Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

khóa luận tốt nghiệp nhượng quyền thương mại và xu hướng phát triển của mô hình này tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.87 MB, 102 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH
TẾ
NGOẠI
THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH:
KINH
TẾ NGOẠI
THƯƠNG
KHÓI) LUÔN TỐT
NGHlệP
(ĐỀ tài:
NHƯỢNG
QUYÊN THƯƠNG
MẠI VÀ xu HƯỚNG
PHÁT TRIỂN CỦA MÔ HÌNH NÀY TẠI VIỆT NAM
THƯ VIỀN!
'^••COA.HOHI
Sinh
viên
thực
hiện
:
THÂN THUÝ
HẰNG
Lớp


:
ANH
13
Khóa
:
K41D
-
KTNT
Giáo viên hướng
dẫn
:
ThS.
PHẠM
THỊ
SONG HẠNH

Nội, li -
2006
MỤC
LỤC
Lòi
mở
đầu
3
Chương ì. Cơ sở lý luận của hình thức nhượng quyền thương
mại
4
1.1.
Lịch
sử

ra đời
của hình
thức
kinh
doanh
nhượng
quyền
thương mại
(NQTM)
4
Ì
.2.
Khái
niệm

đặc
điểm
của
nhượng
quyền
thương
mại
6
1.2.1.
Khái
niệm
6
1.2.2.
Đặc điểm
của

hình
thức
nhượng
quyền
thương
mại
14
1.3.
Phân
loại
17
Ì
.4.
Phân
biệt
NQTM
với
một
số
hình
thức
kinh
doanh
tương
t
21
1.4.1.
Chi
nhánh
22

Ì
.4.2.
Đại
lý thương
mại
22
1.4.3.
Nhà phân
phối
24
Ì
.4.4.
Hoạt
động
cấp
phép
25
1.5.
Ưu
điểm và nhược điểm
của
nhượng
quyền
thương
mại
27
1.5.1.
Ưu
điểm
27

1.5.2.
Hạn
chế
31
1.6.
Một
số
hình
thức
mua
bấn quyền
thương
mại
32
Chương li. Thc trạng hoạt động nhượng quyền thương mại tại
Việt
Nam 35
2.
Ì.
Môi
trường
pháp
lý cho
hoạt
động nhượng
quyền
thương
mại
35
2.2.

Đặc điểm
của
mô hình
kinh
doanh
NQTM
tại
Việt
Nam 38
2.2.1.
Nhượng
quyền
theo lĩnh
vực
kinh
doanh
38
2.2.2.
Nhượng
quyền của
các
doanh
nghiệp
trong
và ngoài nước 40
2.2.3.
Nhượng
quyền
theo
phương

thức
mua
quyền
thương
mại
43
2.3.
Một
số ví
dụ
điển
hình 44
2.3.1.
Doanh
nghiệp
Việt
Nam nhượng
quyền
44
2.3.2.
Doanh
nghiệp
nước ngoài nhượng
quyền
tại
Việt
Nam 53
2.4.
Một
số

đánh
giá,
nhận xét chung
56
Chương 3. Xu hướng phát
triển
và các
giải
pháp thúc đẩy hình
thức
kinh
doanh
nhượng
quyền
thương mại
tại
Việt
Nam 59
3.1.

hội
và thách
thức
cho
việc
phát
triển
hình
thức
kinh

doanh
NQTM
tại
Việt
Nam 59
3.1.1.

hội
59
3.1.2.
Thách
thức
65
3.2.
Xu hướng 69
3.3.
Một
số bài học
kinh
nghiệm
81
3.4.
Giải
pháp 86
3.4.1.
Nhóm
giải
pháp
từ
phía

nhà nước 87
3.4.2.
Nhóm
giải
pháp
từ
phía
doanh
nghiệp
91
Kết
luận
95
Tài
liệu
tham khảo
96
LỜI
MỞ ĐẨU
Theo
kết
quả
điều
tra
sơ bộ
của
trường
đại
học
Kinh

tế
thành phố Hồ Chí
Minh,
trong
những
người
tiêu dùng được
phỏng
vấn
tại
Tp.Hồ Chí
Minh,
89%
cho
rằng
thương
hiệu

yếu tố
quyết
định
khi
họ
lựa
chọn
mua sểm
1
. Lý do là
họ thấy
an tâm về

nguồn
gốc và
chất
lượng sản phẩm hơn. Như
vậy, ta

thể
thấy
thương
hiệu
là một tài sản quý của
doanh
nghiệp.

thể
hình
dung
hai
vấn
đề cho
những
người
kinh
doanh
như
sau:
Một
là,
thành
lập

một
doanh
nghiệp,
định
vị
sân phẩm hay
dịch
vụ
của
mình
trong
tâm
trí
khách
hàng.
Tuy
nhiên
khi
đã xây
dựng
được
chỗ
đứng cho mình
trong thị
trường,
được sự công
nhận
và yêu thích của khách
hàng,
một vấn đề

đặt ra
là làm
thế
nào để có
thể
bảo
vệ và phát huy
tối
đa và mở
rộng
thương
hiệu
của mình
trong
điều
kiện
nguồn
vốn,
nhân
lực, đội
ngũ
quản
lý có
hạn.
Hai
là,
những
người
có vốn,
muốn

tìm một cơ
hội
đầu tư an
toàn,
hiệu quả, kinh
doanh
sản phẩm
dịch
vụ
đã được
chấp
nhận
trên
thị
trường.
Để
giải
đáp cho
hai
câu
hỏi
trên có một câu
trả
lời
thích họp đó

Nhượng
quyền
thương mại (íranchising).
Ra đời và phát

triển
nở rộ ở các nước Châu Âu, châu Mỹ cách đây gần
một thế kỷ,
nhượng
quyền
thương mại đang là một hình
thức
kinh
doanh

cùng hấp dẫn
đối với
cả
người
nhượng
quyền

người
nhận
quyền.
Nếu như
thị
trường phương Tây đã được
coi
là bão hòa
đối với
hình
thức
này
thì

tại
các
nước
ở Châu Á,
nhất

tại
Việt
Nam dây
lại
được
coi
là mô hình
kinh
doanh
sẽ
phát
triển
rất
mạnh
trong
thời
gian
tới.
Nhượng
quyền
thương mại đã
thể
hiện
những

ưu
điểm
của
nó không
chỉ đối với
các bên
tham
gia
mà còn cả
đối
với
nền
kinh tế.
Nhượng quyển thương mại đã xuất hiện ở nước ta cách đây hơn 10 năm
nhưng
hoạt
động này vẫn còn
rất
mới mẻ, sơ
khai
và được xem như một
mảnh
1
Khoa
kinh
tế Đại
học
quốc gia

Nội,

khóa
luận tốt
nghiệp,
Nhượng quyền thương mại
trong lĩnh
vực
thực
phàm và bản

cùa các doanh
nghiệp Việt
Nam
(franchìsìng),
Phạm
Hoàng
Minh
Hiền
Ì
đất
màu mỡ chưa được
khai
phá:
"Việt
Nam dược xem là một
thị
trường
tiềm
í
ẩn,
chưa được

khai
phá: một nền chính
trị
ổn
định;
tỷ
lệ
người
biết
chữ
cao;
/
một thị
trường
rất trẻ
với
70% dân số
dưới
30
tuổi;
sức mua ngày càng
tăng ị
fl
cao.
Chúng tôi tiên đoán sẽ nổ ra một
cuộc
cách
mạng
về nhượng
quyền

thương mại
trong
một vài năm
tới,
với
sể đổ bộ
nhiều
nhãn
hiệu
nước ngoài và
lớn
mạnh
của
các íranchisee
nội địa".
Tiến
tới
gia
nhập
tổ
chức
thương mại
thế
giới
WTO,
Việt
Nam
sẽ

điểm

đến
của
nhiều
doanh
nghiệp
nước ngoài. Chúng
ta
đang đứng trước ngưỡng
cửa
mở cửa
thị
trường,
tể
do hóa
kinh
tế.

