nghiêm khắc. Các điều luật quy
định về nhóm tội này bao gồm từ điều 101 đến điều 118.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm. Bộ luật hình sự năm 1985 đã đ-ợc sửa đổi bổ sung 4 lần vào các
năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự
liên quan đến nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm của con ng-ời là nhằm điều chỉnh kịp thời chính sách hình sự,

19
phát huy hiệu quả của pháp luật hình sự trong công cuộc đấu tranh

phòng chống tội phạm về xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm của con ng-ời tr-ớc diễn biến khá phức tạp và có chiều h-ớng
tăng của nhóm tội phạm này.
Tại lần sửa đổi bổ sung thứ nhất (năm 1989), điều 101, tội giết
ng-ời tăng thêm mức hình phạt. Điều 109, tội cố ý gây th-ơng tích bổ
sung thêm tr-ờng hợp phạm tội. Điều 114, tội giao cấu với ng-ời d-ới
16 tuổi quy định thêm một khung hình phạt. Qua lần sửa đổi này, các
điều luật đ-ợc sửa đổi đã đ-ợc quy định chặt chẽ hơn, sự phân hoá trách
nhiệm cao hơn, phù hợp với tính chất và mức độ của khách thể bị xâm
phạm.
Tại lần sửa đổi, bổ sung thứ 2 (năm 1991), Điều 103, tội xâm
phạm tính mạng sức khoẻ của ng-ời khác trong khi thi hành công vụ
đ-ợc sửa đổi nh- sau: Khoản 1 điều 103 (năm 1985) quy định Ngời
nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết ng-ời do sử dụng vũ khí
ngoài những tr-ờng hợp pháp luật cho phép, thì bị phạt tù từ 1 năm đến
5 năm. Phạm tội làm chết nhiều ng-ời thì bị phạt tù từ 3 năm đến 15
năm. Đ-ợc sửa đổi thành ngời nào trong khi thi hành công vụ mà
làm chết ng-ời do dùng vũ lực ngoài những tr-ờng hợp pháp luật cho
phép thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Phạm tội làm chết nhiều ng-ời
hoặc trong tr-ờng hợp nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 3 năm đến
15 năm.
Điều luật đ-ợc sửa đổi này đã mở rộng phạm vi hơn so với tr-ớc
và nh- vậy rõ ràng nó phù hợp với thực tế khách quan hơn. Điều 112
quy định về tội hiếp dâm cũng đã đ-ợc sửa đổi trong đó mức hình phạt
của khung hình phạt tại khoản 4 đã đợc tăng lên Mọi tr-ờng hợp giao
cấu với trẻ em d-ới 13 tuổi đều phạm tội hiếp dâm và ng-ời phạm tội bị
phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Phạm tội trong các tr-ờng hợp quy định ở

20
khoản 2 và khoản 3 của điều này thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm,

tù chung thân hoặc tử hình.
Sau lần sửa đổi, bổ sung thứ 3, ngày 02 tháng 03 năm 1995, Toà
án nhân dân Tối cao đã ban hành công văn số 73/TK về việc xét xử loại
tội xâm phạm tình dục trẻ em có nội dung: Ngời nào có hành vi hiếp
dâm trẻ em, c-ỡng dâm trẻ em hoặc giao cấu với ng-ời d-ới 16 tuổi lại
có cùng dòng máu trực hệ với nạn nhân hoặc anh chị em cùng cha mẹ,
anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc anh chị em cùng mẹ khác cha với
nạn nhân thì ngoài việc xét xử bị cáo theo quy định tại điều 112, điều
113, điều 144 Bộ luật hình sự còn phải xét xử bị cáo thêm tội loạn luân
theo điều 146.
Tại lần sửa đổi, bổ sung lần thứ 4 (năm 1997) đã chú trọng đặc
biệt đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Các quy định về tội xâm
phạm tình dục trẻ em đ-ợc sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, có hệ
thống, thể hiện chính sách nhất quán của nhà n-ớc ta trong việc bảo vệ
quyền trẻ em, đáp ứng đ-ợc yêu cầu nguyện vọng có tính thời sự, bức
súc của nhân dân. Cụ thể có các sửa đổi, bổ sung sau:
- Luật sửa đổi, bổ sung đã tách hành vi hiếp dâm trẻ em ra khỏi
tội hiếp dâm nói chung và quy định thành tội danh riêng là tội hiếp dâm
trẻ em, đ-ợc quy định tại Điều 112a. Tội hiếp dâm trẻ em có tính nguy
hiểm cao hơn so với tội hiếp dâm, do vậy đ-ờng lối xử lý có tính
nghiêm khắc hơn. Việc tách riêng nh- vậy thể hiện rõ nguyên tắc cá thể
hoá hành vi phạm tội và cá thể hoá hình phạt theo hành vi phạm tội
t-ơng ứng, đáp ứng đ-ợc yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm.
- T-ơng tự nh- vậy, Luật sửa đổi, bổ sung cũng tách hành vi
c-ỡng dâm trẻ em ra khỏi tội c-ỡng dâm nói chung và quy định thành
tội danh riêng( Điều 113a).

