Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Nghiên cứu chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.04 KB, 18 trang )

1
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
BÁO CÁO TÓM TẮT
ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH,
THÚC ĐẨY NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KỸ THUẬT
TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Bảo Dương
Hà Nội, 2009
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
I. MỞ ĐẦU 3
II. KHUNG PHÂN TÍCH 4
III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NGHIÊN CỨU, CHUYỂN GIAO VÀ ỨNG DỤNG TBKT TRONG
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP 4
IV. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGHIÊN CỨU VÀ CHUYỂN GIAO TBKT TRONG SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP 5
V. THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU, CHUYỂN GIAO TBKT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
6
VI. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH, THÚC ĐẨY NGHIÊN CỨU, CHUYỂN GIAO
TBKT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 8
VII. MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 12
VIII. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH, THÚC ĐẨY NGHIÊN CỨU, CHUYỂN
GIAO VÀ ỨNG DỤNG TBKT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 13
IX. CÁC ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH, THÚC ĐẨY NGHIÊN CỨU, CHUYỂN GIAO VÀ ỨNG
DỤNG TBKT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỚI 13
X. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 16
Kết luận 16
Khuyến nghị 17
2


I. MỞ ĐẦU
Nông nghiệp Việt Nam luôn là ngành sản xuất có vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân cũng như đối với sự phát triển của đất nước. Trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt và để đảm bảo yêu cầu phát
triển bền vững thì yêu cầu của việc tăng trưởng theo chiều sâu, chú trọng đến chất lượng
của tăng trưởng được đặt ra ngày càng bức thiết. Khoa học kỹ thuật và công nghệ
(KHKT&CN) là nhân tố hàng đầu đảm bảo cho sự tăng trưởng này, chính vì vậy, đã được
Đảng và Chính phủ xác định là giải pháp then chốt đối với sự phát triển nông nghiệp nước
ta trong thời gian tới.
Hiện nay hiệu quả và động lực làm việc của cán bộ làm công tác nghiên cứu,
chuyển giao và việc ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp của người dân vẫn còn
hạn chế. Trong thời gian qua, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (TBKT)
trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, hệ thống chính sách khuyến
khích thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao TBKT vào sản xuất, nhất là trong lĩnh vực nông
nghiệp vẫn còn những điểm chưa phù hợp cần điều chỉnh, bổ xung. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp” là cấp thiết, có ý nghĩa lớn về lý luận và thực
tiễn. Đề tài hướng tới mục tiêu đề xuất hệ thống chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên
cứu và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp, tập trung vào 3 khía cạnh chính: (1)
Làm rõ cơ sở khoa học của chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng
TBKT trong sản xuất nông nghiệp; (2) Đánh giá đúng thực trạng chính sách khuyến khích,
thúc đẩy ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua; (3) Đề xuất giải pháp
hoàn thiện chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng TBKT trong sản
xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã tiến hành rà soát và
làm rõ một số khái niệm, tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế liên quan đến vấn đề nghiên cứu để
rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, tổng quan các chính sách liên quan đang được