thế
đây vừa là một cơ
hội
vừa là
một
thách
thức đối với
các
doanh
nghiệp
nhận
quyền
và nhượng

quyền
trong
nước.
Nắm
bất
được xu hướng
của
hình
thức
kinh
doanh
này
tại
Việt
Nam sẽ
là một
lợi
thế
rất
lớn
cho các
doanh
nghiệp
không
chỉ
trong
nước mà cả nước
ngoài.
Xuất
phát từ

thểc tế
đó em đã
lểa
chọn
đề tài khóa
luận
tốt nghiệp:
"Nhượng
quyền
thương mại và xu hướng phát
triển
của mô hình này
tại
Việt
Nam".
Mục
tiêu
nghiên
cứu của
khóa luận:
Khóa
luận
làm rõ các
vấn
đề lý
thuyết
như khái
niệm,
ưu nhược
điểm

của
hình
thức
kinh
doanh
nhượng
quyền
thương
mại,
các hình
thức
nhượng
quyền,
phân
biệt
nhượng
quyền
với
một số hình
thức
kinh
doanh
khác
cũng
như
thểc
trạng
tình hình nhượng
quyền
thương mại

tại
Việt
nam. Từ
đó,
khóa
luận
đánh
giá xu hướng và đề
ra
giải
pháp
cho
việc
phát
triển
mô hình này
tại
Việt
Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Đối
tượng nghiên cứu
của
khóa
luận
bao gồm các
doanh
nghiệp
trong


ngoài nước đã áp
dụng
mô hình nhượng
quyền
kinh
doanh
trong
giai
đoạn
từ
năm 1996
trở
lại
đày.
về phạm
vi
nghiên
cứu,
khóa
luận
đi sáu nghiên cứu
nội
dung
của hình
thức
nhượng
quyền
thương
mại, tập
trung

phân tích
thểc
trạng
2
nhượng
quyền
kinh
doanh
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam và
tình hình
nhượng
quyền
của
các
doanh
nghiệp
nước ngoài vào
Việt
Nam
Phương pháp nghiên
cứu
Khóa
luận
sử
dụng

phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp
thống kê,
/
so
sánh, phương pháp
tổng
hợp

phân
tích,
phương pháp
trừu
tượng hóa,/
phương pháp

tả
khái quát.
Nội dung của khóa luận
Với
việc
tập
trung
nghiên cứu
bằng
những
phương pháp
khoa
học trên,

luân văn đã được xây
dựng
với
bố
cục
đề
tài
gộm 3
chương:
Chương
ì.

sở lý
luận
của
hình
thức
nhượng
quyền
thương mại
Chương n. Thực
trạng
hoạt
động nhượng
quyền
thương mại
tại
Việt
Nam
Chuông

in.
Xu hướng phát
triển
và các
giải
pháp thúc đẩy hình
thức
kinh
doanh
nhượng
quyền
thương
mại
tại
Việt
Nam.
Đây là một
đề
tài
tổng
quát,
đòi
hỏi
kiến
thức rộng

nhiều
tài
liệu


thời
gian
để nghiên
cứu.
Tuy nhiên về lý
luận
cũng
như
thực
tiễn

Việt
Nam
gần
như chưa có nghiên cứu chính
thống
nào về
loại
hình
kinh
doanh
mới
mẻ
này nên
trong
quá trình
thực hiện
tác
giả
đã gặp không

ít
những
khó
khăn.
Tuy
vậy,
được sự giúp
đỡ
nhiệt
tình của
Th.s.
Phạm
Thị Song Hạnh,
em đã
hoàn
thành được khóa
luận
của
mình.
Em
xin
chân thành
gửi
lời
cảm ơn
sâu
sắc
tới

giáo,

người
đã
tận
tình hướng dẫn và
chỉ
bảo cho
em
trong
thời
gian
qua.
Do trình
độ
của
người
viết
còn hạn
chế,
khoa
luận
chắc
chắn
còn
nhiều
thiếu
sót.
Tác
giả xin
cảm ơn
và đánh giá cao

những
góp
ý,
phê bình
của thầy
cô,
các bạn và
những
ai
quan
tâm đến đề
tài
này.
3
CHƯƠNG
ì.
Cơ SỞ LÝ
LUẬN
CỦA
HÌNH
THỨC
NHƯỢNG
QUYỂN
THƯƠNG
MẠI
1.1. Lịch sử
ra đời
của hình
thức
kinh

doanh nhượng quyền thương mại
(NQTM)
Thuật ngữ "nhượng quyền thương mại" (íranchising) đã có từ rất lâu
đời.
Từ
thời
kỳ
phong
kiến

các nước Châu Âu,
quyền
thương mại được
nhượng
là một đặc
ân
được vua chúa ban
cho.
Bản
chất
của nhượng
quyền
thương mại
trong
thời
kỳ này là nhà vua cấp cho một
ai
đó
quyền
được

kinh
doanh
độc
quyền
một
loại
hình
hoạt
động thương mại
nhất
định.
Sau nhiều
năm, cùng
với
sự phát
triứn
của nền
kinh tế
các nước đặc
biệt
là các nước phương Tây, khái
niệm
NQTM
cũng
đã có
nhiều thay đổi.
Vào
giữa
những
năm 1800

tại
Đức,
những
nhà

rượu
lớn
đã
cấp
quyền
thương
mại
cho các quán rượu
nhất
định,
cho phép các quán rượu này bán rượu của
mình.
Đây
được
xem

khởi
nguồn
của khái
niệm
NQTM mà
chúng
ta
biết
ngày

nay.
Vào
năm
1850,
chính công
ty
I.M.Singer
trong
nỗ
lực
nhằm phân
phối
và đẩy
mạnh
việc
tiêu
thụ
số lượng
máy
khâu do công
ty
sản
xuất ra
đã
tình cờ
tạo ra
hệ
thống
nhượng
quyền

thương mại

khai
đầu tiên
tại
Mỹ
2
.
Vào
cuối
những
năm
50 của
thế
kỷ
19, Singer
đã
thiết
lập
một
mạng
lưới
các
nhà bán buôn và bán
lẻ.
Những
người
này đứ được phân
phối
những

máy khâu
của
I.M.Singer
trong
một khu vực
nhất
định
đã
phải
một
khoản
tiền
cho công
ty
này
theo
những
hợp đổng íranchise do công
ty
soạn
ra.
Đây được
coi

tiền
thân của
những
hợp đổng
NQTM
về sau

này.
Vào
cuối
những
năm
1880,
các
thành phố
bắt
đầu cấp
quyền
độc
quyền
đối với
dịch
vụ ô tô và
các ngành
công
cộng
phục
vụ nước
sạch,
nước
thải,
gas và
điện.
Trong
khoảng
thời
gian

trước
chiến tranh thế
giới
lần thứ nhất,
luật
Antitrus
cấm
người
sản
xuất
sở
hữu
các
điứm
bán hàng, không cho phép họ bán
trực
tiếp
ô
tô cho
người
tiêu
2
"A
brief
history",
link:www.wdfi.org
4
dùng.
Chính
điều

này
đã
đưa các nhà sản
xuất
õ

nghĩ
đến một hệ
thống
phân
phối mới.
Vào
năm
1908,
General
Motor
đã
tìm
ra
một cách
thức
liên
kết
với
các nhà bán
lẻ
độc
quyền
bằng
hợp đồng độc

quyền.
Thương nhân
phải
tự
mình
mua
đất

xây
dựng

sở,
sau
đó
bán
ô


được
hưởng
khoản
chênh
lệch từ
nhà
sản xuất.
Trong
suốt
thời
kỳ
này,

NQTM
chắ
giới
hạn
trong
phạm
vi
phân
phối
sản phẩm. Còn hình
thức
nhượng
quyền
thương mại công
thức kinh
doanh
(business
íbrmat
íranchising)
thì phải sau thế chiến thứ
li
mới
bắt
đầu
xuất hiện. Tại
Pháp
trong
thời
gian này,
ông