21
- Luật sửa đổi, bổ sung sửa tội danh Giao cấu với ngời dới 16

tuổi thành tội danh Giao cấu với trẻ em ( Điều 114). Việc sửa đổi
này nhằm thể hiện rõ hơn chính sách hình sự của nhà n-ớc ta trong việc
trừng trị các hành vi xâm hại tình dục trẻ em.
- Luật sửa đổi, bổ sung quy định thêm 2 tội danh mới nhằm bảo
vệ trẻ em về mặt tình dục. Đó là tội mua dâm ng-ời ch-a thành niên và
tội dâm ô với đối với trẻ em.
Cách sửa đổi, bổ sung trên đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng
cho việc bảo vệ quyền đ-ợc tôn trọng và bảo vệ của trẻ em, là vũ khí
cần thiết của cuộc đấu tranh không khoan nh-ợng đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em. Đây là b-ớc tiến mới trong việc hoàn thiện hệ
thống quy phạm pháp luật hình sự n-ớc ta nhằm nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng chống nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Kế thừa và phát triển những nguyên tắc, chế định pháp luật hình
sự của nhà n-ớc ta, nhất là Bộ luật hình sự năm 1985, cũng nh- những
bài học trong hoạt động tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng và
bảo vệ tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua, dự kiến những diễn biến mới
của tình hình tội phạm trong thời gian tới, ngày 21 tháng 12 năm 1999
Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1999.
So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 đã có
nhiều sửa đổi, bổ sung, trong đó có nhiều điều luật mới. Đặc biệt riêng
chơng XII các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm của con ngời của Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi
so với ch-ơng II của Bộ luật hình sự năm 1985. Nếu nh- ở Bộ luật hình
sự năm 1985 chỉ gồm 20 điều luật về các tội danh này. Đến Bộ luật hình
sự năm 1999 là 30 điều t-ơng ứng với 30 tội danh khác nhau, hơn Bộ
luật hình sự 1985 m-ời điều và thêm 20 tội mới. Một số tội đ-ợc quy
định trong Bộ luật hình sự 1985 đ-ợc tách ra làm nhiều điều luật, một

22
số tội phạm ở các ch-ơng khác đ-ợc đ-a về ch-ơng các tội xâm phạm

tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời cho phù hợp
với loại khách thể bị xâm phạm nh-: Tội dâm ô đối với trẻ em, Bộ luật
hình sự 1985 quy định tại điều 202b; tội mua, bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em-điều 149 Có hai tội đ-ợc quy định lần đầu đó là:
Tội lây truyền HIV cho ngời khác (Điều 117 Bộ luật hình sự) và
Tội cố ý lây truyền HIV cho ngời khác (Điều 118 Bộ luật hình sự).
Nhìn chung, các quy định tại Bộ luật hình sự 1999 đối với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời so với Bộ
luật hình sự 1985 đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh thực trạng công tác
đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này, giúp cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này thuận lợi hơn so với
những gì mà Bộ luật hình sự 1985 mắc phải.
1.1.3. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
Các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời đ-ợc quy định tại ch-ơng XII của Bộ luật hình sự bao
gồm 30 điều luật quy định các loại tội khác nhau, tuy nhiên căn cứ vào
khách thể bị xâm hại có thể chia thành 3 nhóm tội, đó là: Nhóm các tội
xâm phạm tính mạng con ng-ời gồm 13 tội; Nhóm các tội xâm phạm
sức khoẻ gồm 7 tội;