triển khai thực hiện. Trong phạm vi giới hạn của Đề tài, Nhóm nghiên cứu đã chọn 5 tỉnh
Lào Cai, Thái Bình, Nghệ An, Đắk Lắk và An Giang để tiến hành các khảo sát thực địa:
phỏng vấn các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, cán bộ chuyển giao TBKT theo biểu mẫu;
phỏng vấn sâu các cán bộ quản lý nhà nước, các hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp,
các cán bộ nghiên cứu ở các viện nghiên cứu KH&CN; trao đổi, toạ đàm với các cán bộ
làm công tác quản lý nhà nước, chính quyền địa phương. Đồng thời nhóm nghiên cứu cũng
tiến hành khảo sát một số viện nghiên cứu KH&CN, kinh tế và chính sách và phỏng vấn
các cán bộ quản lý KH&CN cấp Bộ, Viện tại Hà Nội.
3
II. KHUNG PHÂN TÍCH
Trong suốt quá trình nghiên cứu, khung phân tích dưới đây được sử dụng để xem
xét đánh giá thực trạng chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và chuyển giao
TBKT trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua, đồng thời phát hiện các vấn đề và đề xuất
chính sách.
Hình 1. Khung phân tích hệ thống nghiên cứu và chuyển giao KHKT
(*Tổ chức: Bao gồm cả tổ chức chuyển giao KHKT)
Khung phân tích trên thể hiện khái quát hệ thống chính sách trên giác độ “cung-
cầu” về nghiên cứu, chuyển giao TBKT và phạm vi tác động của hệ thống này đối với
công tác nghiên cứu, chuyển giao TBKT trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Hệ thống
các chính sách tác động lên hệ thống nghiên cứu và hệ thống chuyển giao TBKT trong
nông nghiệp bao gồm cả chính sách khuyến khích ứng dụng các TBKT đã chuyển giao.
III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NGHIÊN CỨU, CHUYỂN GIAO VÀ ỨNG
DỤNG TBKT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp
ở Việt Nam có 5 đặc điểm cơ bản như sau:
1) Để nghiên cứu tạo ra được những TBKT trong nông nghiệp phải mất thời gian
tương đối dài, đặc biệt là các nghiên cứu về giống cây trồng, vật nuôi. Các giống cây con
mới muốn đưa vào sản xuất đại trà thành công phải trải qua các công đoạn: Kiểm định
giống-Khảo nghiệm giống-Khu vực hoá giống với thời gian khá dài.
2) Những TBKT trong nông nghiệp có phạm vi ứng dụng nhất định do có những

đòi hỏi nhất định về điều kiện tự nhiên (chất đất, chất nước, khí hậu…), nguồn lực thực
hiện (vốn đầu tư, trình độ và kinh nghiệm người sản xuất…)
4
CUNG/ CẦU

1. Chính phủ
2. DN
3. Tổ chức*
NGHIÊN
CỨU
- Cơ bản
- Ưng
dụng
CHUYỂN
GIAO
- Theo
vùng
CHÍNH SÁCH
CUNG
1.Viện NC,
Trường,
DN;
2. Tổ chức
quốc tế
3. Người
dân
CẦU
1. Nông hộ,
trang trại
2. HTX

3. DN
3) Các TBKT trong nông nghiệp khi đưa vào thực tiễn sản xuất thường là những kỹ
thuật dễ học hỏi để ứng dụng, phù hợp với trình độ ứng dụng của phần lớn các tác nhân
tham gia sản xuất nông nghiệp là những hộ nông dân sản xuất nhỏ, phân tán. Tuy nhiên,
đặc điểm này cũng góp phần làm cho các TBKT trở nên dễ bắt chước, dễ làm theo - một
trong những đặc tính quan trọng của hàng hoá công và do vậy việc thực thi các quyền và
nghĩa vụ theo quy định pháp luật vể sở hữu trí tuệ gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi cần có sự
can thiệp nhiều và sâu của các cơ quan quản lý nhà nước.
4) Nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT trong nông nghiệp chứa đựng
nhiều yếu tố rủi ro do sản xuất nông nghiệp phân bố trên địa bàn rộng lớn, chịu ảnh hưởng
rất lớn về thiên tai, dịch bệnh. Hiệu quả ứng dụng các TBKT trong nông nghiệp rất khác
nhau giữa các vùng miền, giữa các đối tượng tiếp nhận chuyển giao, ứng dụng TBKT do
sự khác biệt lớn về điều kiện tự nhiên, nguồn lực, về trình độ chuyên môn, về khả năng đầu
tư và qui mô sản xuất.
5) Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao TBKT trong nông nghiệp của Việt Nam cơ
bản không vận hành theo cơ chế thị trường mà tồn tại dưới dạng “hàng hóa công” nên
hoạt động nghiên cứu và chuyển giao chủ yếu theo “đơn đặt hàng” của Nhà nước và người
nhận chuyển giao không phải chi trả hoặc chỉ phải trả rất ít chi phí. Đây là đặc điểm cần
được lưu ý khi xây dựng chính sách khuyến khích, thúc đẩy chuyển giao TBKT trong nông
nghiệp.
IV. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGHIÊN CỨU VÀ CHUYỂN GIAO TBKT
TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông nghiệp chịu tác động của nhiều
nhóm yếu tố, có thể được phân chia thành các nhóm yếu tố như sau:
1) Nhóm yếu tố về thể chế, cơ chế và chính sách: Hệ thống Luật pháp về KH&CN
tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông
nghiệp. Chính sách là công cụ điều tiết hữu hiệu của Chính phủ nhằm hướng hoạt động
nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông nghiệp phục vụ các mục tiêu chiến lược phát
triển nông nghiệp trong từng thời kỳ. Nhằm khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và chuyển
giao TBKT trong nông nghiệp, Chính phủ có thể sử dụng một hệ thống các nhóm chính