Jean
Prouvost,
chủ hãng
le
Roubaix
đã
thiết
lập
một hệ
thống
cửa
hàng

trong
đó các nhà bán
lẻ
độc
lập
liên
kết với
hãng
len
bằng
một họp đồng cho phép họ độc
quyền
phân
phối
sản
phẩm
tại

một khu vực
nhất
định.
Sau chiến tranh thế
giới
lần thứ
li,
NQTM đã mở
rộng
sang
các ngành
khác đặc
biệt
là các ngành
dịch
vụ
nhất

lĩnh
vực bán
thức
ăn
nhanh
và bán
lẻ.
Bắt đầu

hình
kinh
doanh

NQTM
này vào
năm
1920, chuỗi
cửa hàng
Ben Franklin
được
biết
đến là thương
hiệu
đầu tiên
tiến
hành
NQTM
trong
lĩnh
vực
bán
lẻ.
Tiếp
đến là
những
thương
hiệu
khác
như A&w
Root
Beer
trong
lĩnh

vực
bán
thức
ăn
nhanh
hay
Howard
Jonhson
trong lĩnh
vực
nhà
hàng.

hình
NQTM
thật
sự
trở
thành một

hình
kinh
doanh
thành công
trong
những
năm
1950

1960

khi
các
chuỗi
cửa hàng
kinh
doanh
theo

hình
này như
Tastee-Freez®, KFC®,
McDonalcTs,
and
Burger
King® được
thành
lập.
Sở


hình
kinh
doanh
này có
thể
phát
triển
bùng nổ vào
những
năm 1950 là nhờ vào

hai yếu
tố:
sự phát
triển

gia
tăng
quảng
cáo
cũng
như
sự
mở
rộng
của
hệ
thống
đường
cao
tốc
quốc
gia.
Nhờ sự phát
triển
của
quảng
cáo đã giúp các công
ty
xây
dựng

cố
thể
xây
dựng

quảng

thương
hiệu
của
mình.

kết
quả là chính
những
thương
hiệu nổi tiếng
được
nhiều
người
biết
đến
lại
trở
thành công cụ
cạnh
tranh,
một
lợi
thế

tương
dối
cho các công
ty
sở hữu chúng. Còn
việc
mở
các con
đường
cao
tốc
lại
khiến
cho
việc
đi
lại
tới
những
nơi

trước đây
người
ta
cho là xa xôi được
dễ
dàng
thuận
tiện
5

hơn.
Cũng chính vì
thế

nhu cầu
quảng
cáo
chất
lượng
sản phẩm
cũng
như
thương
hiệu
của
các công
ty tới
người
dán

những
khu vực này
cũng
tăng lên.
Mặt
khác,
tại
Mỹ, quy

và tầm

quan
trọng
của
thụ
trường đã
buộc
các công
ty
lớn
sử
dụng
đến một hệ
thống
phân
phối
cho phép họ tăng
nhanh
thụ
phần
mà không
phải
đầu tư
nhiều.
Giải
pháp này
cũng
cho phép các cá nhân
ít
vốn
cũng


thể
mở
doanh
nghiệp
riêng của mình. Sự
kết
hợp
tuyệt
vời

lợi
ích
của hai
bên đã đưa đến một sự bùng nổ
hoạt
động của các
doanh
nghiệp dưới
hình
thức
NQTM
trong
những
năm
50-70.
Trong
những
năm
1970,

các hệ
thống
NQTM
tại
Mỹ
bắt
dầu
mở
rộng
phạm
vi hoạt
động
sang
các
quốc gia
phát
triển
khác.
Vào
những
năm
1980,
tại
các nước
chụu
ảnh
hưởng
nhiều
của
hệ thống

NQTM
của
Mỹ
bắt
đầu
xuất
hiện
các hệ
thống
cửa hàng
NQTM
sử
dụng
thương
hiệu
nội đụa.
Đến
những
năm
1990,
NQTM đã
phát
triển
trên
phạm
vi
quốc
tế
cả


các nước phát
triển
và đang phát
triển
và có mặt

hầu
hết
các ngành
nghề
như nhà hàng, khách
sạn,
giáo
dục
Không chỉ nở
rộ

nhiều
nước Châu
Âu
và Châu
Mỹ mà
nhượng
quyền
thương mại còn phát
triển
mạnh

khắp
các khu vực trên

thế
giới.
Ra
đời

phát
triển
hơn một
thế
kỷ,
nhượng
quyền
thương mại được xem

phương
thức
kinh
doanh

tỷ
lệ
thành
công cao (hơn
90%
3
)


hình này đã có mặt
tại tất

cả các châu
lục
trên
thế
giới
với
hàng
triệu
cơ sở
kinh
doanh
trên toàn
cầu.
Theo
tác
giả
John
Naisbitt
của
quyển
sách Megatrends cho
rằng "ữanchise

khái
niệm
marketing
thành
công
nhất
trong

mọi
thời
đại".
1.2. Khái niệm và đặc điểm của nhượng quyền thương mại
1.2.1. Khái niệm
Với sự
phát
triển
nhanh
chóng
của
hoạt
động
NQTM, các nhà
nghiên
cứu
đã đưa
ra
nhiều
đụnh
nghĩa
về
NQTM. Có
đụnh
nghĩa nhấn
mạnh
chi
tiết
nội
dung của

thỏa thuận
NQTM,
có đụnh
nghĩa nhấn
mạnh
quyền

nghĩa
vụ của
3
"Sự
bùng
nổ
nhượng
quyền
thương
hiệu",
link:
http://www.vừ.com.vn/Client/Dautu/dautu.asp?
6
các bên
chuyển
nhượng và
nhận chuyển
nhượng. Hoặc
cũng

những
định
nghĩa

rất
chung chungịp)
Từ
ữanchise

nguồn
gốc
từ
tiếng
Pháp là "íranc" có
nghĩa

free
(tự
do)
4
.
Franchise
là một phương
thức
nhân
rộng
thương
hiệu,
nhân
rộng
mô hình
kinh
doanh


xuất
xứ
từ
Châu Âu nhưng
lại
phất
triển
nhanh
nhất
tại
Mỹ.
Theo
định
nghĩa
cởa
từ
điển
Anh
Việt
cởa
Viện
ngôn ngữ học
Việt
Nam
thì íranchise có
nghĩa
là nhượng
quyền
kinh
doanh

hay cho phép
ai
đó chính
thức
được bán hàng hóa hay
dịch
vụ
cởa
một công
ty
ở một khu vực cụ
thể
nào
đó hay là
việc
cấp
quyền
kinh
doanh
cho
ai
đó. Còn
theo
định
nghĩa
cởa từ
điển Webster thì
ữanchise

(i)

một đặc ân
hoặc
đặc
quyền
được ban cấp cho
một người bởi
chính
phở,
nhà nước hay
bởi
một
người
cẩm
quyền
cao
nhất;
(li)
là sự cho phép
bởi
một nhà sản
xuất
trao
cho một
người
hay một nhóm
người
để phân
phối
hay bán
sản

phẩm
cởa
chở thương
hiệu.
Nói cách khác thì
íranchise là một phương
thức
tiếp
thị
và phân
phối
sản phẩm hay
dịch
vụ dựa
trên mối
quan
hệ
giữa hai đối
tác là chở thương
hiệu

người
được cấp
quyền
kinh
doanh
thương
hiệu
đó.
Hai bén

đối
tác này sẽ ký một hợp
đồng,
gọi

hợp
đồng íranchise.
Do đó
cũng
có định
nghĩa
cho
rằng
íranchise là một
loại
hợp đồng
thỏa
thuận giữa hai
bên,

thể
bằng
văn bản hay
lời
nói.
Ví dụ như
theo Hiệp hội
NQTM
thế
giới

(
The
International
Franchise
Association)
thì "nhượng
quyền
thương mại là mối
quan
hệ hợp đồng
giữa
bên
chuyển
nhượng và bên
nhận
chuyển
nhượng
theo
đó bên
chuyển
nhượng đề
xuất
hoặc
phải
duy
trì
sự
quan
tâm liên
tục

tói
doanh
nghiệp
cởa bên
nhận
trẽn
các khía
cạnh
như: bí
quyết
kinh
doanh,
đào
tạo
nhân viên còn bên
nhận chuyển
nhượng
hoạt
động
dưới
nhãn
hiệu
hàng hóa, phương
thức,
phương pháp
kinh
doanh
do bên
chuyển
nhượng

sở hữu
hoặc
kiểm
soát và bên
nhận chuyển
nhượng đang
hoặc
sẽ dầu
tư đáng kể
vốn
vào
doanh
nghiệp
bằng
các
nguồn
lực
cởa
mình".
4
"Franchise-bí
quyết
thành
cổng bằng
mô hình nhượng
quyền
kinh
doanh"
,
TS Lý Quý