Nhóm các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm gồm
10 tội. Các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời tuy đ-ợc chia thành 3 nhóm tội nh-ng chúng có những
đặc điểm pháp lý chung nh- sau:
Khách thể của các tội phạm này xâm phạm đến quyền sống, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền đ-ợc bảo hộ về sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm của con ng-ời [37,tr46]. Đối t-ợng của các tội phạm này là các chủ thể
có quyền đ-ợc tôn trọng và bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân


23
phẩm. Đó là những ng-ời đang sống, đang tồn tại trong thế giới khách quan
với t- cách là một con ng-ời cụ thể-một thực thể tự nhiên và xã hội.
Mặt khách quan của các tội phạm này thể hiện ở những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
Đa số những hành vi nguy hiểm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm của con ng-ời đ-ợc thể hiện ở những hành động cụ thể, dùng
sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của ng-ời khác gây nên cái chết, hoặc
gây nên mức độ th-ơng tích, tổn hại về sức khoẻ, lây truyền HIV cho ng-ời
khác, hiếp dâm, làm nhục ngời khác v.v ; hoặc hành vi có thể thể hiện
bằng lời nói, hoặc hành động khác xâm phạm vào quyền nhân thân của con
ngời nh hành vi đe doạ giết ngời, vu khống v.v .
Bên cạnh những hành vi đ-ợc thể hiện bằng những hành động cụ thể thì
trong một số tội, hành vi phạm tội đ-ợc thể hiện bằng hình thức không hành
động, tức là phải làm một việc mà trách nhiệm phải làm nh-ng đã không làm
gây ra những tổn hại cho ng-ời khác nh- hành vi không cứu giúp ng-ời đang
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, hành vi của ng-ời mẹ không cho
con mình để ra bú sữa gây nên cái chết của đứa trẻ
Hậu quả nguy hiểm của các tội phạm này có thể là những thiệt hại về
thể chất nh- chết ng-ời, gây tổn hại về sức khoẻ, lây truyền HIV cho ng-ời
kháchoặc gây tổn hại về tinh thần nh xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời Đa số tội phạm có cấu thành vật chất, tức là bắt buộc phải có
hậu quả thì tội phạm mới hoàn thành.
Tuy nhiên, mức độ hậu quả gây thiệt hại trong các tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời trong từng tội phạm cụ
thể có khác nhau. Đa số các tội phạm có cấu thành vật chất nên thời điểm
hoàn thành của tội phạm kể từ khi làm chết ng-ời ở các tội xâm phạm tính
mạng. Tuy nhiên, ở Tội đe doạ giết ng-ời (Điều 103), thời điểm hoàn thành kể