sách khác nhau: chính sách quản lý KH&CN, chính sách đầu tư cho hoạt động nghiên cứu
và chuyển giao TBKT trong nông nghiệp, chính sách đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ nghiên
cứu và chuyển giao ngành nông nghiệp, chính sách khuyến khích, thúc đẩy chuyển giao
TBKT trong nông nghiệp
2) Nhóm yếu tố về nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố có vai
trò quan trọng nhất trong nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông nghiệp. Kết quả
của hoạt động nghiên cứu và chuyển giao KHKT phụ thuộc rất lớn vào số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực này - không chỉ là lực lượng cán bộ nghiên cứu và chuyển giao mà
còn bao gồm cả nhân lực tiếp nhận chuyển giao là đối tượng ứng dụng các TBKT.
5
3) Nhóm yếu tố về cơ sở vật chất kỹ thuật và tài chính liên quan đến hoạt động
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng: Hoạt động nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong
nông nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả hoạt động thấp nếu hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật và lượng kinh phí phục vụ nghiên cứu và chuyển giao TBKT nghèo nàn, lạc
hậu và không được quan tâm đầu tư đúng mức.
4) Nhóm yếu tố về sự phát triển của thị trường KH&CN: Cũng như nhiều loại
hàng hoá khác, thị trường KH&CN là nơi gặp gỡ giữa bên cung và bên cầu về kết quả
nghiên cứu KH&CN. Sự phát triển của thị trường khoa học, công nghệ là yếu tố ảnh hưởng
khá mạnh đến hiệu quả của công tác nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong mọi ngành
kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng.
V. THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU, CHUYỂN GIAO TBKT TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Trong 10 năm trở lại đây, hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT
trong sản xuất nông nghiệp đã thu được các thành công đáng kể trong xây dựng và phát
triển tiềm lực nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT ngày càng lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng đáp ứng nhiều nhu cầu của sản xuất nông nghiệp thể hiện trên các
khía cạnh cơ bản sau:
- Hệ thống nghiên cứu, chuyển giao TBKT công lập trong sản xuất nông nghiệp đã
được xắp xếp lại theo hướng cải tổ và thu gọn đầu mối hơn trước, nâng cao hiệu lực quản
lý các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao. Các tổ chức tham gia vào công tác nghiên cứu