Trung
- NXB
trẻ
7
Theo
Hiệp
hội
NQTM
Pháp
thì
NQTM
là một phương
thức
hợp tác
giữa
một
bên là một
doanh
nghiệp
(bên
chuyển
nhượng)

một bên khác là một
hay nhiều
doanh
nghiệp
(bên
nhận
chuyển

nhượng)
để
khai
thác
một
đối
tượng
của
NQTM do
người
chuyển
nhượng
triển
khai.
Đối tượng
chuyển
nhượng
gồm 3
yếu
tố:
quyền
sở hữu và
quyền
sử
dụng
các dấu
hiệu
tập
hợp
khách hàng

(biển hiệu,
nhãn
hiệu,
tên thương
mại,
logo ),
việc
sử
dụng
kinh
nghiêm hay bí
quyết
kinh
doanh,
một
tập
hợp các sịn phẩm
và/
hoặc
dịch
vụ
và/
hoặc
công
nghệ.
Trên

sở
đối
tượng

chuyển
nhượng này, bên
chuyển
nhượng là
người
xây
dựng
một hệ
thống
nhượng
quyền
kinh
doanh

anh
ta

trách
nhiệm
địm bịo
sự
tồn
tại
và phát
triển
lâu dài
của
nó.
Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại thuộc phạm vi
điều

chỉnh
của
Luật
các
nước,
do có sự khác
biệt
về
quan
điểm
cũng
như môi
trường
kinh
tế,
văn
hóa,
chính
trị

hội
nên mỗi nước
lại

những
định
nghĩa
khác
nhau
về

hoạt
động
này.
Sau đây là một số định
nghĩa
về
NQTM
của một
số
nước phát
triển
trên
thế
giới,
nơi

hoạt
động nhượng
quyền
diễn
ra rất
phát
triển.
Theo Uy ban thương mại Liên bang Hoa Kỳ (The us Federal Trade
Commission
-
FTC)
thì
một hợp đồng
NQTM


hợp đồng
theo
đó bén
chuyển
nhượng:
(i) hỗ trợ
đáng
kể cho bên
nhận
chuyển
nhượng
trong việc
điều hành
doanh
nghiệp
hoặc
kiểm
soát
chặt chẽ
phương pháp điều hành
doanh
nghiệp của
bên
nhận
(li) cấp quyền sử dụng nhãn hiệu cho bên nhận chuyển nhượng để phân phối
sịn
phẩm
hoặc
dịch

vụ
theo
nhãn
hiệu
hàng hóa
của
bên
chuyển
nhượng và
8
(iii)
yêu cầu bên
nhận chuyển
nhượng
thanh
toán cho bên
chuyển
nhượng
một khoản
phí
tối thiểu.
Cũng
theo
FTC,
"thuật
ngữ "nhượng
quyền
thương
mại"


bất
kỳ mối
quan
hệ thương mại liên
tục
nào được
tạo ra bởi
một
hoặc
nhiều
sự sịp xếp,
trong
đó:
(1) (i)(A).
Một
người
(gọi

người nhận quyền)
chào hàng, bán
hoặc
phân
phối
cho
bất
kỳ
ai
mà không
phải


người
nhượng
quyền những
hàng
hóa
và/ hoặc dịch
vụ mà hàng hóa
và/ hoặc dịch
vụ này:
(1)
Được xác định
bởi
một thương
hiệu,
dấu
hiệu
dịch vụ,
tên thương
mại, hoạt
động
quảng
cáo
hoặc bởi
biểu
tượng thương mại khác nhằm xác
định
nguôi nhượng
quyền;
hoặc
(2) Một cách

trực
tiếp
hoặc
gián
tiếp
được yêu cầu
hoặc
được chỉ bảo
phải
đáp ứng tiêu
chuẩn
chất
lượng do bên nhượng
quyển chuyển
lại,
theo
đó,
người
nhận quyền sẽ
hoạt
động
dưới
một tên có sử
dụng
thương
hiệu,
dấu
hiệu
thương
mại,

tên thương
mại, hoạt
động
quảng cáo, hoặc
các
biểu
tượng thương
mại
khác xác định
người
nhượng
quyền;

(B)(l)
Người
nhượng
quyền
nỗ lực
hoặc
sử
dụng
nguôi có
thẩm quyền
nỗ
lực
giám sát ở một mức độ
nhất
định phương
thức hoạt
động của nguôi

nhận
quyền,
bao gồm nhưng không
giới
hạn
tổ
chức
kinh
doanh,
các
hoạt
động xúc
tiến,
quản
lý,
kế
hoạch
marketing
hoặc
các mối
quan
hệ làm ăn của bên
nhận
quyền,
hoặc
a.
Người
nhượng
quyền
hỗ trợ dáng kể cho

người nhận quyền
trong
phương
thức
vận
hành sau
đó,
bao gồm nhưng không
giới
hạn
tổ
chức
kinh
doanh,
các
hoạt
động xúc
tiến,
quản
lý,
kế
hoạch
marketing
hoặc
các mối
quan
hệ làm ân
của
bên
nhận quyền.

Tuy nhiên,
ngoại trừ
trường hợp hỗ
trợ
trong
các
hoạt
9
động
xúc
tiến
thương
mại,
trong
tình
trạng
không có hỗ
trợ
về phương
thức
hoạt
động
tại
các khu vực
khác,
sẽ
không
được
xem


hỗ
trợ
đáng
kể;
hoặc
(ii)(A)
Người nhận quyền
chào hàng, bán
hoặc
phân
phối
cho bất kỳ ai
nhưng không
phải
là người
nhượng
quyền
những
hàng hóa và
/
hoặc dịch
vớ
mà hàng hóa
và/
hoặc dịch vớ
này:
(1)
Được
cung
cấp

bởi
người
nhượng
quyền,
hoặc
(2)
Được
cung cấp
bởi
người
thứ
ba
(ví
dớ
như nhà
cung
cấp),
người

bên nhượng
quyền
yêu cầu
trực
tiếp
hoặc
gián
tiếp
bên
nhận quyền
làm ăn

kinh
doanh
với;
hoặc
(3)
Được
cung cấp
bởi
bên
thứ
ba
(ví
dớ như nhà
cung
cấp),

người

quan
hệ
chi
nhánh
với
bên nhượng
quyền
và bên này
chỉ
bảo
trực
tiếp

hoặc
gián
tiếp
cho
người
nhận quyền
làm ăn
kinh
doanh
với;

(B) Người nhượng quyền:
(1)
Tim các
điểm
bán
lẻ
cho
người
nhận quyền

chịu
trách
nhiệm
đối với
các
hàng hóa

/
dịch

vớ kể
trên;
hoặc
(2)
Tim
kiếm
địa
điểm
cho
người nhận quyền
để bán
những
máy móc,
trưng bày ngăn
giá,
hay
bất
kỳ
việc
trưng
bày,
bán hàng hóa nào mà
người
nhận quyền sử
dớng
để chào
hàng,
bán
hoặc
phân

phối
các hàng hóa

/
hoặc
dịch vớ kể
trên;
hoặc
(3) Cung cấp cho nguôi nhận quyền các dịch vớ của một người có khả
năng tìm
kiếm
các
điểm
bán
lẻ,
tài
khoản hoặc
địa
điểm
như đã
ghi
trong
điểm
(l)(ii)(B)(l)
trên,

(2) Người nhận quyền bị yêu cầu như là một điều kiện để nhận được hoặc
khởi
đầu
hoạt