24
từ khi ng-ời bị đe doạ lo sợ rằng, việc đe doạ này sẽ đ-ợc thực hiện. Đối với
Tội lây truyền HIV cho ng-ời khác (Điều 117) và Tội cố ý truyền HIV cho
ng-ời khác, thời điểm hoàn thành kể từ khi HIV đã đ-ợc truyền cho ng-ời
khác, và ng-ời bị hại đã bị nhiễm HIV.
Thời điểm hoàn thành của các tội xâm phạm sức khoẻ của ng-ời khác
kể từ khi gây nên mức độ th-ơng tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của ng-ời đó.
Mức độ này tuỳ thuộc vào từng tội khác nhau. Đối với tội cố ý gây th-ơng tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ng-ời khác (Điều 104) thì mức độ th-ơng
tích hoặc tổn hại sức khoẻ phải từ 11% trở lên theo kết luận giám định của Hội
đồng giám định y khoa. Nếu d-ới 11% thì phải có thêm một trong những tình
tiết đ-ợc quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k khoản 1 Điều 104. Đối
với các tội khác xâm phạm sức khoẻ thì mức độ th-ơng tích hoặc tổn hại sức
khoẻ phải từ 31% trở lên theo kết luận giám định của Hội đồng giám định y
khoa.
Đối với các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của ng-ời khác, thời
điểm hoàn thành của các tội phạm trong nhóm này kể từ khi có hành vi hiếp
dâm, cỡng dâm, giáo cấu với ngời khác, dâm ô đối với trẻ em v.v xúc
phạm nghiêm trọng vào danh dự, nhân phẩm của ng-ời khác.
Chủ thể của các tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của con ng-ời không phải là chủ thể đặc biệt, nh-ng phải là ng-ời
có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Một số tội đòi
hỏi chủ thể ngoài các dấu hiệu chung còn có các đặc điểm khác nh-: ng-ời
đang thi hành công vụ (Điều 97, Điều 107); ng-ời có quyền hành nhất định
với ng-ời bị lệ thuộc (Điều 100, Điều 110).
Mặt chủ quan của đa số các tội phạm này đ-ợc thực hiện với lỗi cố ý
(trực tiếp) nh- tội giết ng-ời, tội cố ý gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của ngời khác Tuy vậy, một số tội phạm đợc thực hiện với lỗi vô ý
nh- tội vô ý làm chết ng-ời, tội vô ý gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức


25
khỏe của ngời khác Ngoài ra, một số tội phạm còn đợc thực hiện với lỗi
vô ý (gián tiếp) nh- tội bức tử, tội gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe ng-ời khác trong khi thi hành công vụ.
Mục đích và động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm nh- tội giết ng-ời do v-ợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tội cố ý
gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ng-ời khác do v-ợt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn quy định động cơ
hoặc mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tăng nặng ở một
số cấu thành tăng nặng nh-: động cơ đê hèn (điểm q khoản 2 Điều 93; điểm c
khoản 2 Điều 120); để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác, để lấy bộ phận
cơ thể của nạn nhân (điểm g, h khoản 1 Điều 93); để che giấu hoặc trốn tránh
việc bị xử lý về tội phạm khác (điểm d khoản 2 Điều 103); để cản trở ng-ời thi
hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (điểm k khoản 1 Điều
104); vì mục đích mại dâm, để đ-a ra n-ớc ngoài (điểm a, d khoản 2 Điều
119; điểm đ, g khoản 2 Điều 120); để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo
(điểm e khoản 2 Điều 120). Đối với các tội khác, đông cơ, mục đích phạm tội
không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Chính sách hình sự đối với các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của con ng-ời:
Do đối t-ợng tác động của tội phạm là con ng-ời và tầm quan trọng của
các quan hệ xã hội cần đ-ợc bảo vệ, nên chính sách hình sự và đ-ờng lối xử lý
của nhà n-ớc đối với các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của con ng-ời là rất nghiêm khắc. Trong 30 tội quy định tại
ch-ơng XII Bộ luật hình sự năm 1999, thì có 9 tội đặc biệt nghiêm trọng, có
mức cao nhất của khung hình phạt từ trên m-ời năm năm đến hai m-ơi năm,
tù chung thân hoặc tử hình (3 tội có mức hình phạt cao nhất là tử hình: các tội
quy định tại Điều 93, Điều 111, Điều 112; 4 tội có mức hình phạt tối đa là
chung thân: các tội quy định tại Điều 104, Điều 114, Điều 118, Điều 120); 6