khoa học, chuyển giao TBKT đã đa dạng hơn, bên cạnh hệ thống tổ chức nghiên cứu và
chuyển giao KHKT công lập, còn bao gồm cả các Viện nghiên cứu ngoài công lập, các
trường đại học, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài… Bộ Nông nghiệp và PTNT đang
triển khai quá trình chuyển đổi các tổ chức KH&CN trực thuộc Bộ NN&PTNT sang hoạt
động theo cơ chế cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập theo
tinh thần của NĐ 115/2005/NĐ-CP. Hệ thống các Viện nghiên cứu KH&CN nông nghiệp
đang thực hiện quá trình đổi mới nhằm giảm đầu mối và tăng cường sức mạnh trong
nghiên cứu - đây là chủ trương đúng đắn nhưng trong quá trình thực hiện đang nảy sinh
môt số vấn đề về cơ chế quản lý sẽ cần được điều chỉnh trong thời gian tới.
- Cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu và chuyển giao TBKT đã được đổi mới theo
chiều hướng nâng cao chất lượng sản phẩm nghiên cứu, chuyển giao, tiến tới chịu trách
nhiệm cho sản phẩm cuối cùng và hướng tới ứng dụng thành công vào sản xuất. Ở cấp Bộ,
ngoài một số nhiệm vụ nghiên cứu được chỉ định thực hiện còn lại đều được công bố rộng
rãi để các cơ quan nghiên cứu có thể tham gia đấu thầu và Bộ tiến hành ký hợp đồng thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu cho các tổ chức, cá nhân trúng thầu trong khi đó các nhiệm vụ
nghiên cứu cấp cơ sở do thủ trưởng tổ chức KH&CN ký hợp đồng giao nhiệm vụ trực tiếp
với các chủ nhiệm nhiệm vụ nghiên cứu. Như vậy, điểm chung của cơ chế quản lí hoạt
động nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và PTNT là các nhiệm vụ nghiên cứu đều đã được
giao đến tận tay người chủ trì thực hiện với các hợp đồng trách nhiệm rõ ràng nhằm nâng
cao chất lượng của các kết quả nghiên cứu;
6
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh phí phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và chuyển
giao kết quả nghiên cứu được chú trọng, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của hoạt động
nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu. Từ chỗ tỷ lệ đầu tư cho hoạt động KH&CN
(bao gồm cả hoạt động chuyển giao) chỉ chiếm 2,3% tổng vốn đầu tư cho toàn ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn (khoảng 256 tỷ đồng/năm) trong giai đoạn 2000-2005, đã
tăng lên hơn 11,6% (tức là gần 1.300 tỷ đồng/năm) giai đoạn 2006-2010. Kinh phí từ Ngân
sách Nhà nước cho hoạt động khuyến nông-lâm-ngư trong 15 năm qua tăng 12,7 lần, bình
quân mỗi năm tăng 8,5%/năm;
- Đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông nghiệp được tăng

cường cả về số lượng và chất lượng đã bước đầu đảm trách được nhiệm vụ được giao,
đóng góp thiết thực tạo nên thành quả của ngành nông nghiệp trong những năm qua. Đến
cuối năm 2007, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học và giảng dạy tại các Viện, Trường
thuộc Bộ NN&PTNT có 7.456 người, trong đó có 28 giáo sư chiếm 0,38%, 158 phó giáo
sư chiếm 2,12%, 612 tiến sỹ chiếm 8,21%, 892 thạc sỹ chiếm 11,96%, đại học 2.061
người, còn lại là trung cấp và công nhân kỹ thuật. Nguồn nhân lực của hệ thống khuyến
nông Nhà nước đã phát triển theo 4 cấp từ Trung ương đến địa phương (bao gồm cả cấp
thôn bản) tổng cộng khoảng trên dưới 30 ngàn cán bộ trong đó gần 70% số cán bộ có trình
độ từ cao đẳng trở lên, trình độ trung cấp đạt hơn 20% và tỷ lệ cán bộ khuyến nông chưa
qua đào tạo còn gần 7%, số cán bộ ở trình độ sơ cấp hoặc đào tạo ngắn hạn (dưới 3 tháng)
chiếm 1-2%;
- Từng bước tạo điều kiện cho hình thành thị trường KH&CN nông nghiệp.
Mặc dù đã có nhiều thành công, tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, hoạt động nghiên
cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn
và tồn tại cần được khắc phục. Những khó khăn tồn tại cơ bản bao gồm:
- Đến nay, sau khi tiến hành đổi mới, vẫn chưa thấy rõ sự kết nối và điều phối hoạt
động một cách hiệu quả giữa các tổ chức nghiên cứu với tổ chức chuyển giao và trường
đào tạo, giữa các viện nghiên cứu với nhau, giữa các tổ chức KH&CN trong và ngoài công
lập. Sự gắn kết giữa nghiên cứu - chuyển giao - ứng dụng chưa theo cơ chế ràng buộc
thường xuyên và chặt chẽ do đó các vấn đề nghiên cứu và nội dung khuyến nông còn chưa
gắn kết với nhu cầu thực tế. Các mối liên kết về chuyên môn giữa nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng hay mối liên kết dọc giữa viện mẹ và viện con chưa được thể hiện rõ
ràng, gây ra các phức tạp trong thực hiện các thủ tục hành chính.
- Cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu và chuyển giao TBKT vẫn còn mang nặng
tính xin - cho, cắt khúc trong nghiên cứu, chưa hình thành định hướng chiến lược dài hạn
cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao. Hình thức đấu thầu thực hiện đề tài vẫn còn
nhiều bất cập để tạo ra sự xét duyệt công bằng. Công tác giám sát đánh giá vẫn mang nhiều
sắc thái hình thức, chưa đánh giá đến kết quả cuối cùng của hoạt động nghiên cứu và
chuyển giao tạo nên sự hiệu quả không cao trong hoạt động nghiên cứu và chuyển giao
TBKT.