động
kinh
doanh
nhượng
quyền,
thanh
toán
hoặc
cam
kết thanh
10
toán một
khoản
tiền
cho
người
nhượng
quyền, hoặc
cho một bên
thứ
ba có
quan
hệ
chi
nhánh
với
người
nhượng
quyền
(3)

Sự
miễn
trừ.
Các
điều khoản
của
phẩn
này sẽ không áp
dụng
cho hình
thức
nhượng
quyền
thương
mại:
(iii)

hình
thức

tổng
sỳ
tiền
quy định
tại
khoản
(2)
cùa
điều
này được

thanh
toán
trong
khoảng
thời
gian từ bất
kỳ lúc nào trước đó
miễn
trong
vòng
6 tháng kể
từ khi
triển
khai
hoạt
động
kinh
doanh
nhượng
quyền,
không
ít
hơn
500$; hoặc
(iv)
là hình
thức
mà không có vãn bản nào làm
bằng chứng
cho

bất
kỳ
điều
khoản
hoặc
các khía
cạnh của
mỳi
quan
hệ
hoặc
sự
sắp xếp.
(4) Các trường hợp
loại
trừ.
Thuật
ngữ "nhượng
quyền
thương mại" sẽ
không được xem là bao gồm
bất
kỳ mỳi
quan
hệ thương mại liên
tục
nào nếu
chỉ
được
tạo bởi:

(i)
Mỳi
quan
hệ
giữa
người
chủ và
người
làm
thuê,
hoặc
giữa
các
đỳi
tác
làm ăn nói
chung;
hoặc
(li) Mỳi
quan
hệ thành viên
trong
một tổ
chức
hợp tác xã
ngay
tình;
hoặc
(iii) Một hợp đổng sử
dụng

thương
hiệu,
dấu
hiệu
thương mại, tên thương
mại,
con
dấu,
hoạt
động
quảng cáo, hoặc
các
biểu
tượng thương mại khác để
xác định một
người,
người
về cơ bản chào hàng để
lấy
phí
hoặc điều
khác,
một dịch
vụ
ngay
tình để định
giá,
kiểm
tra,
hoặc

giám sát hàng hóa và
/
hoặc
dịch
vụ;
hoặc
(iv) Một hợp đồng giữa một người cấp phép và một cá nhân riêng lẻ nhận
giấy
phép để cấp phép cho một thương
hiệu
dấu
hiệu
thương
mại,
tên thương
li
mại,
hoạt
động
quảng
cáo,
hoặc
các
biểu
tượng thương mại khác
trong
đó,
hoạt
động cấp phép như trên chỉ là một
trong

số
hoạt
động
tự
nhiên
chung
được
cấp phép
bởi
người
cấp phép cho thương
hiệu,
dấu
hiệu
thương
mại,
tên
thương
mại,
hoạt
dộng quảng cáo, hoặc
các
biểu
tượng thương mại khác."
5
Như vậy nếu như định
nghĩa
của IFA
(hiệp hội
NQTM

thế
giữi)
nhấn
mạnh
tữi
nghĩa vụ,
vai
trò của bén
nhận quyền
trong việc
đầu tư vốn và
điều
hành
doanh
nghiệp
thì định
nghĩa
của
FTC
lại
chỉ ra cụ
thể
các trường hợp
mối
quan
hệ
giữa
bên
nhận quyền
và bên nhượng

quyền,
chỉ
ra
quyền

nghĩa
vụ
một cách cụ
thể giữa hai
bên.
Đặc
biệt
định
nghĩa
về
NQTM
còn
chỉ ra
sự
khác
biệt
giữa
hoạt
động
NQTM
vữi
một số các hình
thức
khác như cấp phép,
hình

thức
thuê
mượn,

chỉ ra
bên
nhận quyền
phải trả
tối
thiểu
một
khoản
tiền

500$.

thể
nói định
nghĩa
này khá toàn
diện

lột
tả
gần như đầy
đủ
các đặc
điểm
và trường hợp
của

nhượng
quyền
thương
mại.
Trong khi đó định nghĩa về nhượng quyền thương mại của cộng đồng
chung
Châu
Âu
lại
nhấn
mạnh
tữi
quyền của
bên
nhận quyền
khi
sử
dụng
một
tập
hợp
quyền
sở hữu
trí
tuệ
mà ở
đây
quyền
thương mại là
"tập

hợp
những
quyền
sở hữu công
nghiệp
và sở hữu
trí
tuệ
liên
quan
tữi
nhãn
hiệu
hàng hóa,
tên thương
mại,
biểu hiện
của cửa hàng,
giải
pháp hữu ích,
kiểu
dáng, bản
quyền
tác
giả,

quyết
hoặc
sáng
chế sẽ

được
khai
thác để bán
sản
phẩm
hoặc
cung
cấp dịch
vụ
tữi
người sử dụng
cuối
cùng".
Theo đó nhượng
quyền
thương
mại

việc
nhượng các
quyền
thương mại nói
trên.

ràng định
nghĩa
này
ghi
nhận
vai

trò của thương
hiệu,
của hệ
thống,

quyết
kinh
doanh
của bên
nhượng
quyền
nhưng
lại
không
đề
cập đến
những
đặc
điểm
khác,
quyền

nghĩa
vụ của các bên
hoặc
phân
biệt
vữi
các hình
thức

thương mại khác
cũng
sử
dụng
tập
hợp các yếu
tố
về sở hữu
trí
tuệ
là hàng
hóa, dịch
vụ để
trao
đổi
mua
bán.
5
"Một
số
giải
pháp
nhằm
nâng
cao
hiệu
quả
hoạt
động nhượng quyền thương
mại

của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam"
12
Nhượng
quyền
thương mại ra
đời
và phát
triển
mạnh
ở các nước phát
triển
hơn một
thế
kỷ qua nhưng phương
thức
kinh
doanh
này mới thâm
nhập
vào
thị
trưởng
Việt
Nam
trong

vòng hơn 15 năm
trở
lại
đây. Tuy nhiên định
nghĩa
về nhượng
quyền
thương mại mới chỉ được dưa
ra
trong
Luật
Thương
mại

hiệu
lực từ
ngày
01/01/2006.
Cụ
thể
tại
mục 8
Luật
Thương mại 2005
quy
định như
sau:
nhượng
quyền
thương mại

là hoạt
động thương
mại, theo
đó
bên nhượng
quyền
cho phép và yêu cẩu bên
nhận
quyền
tự
mình
tiến
hành
việc
mua bán hàng
hóa,
cung
ứng
dịch
vụ
theo
các điểu
kiện
sau
đây:
1.
Việc
mua bán hàng hóa,
cung
ứng

dịch
vụ được
tiến
hành
theo
cách
thức
tổ
chức
kinh
doanh
do bên nhượng
quyền
quy định và được gắn
với
nhãn
hiệu
hàng hóa, tên thương
mại,

quyết
kinh
doanh,
khẩu
hiệu kinh
doanh,
biểu
tượng
kinh
doanh,

quảng
cáo
của
bên nhượng
quyển;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyển
trong
việc
điều hành công
việc kinh
doanh.
Ngoài ra còn có rất nhiều quan điểm khác nữa về nhượng quyền thương
mại với
những
tên
gọi
khác
nhau
như nhượng
quyền
kinh
doanh,
nhượng
quyền
sử
dụng
thương
hiệu
hay đặc
quyển

kinh
tiêu
cũng
đã ít
nhiều thể
hiện
được tính
chất
và đặc
điểm
của hoạt
động này:
Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu trường Đại học Ngoại
Thương Hà
Nội,
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
thương
hiệu
thì
"chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
thương
hiệu

là một
hoạt
động thương mại
trong
đó,
Bên
chuyển
nhượng cho phép Bên
nhận
chuyển
nhượng
quyển
độc
lập
phân
phối
hàng hóa
hoặc
dịch
vụ cùng
với
quyền
được sử
dụng
một
tập
hợp các dấu
hiệu
liên
kết

khách hàng gắn
liền
với
hệ
thống
kinh
doanh
như bí
quyết
kinh
doanh,
nhãn
hiệu
hàng hóa và
dịch
vị
trong
một
khoảng
thòi
gian
và phạm
vi
địa