26
tội rất nghiêm trọng có hình phạt tù từ bảy năm đến m-ời năm năm (các tội
quy định tại các điều 97, 98, 99, 100, 115, 116); có 11 tội nghiêm trọng có
mức hình phạt từ ba năm đến bảy năm tù (các tội quy định tại các điều 95, 96,
101, 102, 103, 105, 107, 108, 109, 117, 122); có 4 tội ít nghiêm trọng có hình
phạt cao nhất đến ba năm tù (các tội quy định tại các điều 94, 106, 110, 121).
Ngoài ra, trong các điều luật về các tội phạm cụ thể còn quy định hình
phạt bổ sung nh-: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những
công việc nhất định từ một năm đến năm năm; phạt quản chế hoặc cấm c- trú
từ một năm đến năm năm; phạt tiền từ một triệu đồng đến m-ời triệu đồng
(Điều 112) hoặc từ năm triệu đồng đến năm m-ơi triệu đồng (Điều 119, Điều
120).

1.2. Nhận thức chung về hoạt động phòng ngừa các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
1.2.1. Khái niệm hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời.
Phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con ng-ời nói riêng để bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là một trong những nhiệm vụ đặc
biệt quan trọng đ-ợc Đảng và Nhà n-ớc ta đặt ra cho các cơ quan nhà
n-ớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Xuất phát từ tính nguy
hiểm của các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con ng-ời, Nhà n-ớc và xã hội luôn đòi hỏi các cơ quan nhà n-ớc
nói chung, các tổ chức và công dân phải thực hiện các biện pháp phòng
ngừa các tội phạm này có hiệu quả. Có nh- vậy mới đạt đ-ợc mục tiêu
là chủ động phòng ngừa và phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lí
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan ng-ời vô tội.


27
Phòng ngừa tội phạm nói chung là một trong hai nội dung chủ yếu
của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong lý luận Tội phạm học
và thực tế giải quyết những vấn đề liên quan đến tội phạm trong xã hội
đã chỉ ra, việc phát hiện, điều tra khám phá kịp thời mỗi khi tội phạm
xảy ra nhằm đảm bảo, tội phạm không thể không bị phát hiện và bị điều
tra xử lý kịp thời, không một ng-ời phạm tội nào có thể tránh khỏi hình
phạt của phát luật, đây là vấn đề vô cùng quan trọng vì tội phạm vẫn
xảy ra hàng ngày trong một quốc gia [25,tr200]. Tuy nhiên, phải bằng
mọi biện pháp không cho tội phạm xảy ra, hay nói cách khác là phòng
ngừa tội phạm mới là điều cực kỳ quan trọng. Tầm quan trọng của nó
đ-ợc thể hiện ở chỗ, phòng ngừa đ-ợc tội phạm cũng có nghĩa không để
cho một thành viên của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật; xã hội
không phải chịu hậu quả của tội phạm; các cơ quan bảo vệ pháp luật
không phải có những chi phí cần thiết cho việc điều tra, khám phá, xử
lý ng-ời phạm tội và điều quan trọng hơn là đảm bảo cuộc sống bình
th-ờng cho mọi công dân trong xã hội để từ đó, làm cơ sở cho mọi công
dân có thể cống hiến sức lực của mình vào sự nghiệp xây dựng xã hội
mới. Do tội phạm còn tồn tại trong xã hội, việc điều tra khám phá kịp
thời mỗi khi tội phạm xảy ra vẫn là yêu cầu hàng ngày, góp phần đảm
bảo sự tồn tại, vững mạnh của nhà n-ớc. Nh-ng việc phát hiện, điều tra,
khám phá và xử lý nghiêm minh với ng-ời thực hiện hành vi phạm tội
cũng vì mục tiêu phòng ngừa tội phạm, không chỉ giáo dục ng-ời phạm
tội mà còn đối với những ng-ời khác đang có ý định thực hiện tội phạm.
Chính vì vậy, cần hiểu phòng ngừa tội phạm theo nghĩa rộng với nội
dung, không để cho tội phạm xảy ra và nếu tội phạm vẫn xảy ra thì phải
phát hiện, điều tra, khám phá và xử lý kịp thời. Phòng ngừa các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con ng-ời bao gồm nội
dung cơ bản: phát hiện, điều tra, khám phá, xử lý kịp thời mỗi khi tội

×