7
- Việc thực hiện chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập trong ngành nông
nghiệp sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa được thực hiện một
cách kiên quyết, triệt để nên các tổ chức đang thực hiện chuyển đổi gặp nhiều vướng mắc
trong công tác quản lý và thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN nhưng không có quyền
quyết định phương thức giải quyết.
- Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng cho nghiên cứu và chuyển giao vẫn còn
thiếu đồng bộ và chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu, chuyển
giao TBKT. Kinh phí cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao cũng còn rất hạn chế, chưa
đáp ứng đủ các yêu cầu nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là kinh phí phục vụ cho công tác chuyển giao các kết qủa nghiên cứu. Công tác quản
lý tài chính chuyển đổi chậm, chưa gắn với sản phẩm cuối cùng và chưa tạo quyền chủ
động thực sự về tài chính cho các tổ chức KH&CN công lập.
- Năng lực đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyển giao còn hạn chế cả về chuyên
môn và trình độ ngoại ngữ để tiếp cận được với các tiến bộ KHKT của các nước tiên tiến.
Chế độ lương và chế độ đãi ngộ trong các tổ chức KH&CN công lập thấp nên làm giảm
động lực nghiên cứu và chuyển giao của cán bộ, không thu hút được cán bộ có trình độ
chuyển môn và ngoại ngữ giỏi.
- Chưa có thị trường KH&CN thực sự trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao hiệu
quả và tính cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động nghiên cứu, chuyển giao TBKT trong sản
xuất nông nghiệp. Vấn đề giữ bản quyền của các TBKT nông nghiệp là rất khó. Một mặt
do nhiều TBKT trong sản xuất nông nghiệp rất dễ học và làm theo, mặt khác do cơ chế,
chính sách về bảo vệ bản quyền chưa được thực hiện tốt - đây cũng là một trong những
nguyên nhân ảnh hưởng đến sự hình thành thị trường sản phẩm KH&CN trong sản xuất
nông nghiệp.
- Đối tượng ứng dụng TBKT cũng còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và ứng
dụng các TBKT vào sản xuất, các khó khăn cơ bản gồm: Một số sản phẩm sản xuất ra
không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ với giá thấp không bù đắp nổi chi phí; Thiếu vốn đầu tư
cho sản xuất; Thiếu kiến thức: mặc dù đã được tập huấn nhưng không tiếp thu được nội
dung; Khó thay đổi phong tục, tập quán canh tác; diện tích đất sản xuất nông nghiệp cho