nhất
định,
theo
phương
thức

và hệ
thống
kinh
doanh
được bên
chuyển
13
nhượng
xây
dựng

với
sự
trợ
giúp đáng
kể,
thường xuyên của bên
chuyển
nhượng".
6
Hay
theo
giáo

Andrevv
Terry,
"NQTM là một hệ
thống
huy
động được

sự
sáng
tạo,
năng động và ngày càng
trở
thành một phương
thức
kinh
doanh
phổ
biến
đối với
các
doanh
nghiệp
đang
tổn
tại
và mới hình
thành.
Trong
hệ
thống
NQTM,
bên nhượng
quyền
phải
phát
triển
được

những
khái
niệm
kinh
doanh
đã thành công
và đã
được công
nhận

xây
dựng
xung
quanh
những
người
nhận
quyền
hệ
thống
đã được
thọa
nhận,
những
li-xăng
để
người
nhận
quyền
sử

dụng
khái
niệm
và hệ
thống
của
họ
theo
một phương
thức
được
kiểm
soát
tại
một địa
điểm
xác định và vào một
thời
điểm
nhất
định
tại
cơ sỏ
kinh
doanh
của
người
nhận
quyền
hoặc

tại
những

sở
khác"
7
Tọ những khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩa vé nhượng
quyền
thương mại như
sau:
NQTM
là hình
thức
kinh
doanh
trong
đó
việc
sử
dụng
chung
thương
hiệu,

sự
kiểm
soát
và hỗ
trợ
đáng

kể
tọ phía
người
nhượng
quyền,

sự độc
lập
về mặt tài chính

pháp

giữa
bên nhượng
quyền
và bên
nhận
quyền
trong
hệ
thống,
có sự
trả
phí của
người
nhận
quyền
cho
người
nhượng

quyền.
1.2.2. Đặc điểm của hình thức nhượng quyền thương mại
Theo định nghĩa được rút ra ở bên trên, chúng ta có thể thấy nhượng
quyền
thương mại có các đặc
điểm
như
sau:
Thứ
nhất, nhượng
quyền
thương
mại là một
hoạt
động thương
mại
trong
đó

việc
sử
dụng
chung
thương
hiệu.
Hàng
hóa
trong
hợp đồng nhượng
quyền

thương mại
đó
chính

việc
sử
dụng
thương
hiệu
của
Bên
nhượng
6
Khoa Quản
trị
Kinh
doanh,
trường
Đại học
Ngoại
thương,
đề tài NCKH cấp bộ năm
2005,
Một số
giãi pháp
phát triển hình thức kinh doanh chuyển nhượng quyển

dụng thương hiệu (ỷranchising)
lại
Việt

Nam
trang
16
7
Kỷ
yếu hội thảo
quốc
tế về chế
định
NQTM
ương dự thào
Luật
thương mại
(sửa
đổi),
Bộ Thương Mại
tổ
chức
tháng 12/2005
14
quyền.
Để
trả
cho
việc
Bên nhượng
quyền
đã cấp cho mình
quyền
kinh

doanh
hàng hóa
hoặc dịch
vụ
của
bên nhượng
quyền thì
Bên
nhận quyền
phải trả
cho
bẽn
nhượng
quyền
một
khoản phí,
gọi
là phí
chuyển
nhượng
quyển
sử
dụng
thương
hiệu.
Cũng cần
lưu ý
rằng
trong
phương

thức kinh
doanh
này thì
NQTM
chữ liên
quan
đến
việc
chuyển
giao
quyền
sử
dụng
thương
hiệu
chứ
không có sự
chuyển
giao
quyền
sở hữu thương
hiệu.
Điều
đó
cũng

nghĩa

người
chủ sở hữu

vẫn

quyền
tiếp
tục khai
thác và phát
triển
thương
hiệu
của
mình

trên
thực
tế
vẫn

chủ sở hữu
đối với
thương
hiệu
đó.
Còn
việc
chuyển
giao
quyền
sở hữu thương
hiệu


việc
mua
đứt
bán
đoạn
thương
hiệu
cho
một
đối
tác khác.
Người
chủ ban đầu của thương
hiệu
đó
sẽ mất toàn
quyền
đối với
thương
hiệu
của mình.
Trong
hình
thức kinh
doanh
này thì
thương
hiệu
đóng
vai

trò là một
yếu
tố hết
sức quan
trọng.
Trên
thực tế
thường
thì
người
ta
chữ
tiến
hành nhượng
quyển
sử
dụng
thương
hiệu
đối
với
những
thương
hiệu
có tên
tuổi
nổi tiếng
gắn
với


là một công
thức kinh
doanh
đã
thành công và được
thừa
nhận
chứ
ít khi
những
thương
hiệu
chưa có uy tín
lại
được
nhượng
quyền
sử
dụng.
Chính vì
thế
đã

người
cho
rằng
thương
hiệu
chính
là phần

hồn
trong nội
dung chuyển
nhượng
quyền
thương
mại.
Thứ hai,
trong
quá
trình
tiến
hành phương
thức kinh
doanh
này Bên
nhượng
quyền
có sự giám sát và hỗ
trợ
đáng kể về
nhiều
phương
diện
cho Bên
nhận
quyền.

thể
nói

NQTM
là một
quan
hệ
kinh
doanh
toàn
diện
bao
gồm
không
chữ sản
phẩm
và/ hoặc dịch
vụ,
nhãn
hiệu
hàng
hóa,
khu vực
địa

kinh
doanh

còn toàn bộ hệ
thống
và mô
hình
kinh

doanh
như quy trình
hoạt
động,
công
nghệ,

quyết
kỹ
thuật,
tài
liệu
hướng
dẫn,
đào
tạo
nhân viên,
giám sát
tổ chức, quản

chất
lượng,
hỗ
trợ
ban đầu và
trong
quá trình
hoạt
động
Một

trong
những
rủi
ro của
việc kinh
doanh
nhượng
quyền
thương
mại
đó chính là làm phá vỡ hệ
thống
kinh
doanh
nếu như
chữ
có một mắt xích
trong
hệ
thống
dó làm ăn không có
hiệu
quả gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của
thương
hiệu.
Do đó
"tính đồng bộ của một thương
hiệu
là một
trong

những
15
chìa khóa thành công
khi
xây
dựng
mô hình
kinh
doanh
nhượng
quyền"
8
.
Do
dó,
để tránh và
đối
phó
với
hậu quả
này, người
nhượng
quyền
phải
giám sát
chặt
chẽ
tới
hoạt
động

của
bên
nhận
quyền.
Theo
quyển
sách /ranchising
and
licensing-two
powerful ways
to
grow your
business
in any economy
thì
mức
độ
kiểm
soát và hỗ
trợ
của bên nhượng
quyền
phải
là đáng
kể. Thuật
ngữ
"đáng
kể"
ở đây
chị

mức độ mà bên
nhận quyền
phụ
thuộc
vào các chuyên
gia
kinh
doanh
của bên nhượng
quyền.
Sự phụ
thuộc
này
thể
hiện
thông qua sự
giám sát của nhà nhượng
quyền đối
với
cách
thức
hoạt
động của nhà
nhận
quyền
hoặc
thông qua sự hỗ
trợ đối với
các nhà
nhận quyền

tại
các khu vực
liên
quan.
Thứ ba,
trong
hệ
thống
nhượng
quyền
thương mại
giữa
người chuyển
nhượng

người nhận chuyển
nhượng có sự độc
lập
về tài chính và địa vị
pháp
lý.
Đây

đặc
điểm
đặc thù
của
hệ
thống
kinh

doanh
này nhằm phân
biệt
hình
thức
kinh
doanh
này
với
các
loại
hình gần
giống
khác như
đại
lý,
chi
nhánh thương
mại.
Tuy
rằng
trong
hệ
thống
này,
người
nhượng
quyền

quyền


nghĩa
vụ
kiểm
soát và hỗ
trợ
một cách đáng kể cho bên
nhận quyền
và có
nhiều
ràng
buộc
với
nhau
hơn hình
thức
kinh
doanh
thương mại thông
thường
như
việc
mua
đứt
bán
đoạn
một hàng
hóa, dịch
vụ nào đó nhưng
theo