đến này nhìn chung vẫn manh mún …
VI. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH, THÚC ĐẨY
NGHIÊN CỨU, CHUYỂN GIAO TBKT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Trong những năm qua Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm và đưa ra nhiều hỗ trợ
thể hiện qua các chính sách được ban hành nhằm giúp cải tiến hệ thống nghiên cứu và
chuyển giao TBKT trong nông nghiệp. Ngoài ra, bản thân Bộ NN&PTNT với sự chỉ đạo
của Chính phủ cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện cả hệ thống nghiên cứu và
chuyển giao bằng các cải cách trong quản lí, tổ chức bộ máy. Các nỗ lực này đã đạt được
những kết quả đáng kể: cải tiến một bước bộ máy tổ chức ở cả khu vực nghiên cứu và khu
vực chuyển giao TBKT, đồng thời cải tiến mạnh các thủ tục có liên quan về quản lí khoa
8
học, vốn, thanh quyết toán… giúp nâng cao đáng kể hiệu quả của các công tác này. Tuy
nhiên, trên thực tế cho đến nay vẫn còn khá nhiều bất cập về chính sách cần giải quyết
nhanh để phát triển được khu vực nghiên cứu và chuyển giao TBKT một cách thực sự hiệu
quả và bền vững. Cụ thể:
- Nhóm chính sách đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý hoạt động nghiên cứu và
chuyển giao TBKT đã được ban hành nhưng công tác hướng dẫn thi hành còn chưa tốt
đồng thời một số điểm chưa được nghiên cứu kĩ nên gây vướng mắc trong quá trình thực
hiện. Chưa thực sự tạo ra cơ chế hoạt động có hiệu quả cho các viện nghiên cứu, nhất là
các đơn vị nghiên cứu ứng dụng: vẫn còn một số nghiên cứu không được xây dựng dựa
trên yêu cầu từ thực tế sản xuất; năng lực nghiên cứu ở cấp cơ sở rất yếu nên hiệu quả ứng
dụng của các kết quả nghiên cứu không cao. Nhiều Viện nghiên cứu thành viên bị ràng
buộc bởi một số cơ chế hành chính cứng nhắc nên chưa tạo mối liên kết hữu cơ giữa Viện
thành viên với Viện lớn. Chưa tạo được sự kết nối hiệu quả giữa hệ thống nghiên cứu,
chuyển giao với đào tạo nhân lực trong Ngành gây khó khăn cho việc phát triển nguồn
nhân lực có chất lượng cao phục vụ công tác nghiên cứu và chuyển giao. Hệ thống tổ chức
khuyến nông Nhà nước đã hình thành nhưng chưa thật đồng bộ và phù hợp với yêu cầu
phát triển, còn yếu ở cấp cơ sở đồng thời còn chưa thống nhất, đồng bộ về mặt quản lí nhà
nước. Chính sách tổ chức quản lí hiện nay chưa khuyến khích các doanh nghiệp tích cực

tham gia phối hợp, thực hiện các nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong sản xuất nông
nghiệp hay nói đúng hơn là các giải pháp khuyến khích xã hội hóa công tác này còn kém
tác dụng. Cơ chế đấu thầu, giám sát đánh giá thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, chuyển
giao TBKT vẫn còn một số bất cập trong việc chọn đúng các cá nhân, tổ chức thực sự có
đủ năng lực triển khai thực hiện. Các tồn tại này của nhóm chính sách đổi mới hệ thống tổ
chức và quản lý một phần do chưa được quan tâm đúng mức mặt khác do đây là vấn đề cần
được giải quyết một cách đồng bộ và thống nhất với sự đồng thuận của nhiều Bộ ngành
khác nên quá trình đổi mới không thể diễn ra nhanh chóng như mong đợi.
- Nhóm chính sách đầu tư và kinh phí cho phát triển KH&CN ngoài những thành
công trong việc hỗ trợ phát triển nghiên cứu và ứng dụng TBKT cũng còn khá nhiều hạn
chế như đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao TBKT và phát triển công nghệ
trong nông nghiệp còn dàn trải và chưa tương xứng - bằng 1/4 so với Philippines và
Indonesia và 1/7 so với Malaysia và thấp hơn hàng chục, thậm chí hàng trăm lần so với các
nước phát triển nhu Úc, Canađa hay Mĩ. Cơ chế cấp phát, quản lí và sử dụng kinh phí, đầu
tư còn nhiều bất cập khi vẫn chưa có bộ tiêu chuẩn thực sự rõ ràng và phù hợp. Chính điều
này một phần cũng là nguyên nhân làm cho các chính sách đầu tư cho phát triển KH&CN
trở nên không đủ mạnh và thiếu đồng bộ làm giảm hiệu quả sử dụng ngân sách. Trong thời
gian tới, các nỗ lực đổi mới hệ thống chính sách về đầu tư, cấp phát kinh phí, thanh quyết
toán đối với nguồn ngân sách Nhà nước cần được đẩy mạnh hơn để tạo động lực khuyến
khích cán bộ Nhà nước nhiệt tình hơn đối đồng thời cũng giảm bớt thất thoát, lãng phí.
- Nhóm chính sách phát triển nguồn nhân lực đã được quan tâm nhiều hơn trong
thời gian gần đây tác động tích cực đến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, đội ngũ
cán bộ KH&CN. Vấn đề của nhóm chính sách này bắt đầu từ chính chính sách tuyển dụng
9
chưa phù hợp khi một tiến sỹ với kinh nghiệm công tác lâu năm và có nhiều công trình
nghiên cứu đạt kết quả tốt cũng vẫn phải tham gia thi tuyển như một sinh viên mới ra
trường khi muốn trở thành viên chức làm công tác nghiên cứu trong khi nội dung thi còn
nặng về quản lý hành chính. Quy định về quản lí cán bộ nghiên cứu, chuyển giao TBKT
theo giờ hành chính cũng dường như là không phù hợp với công việc rất đặc thù này, đặc
biệt là với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, chính sách đãi ngộ cho khối cán bộ