pháp
luật
của các nước
thì
bên
nhận quyền
lại
là các cá nhân độc
lập
hoặc
các
pháp nhân độc
lập
về mặt
tổ chức lẫn
tài chính, không phụ
thuộc
vào bên
nhượng
quyền.
Trên
thế giới
chủ thương
hiệu
tức
người
nhượng
quyền
thường
đóng vài trò cầu

nối
giúp
người
mua íranchise mượn
tiền
ngân hàng
hoặc
chính mình đứng
ra
cho
vay
nhằm phát
triển
và nhân
rộng
mô hình
kinh
doanh
nhanh
hơn hay như
trong
thời
gian
trước
khai
trương, đối tác mua
quyền
thương mại thường được hỗ
trợ
về dào

tạo, thiết
kế, chọn
địa
điểm,
nguồn
hàng,
quảng
cáo, Những
điều
này không có
nghĩa
là bên
nhận quyền
bị phụ
thuộc

bị
bên nhượng
quyền
áp
đặt
hoàn toàn
theo
ý
của
bén nhượng
quyền.
8
"Franchise bí quyết thành cồng bằng mô hình nhượng quyền kinh doanh" - TS.Lý Quý Trung - NXB Trẻ
16

Tất
cả
quyền cũng
như
nghĩa
vụ của
hai
bên đều
phải
được cụ
thể
hóa
trong
hợp
đồng nhượng
quyền

chủ
thể
của hợp đồng là
những
người,

nhân
độc
lập.
Thứ
tư,

sự

trả
phí của
người nhận quyền
cho
người
nhượng
quyền.
NQTM
xét cho cùng
cũng
giống
như
hoạt
động
dịch
vụ
thuê-mượn.
Người
nhượng
quyền
cho
người nhận quyền
thuê sử
dụng
thương
hiọu
của mình
đổi
lại
anh

ta
tất
nhiên
phải
nhận
được một
khoản
phí
từ người nhận quyền.
Phí
này

thể

trọn
gói nhưng
cũng

thể
trả
làm
nhiều
lần
gồm
phí
chuyển
nhượng ban đầu

phí định kỳ. Thông thường trên
thực

tế
thì
người nhận
quyền
phải trả
cho
người
nhượng
quyền
một
khoản
gồm
nhiều lần.
Lần thứ
nhất

phí
chuyển
nhượng ban
đẩu.

thể hiểu
đây là
khoản
phí

bén
nhận
chuyển
nhượng

phải
trả
để
tham
gia hoạt
động
trong
họ
thống
chuyển
nhượng.
Những yếu
tố

bên
nhận chuyển
nhượng được hưởng từ phía bèn
chuyển
nhượng
đổi lấy khoản
phí này thường gồm:
quyền
sử
dụng
thương
hiọu,
các
dịch
vụ hỗ
trợ

như đào
tạo,
trang trí,
tìm
kiếm
nguồn tài
trợ,
tài
liọu
hướng dẫn
hoạt
động
Còn
khoản
phí định kỳ thường được bên
nhận chuyến
nhượng
trả
cho
bên
chuyển
nhượng
theo
%
doanh thu
hàng tháng của bên
nhận chuyển
nhượng.
Chính
những khoản

phí này là một
trong
những
nhân
tố
để chúng
ta

thể
phân
biọt
NQTM
với
một số hình
thức kinh
doanh
tương tự như
chi
nhánh, nhà phân
phối
hay
đại
lý thương mại Phẩn này sẽ được đề cập
chi
tiết
trong
phần sau.
1.3.
Phân
loại

Nhượng
quyền
thương
mại
xuất hiọn
trên
thế
giới
đã khá lâu. Tuy
nhiên

Viọt
Nam
loại
hình
kinh
doanh
này vẫn còn khá mới
mẻ
đối
với
các
doanh
nghiọp

các

nhân
trong
nước


xuất hiọn
dưới
nhiều
hình
thức
khác
nhau.
Căn cứ vào
lĩnh
vực
kinh
doanh
chúng
ta

thể
phân
chia
NQTM
thành
4
hình
thức:
r—-
~>
17
Nhượng quyền kinh doanh sản
xuất:
Đây là hình

thức
NQTM

theo
đó bén
nhận quyền
sẽ sản
xuất
và bán sản phẩm
dưới
nhãn
hiệu
của bên
chuyển
nhượng.
Bên
chuyển
nhượng sẽ
chuyển
giao
cho bên
nhận quyền

quyết kinh
doanh
thường là các công
thức
sản
xuất,
quyền

sản
xuất, kinh
doanh sản
phẩm và mô hình
sản
xuất
Đặc
điểm
của
hình
thức
nhượng
quyền
này là:
(i)
hoạt
động này liên
kết
nơi sản
xuất
với
nơi tiêu
thụ:
bên
chuyển
nhượng
có xu hướng mở
rộng
các đơn
vữ

sản
xuất
tại
các đữa
điểm

chi
phí
thâm
nhập

chi
phí
vận chuyển
đến nơi đó quá
cao.
Thông thường hình
thức
này liên
quan
đến
hoạt
động thương mại
quốc
tế.
(li)
việc
sản
xuất
đi đôi

với
việc
tiêu
thụ
sản phẩm sản
xuất ra:
việc
chuyển
nhượng sẽ không
diễn
ra
nếu bên
chuyển
nhượng không
chuyển
giao
cho
bên
nhận chuyển
nhượng
những
yếu tố
tập
hợp khách hàng. Bẽn
nhận
chuyển
nhượng đổng
thời
là doanh
nghiệp

sản
xuất
đổng
thời

người
bán sản
phẩm mình sản
xuất
ra.

vậy,
yêu cẩu
đặt ra
là bên
chuyến
nhượng cần đầu
tư thích đáng về mặt
trí
lực
cho hệ
thống
kinh
doanh
của mình
cũng
như
việc
đầu
tư vào

tài
chính,
kỹ
thuật

rất
quan
trọng
vì họ vừa
thực hiện
chức
năng
sản
xuất
đổng
thời
với
đó

phải
tiêu
thụ
được
sản
phẩm mình
sản
xuất ra.
Nhượng quyên phán phôi sản phẩm:
Trong
loại

hình
NQTM
này Bên
nhận quyền
sẽ được bán hàng hóa của Bên nhượng
quyền
dưới
thương
hiệu
của người
nhượng
quyền.
Ở đây
sản
phẩm có
thể
là do bên nhượng
quyền
sản
xuất
ra
nhưng
cũng

thể
không
phải
do anh
ta
sản

xuất
ra
mà là bên nhượng
quyền
mua
hoặc
yêu cầu sản
xuất
một
tập
hợp sản phẩm do anh
ta
lựa
chọn.
Đây là hình
thức
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
thương
hiệu
nhằm mục đích
phân
phối
một sản phẩm hay một
tập
hợp các sản phẩm. Nó
tạo

nên một cơ
cấu
trực
tuyến
cho phép đưa
sản
phẩm
từ
khâu
sản
xuất
đến khâu tiêu
thụ cuối
cùng.
Mối
quan
hệ
giữa
nhà nhượng
quyền
và nhà
nhận quyền chỉ là
mối
quan
hệ
nhà
cung
cấp và
người
bán.

Trong
hình
thức
nhượng
quyền
này thì sự hỗ
18
trợ
của
bên nhượng
quyền
dành cho bên
nhận quyền
sẽ
ít
hem so vói các hình
thức
nhượng
quyền
có sử
dụng
công
thức
kinh
doanh
của
người
nhượng
quyền.
Nhượng

quyền
phân
phối
sản
phẩm có
thể
có các hình
thức
khác
nhau
tùy vào
vị trí của
bên
chuyển
nhượng
trong
kênh phân
phối.
Trường
hợp bên
chuyển
nhượng là nhà sản
xuất:
lúc này bên
chuyển
nhượng
sẽ là
người
trực
tiếp

sản
xuất
ra
sản phẩm và
người nhận quyền
sẽ
đóng
vai
trò là các nhà bán
lẻ
để phân
phối
hàng hóa của
người
sản
xuất
tới
người
tiêu dùng
dưới
thương
hiầu
của bên nhượng
quyền,
trong
một lãnh
thổ
địa

nhất

định.
Ví dụ như hầ
thống
Kinh
Đô
Bakery cũng
được xem là một
kênh phân
phối
sản
phẩm
của
công
ty
cổ
phần
Kinh
Đô Sài Gòn
Trường
hợp bên
chuyển
nhượng không
phải
là nhà sản
xuất
trực
tiếp

đóng
vai

trò là một
người tổ chức
phân
phối.
Vai
trò của anh
ta
lúc này như
một
trung
tâm mua hàng nhằm mục đích
tạo
ra sự đồng
nhất
trong
bộ sản
phẩm
cung
cấp và đàm phán các hợp đồng
lớn
để
giảm
chi
phí cho hầ
thống.
Anh
ta
không có
chức
năng sản

xuất
mà có
chức
năng thương mại
-
đưa một
sản
phẩm vào kênh phân
phối gọi

người
tổ
chức
phân
phối.
Đặc
điểm
chính
của
hình
thức
chuyển
nhượng này là
viầc
tạo ra
một
tập
hợp sản phẩm để cho
bên
nhận chuyển

nhượng phân
phối.
Một
trong
những
ví dụ
điển
hình về
loại
hình nhượng
quyền
này đó chính là hầ
thống
các siêu
thị hoặc
các cửa hàng
NQTM
của tập
đoàn bán
lẻ
như
Big c, Metro
hay
Wall
mart
Bên
nhận chuyển
nhượng
Bên
chuyển

nhượng
- Được phép sử
dụng
tên nhãn
hiầu,
thương
hiầu, biểu
tượng,
khẩu
hiầu,
và phân
phối
sản phẩm,
dịch
vụ của
chủ
thương
hiầu trong
một phạm
vi
khu vực

thời
gian
nhất
định.
- Tương
tự
với kinh
doanh

cấp phép
(licensing)
- Quan tâm
nhiều
đến
viầc
phân
phối
sản
phẩm của mình hơn là
viầc
hoạt
dộng
hàng ngày hay tiêu
chuẩn
hình
19
- Quản lý và
diều
hành công
việc
kinh
doanh
của mình khá dộc
lập,
ít
bị
ràng
buộc
nhiều

bởi những
quy
định
từ
phía
chủ
thương
hiệu
- Có
thể
chế
biến
cung
cách
phục
vụ

kinh
doanh
theo
ý mình
thức
của cửa
hàng nhượng
quyền.
- Mối
quan
hệ
giữa
hai

bèn là mối
quan
hệ nhà
cung
cấp và nhà phân
phối
Phớ
biến
cho
loại
hình này

các
trạm
xăng
dầu,
các
đại
lý ô
tô,
các cóng
ty
nước
giải
khát như
Coca-Cola
hay
Pepsi.
Một ví dụ
điển

hình khác đó là
thương
hiệu
cà phê
Gloria
Jean's
của Mỹ đã thâm
nhập
vào
thị
trường úc
bằng
con đường nhượng
quyền
phân
phối
sản
phẩm. "Doanh nhân
Peter
Irvine
sau khi
mua nhượng
quyền
sử
dụng
thương
hiệu
độc
quyền
vào năm 1996 đã

quyết
định
cải
tiến
và bớ
sung
mô hình
kinh
doanh
nguyên
thủy
của thương
hiệu
này là
thay

chỉ
thuần
túy bán cà phê
bột
được
cung
cấp
bởi
chủ thương
hiệu,
các quán cà phê
mang
thương
hiệu Gloria

Jean's
tại
úc
lại
chú
trọng
phục
vụ khác
uống
cà phê
tại
chỗ.
Mô hình này sau đó đã được
tiếp
tục
nhân
rộng
khắp
nước úc thông qua hình
thức
bán nhượng
quyền
thương mại và
thành công đến
nỗi
các cửa
hiệu
cà phê
Gloria
Jean's

tại
Mỹ
cũng
đã
phải
chuyển
đới
mô hình gốc
của
mình
theo
phiên bản
của
úc"
9
.
Nhượng quyền cung cấp dịch vụ: là hình thức chuyển nhượng bí quyết
cung
cấp
dịch
vụ - hay bí
quyết
kinh
doanh
hoàn
chỉnh
cho phép bên
nhận
quyền


thể
cung
cấp cho khác hàng
dịch
vụ đặc thù
của
hệ
thống.
Mục đích
của
hệ
thống
chuyển
nhượng này là
cung
cấp
dịch
vụ
tới
khách hàng của hệ
thống.
Các
lĩnh
vực
của
hình
thức
chuyển
nhượng này là
rất

đa
dạng:
các cơ sở
sửa
chữa
xe máy, ô tô hay
NQTM
trong lĩnh
vực nhà hàng, khách
sạn,
giáo
dục,
thẩm
mỹ,
9
Franchise

quyết
thành công
bằng
mó hình nhượng
quyền
kinh
doanh
-TS. Lý Quí
Trung
- NXB
trẻ
20
Nhượng quyền

sử
dụng công thức kinh doanh: (hình
thức
này
được
trình bày
chủ yếu
trong
đề tài)
Đối
với
loại
hình này thì hợp đồng hợp đổng nhượng
quyền
bao
gồm
thêm
việc
chuyển
giao
kỹ
thuật kinh
doanh
và công
thức
điều
hành
quản
lý.
Các

chuẩn
mực
của

hình
kinh
doanh
phải
tuyệt
đối
được
giữ
đúng. Mối
liên hệ và hợp tác
giữa
bên bán và bên
mua
íranchise
phải
rọt
chặt
chẽ và liên
tục
mặc dù họ có sự độc
lập
về mặt pháp lý và
tài
chính.
Bên nhượng
quyền

sẽ
cung
cọp các khóa đào
tạo,
cẩm
nang
hoạt
động và
hướng
dẫn
marketing
cho
người
nhận quyền.
Như vậy
đối với
loại
hình nhượng
quyền
khá
phức tạp
này bên
nhận
quyền
sẽ áp
dụng
toàn bộ công
thức
kinh
doanh,

cách
thức
vận hành của bên
nhượng
quyền
chứ không
chỉ dừng
lại

việc
sử
dụng
nhãn
hiệu
hàng hóa

thực
tế

áp
dụng
toàn bộ hệ
thống
một cách
phức tạp

tổng thể.
Đây là
hình
thức

nhượng
quyền
phổ
biến

hiệu
quả
nhọt
hiện
nay.

thể
kế
ra
đây
rọt
nhiều
ví dụ về các trường hợp
NQTM
công
thức
kinh
doanh
như nhà hàng
phục
vụ đồ ăn
nhanh McDonald's,
KFC, nhà
nghỉ
Marriot

1.4.
Phân
biệt
NQTM với một số
hình
thức
kinh
doanh
tương
tự
NQTM có một số đặc
điểm
gần
tương
tự như một số
hình
thức
kinh
doanh
khác,
dễ gây nhẩm
lẫn
cho mọi
người.
Vì vậy để phân
biệt
NQTM
với
các hình
thức

kinh
doanh
khác
ta

thể
căn cứ vào
4
tiêu
chí:
sử
dụng chung
thương
hiệu,
sự
giám sát,
hỗ
trợ

chuyển
giao

hình công
thức
kinh
doanh,
khoản
phí
phải
trả,

sự độc
lập
về tài chính

địa vị pháp
lý.
Những
hình
thức
kinh
doanh
tương
tự
dễ gây nhầm
lẫn
cho mọi
người

đây là
chi
nhánh,
đại

thương
mại,
nhà phân
phối,
hoạt
dộng
cọp phép. Thường

thì
người
ta
nhầm
lẫn giữa
NQTM
với
các hình
thức
này vì đôi
khi
các hình
thức
này có
việc
sử
dụng chung
thương
hiệu,
khẩu
hiểu,
nhãn
hiệu
và đôi
khi
cách
bài
trí
của
các

cửa
hàng
cũng
giống
nhau.
21

×