nghiên cứu và chuyển giao TBKT chưa tạo ra được động lực làm việc cho cán bộ với mức
lương chủ yếu vẫn theo ngạch bậc và hệ số của Nhà nước và hầu như không có thêm các
khuyến khích nào khác (thưởng, hỗ trợ về nhà ở…). Đào tạo cán bộ vẫn chưa có tính tập
trung và chọn lọc cao dẫn đến hiệu quả đào tạo thấp, thậm chí bị sử dụng sai mục đích
đồng thời kinh phí cho hoạt động này vẫn rất thấp nên chưa đào tạo được nhiều kĩ năng cần
thiết cho cán bộ như (ngoại ngữ, chuyên môn, nghiệp vụ…)
- Nhóm chính sách phát triển thị trường KH&CN đã bước đầu được quan tâm hoàn
thiện khung pháp lí, hiện cơ chế tự chủ về tài chính đối với các tổ chức KH&CN công lập,
khuyến khích về đăng ký bản quyền, khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp đầu tư ứng
dụng và nâng cao năng lực đổi mới công nghệ… đã tạo ra những bước tiến đầu tiên trong
quá trình hình thành thị trường này. Tuy nhiên, để thị trường này có thể hình thành thực sự
và vận hành tốt, các chính sách của Chính phủ cần được tăng cường hơn, tập trung hơn và
đúng hướng hơn cũng như việc chỉ đạo thực hiện chính sách cần quyết liệt hơn và hỗ trợ
mạnh về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật và quyền lực để thực hiện chính sách. Các chính
sách hỗ trợ có liên quan như thu nhập, thuế, bảo vệ bản quyền… cần được điều chỉnh cho
phù hợp với thực tế hiện nay để khuyến khích được các nhà nghiên cứu, phát minh sáng
chế. Điều khó khăn nhất đối với nhóm chính sách này có lẽ lại bắt nguồn từ phía đối tượng
được hưởng lợi từ TBKT (người ứng dụng TBKT) do năng lực của phía “cầu” này hiện
nay khá hạn chế cả về nhận thức và tài chính nên việc thương mại hóa dịch vụ khuyến
nông hiện nay rất khó khăn. Thực tế cho thấy hầu như chỉ những người sản xuất hàng hóa
với quy mô lớn và lợi nhuận cao mới hiểu và sẵn lòng đóng góp một phần kinh phí của
mình vào việc chuyển giao TBKT còn lại phần lớn người sản xuất nông nghiệp Việt Nam
là ở quy mô nhỏ, lợi nhuận thấp đều không mặn mà với TBKT với nếp nghĩ “cho thì nhận
chứ nhất định không mua”. Vậy, phải chăng để thương mại hóa hoạt động KH&CN, để
phát triển được thị trường KH&CN cho ngành nông nghiệp Việt Nam cũng cần sự tập
trung hóa sản xuất?
- Nhóm chính sách hỗ trợ đối tượng ứng dụng TBKT hiện đang phát huy tác dụng
nhiều nhất trong việc giúp đưa các TBKT vào sản xuất nông nghiệp. Trước hết việc đổi
mới quản lý sử dụng đất nông nghiệp đã tạo điều kiện tốt hơn cho nông dân trong ứng
dụng TBKT vào sản xuất nông nghiệp (giao quyền sử dụng ruộng đất, dồn điền đổi thửa,

miễn giảm thuế đất nông nghiệp…). Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ về đào tạo, tập huấn,
xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp (NĐ 56/2005/NĐ-CP, QĐ 09/2005/QĐ-BKHCN,
TTLT 30/2006/TTLT-BTC-BNN&PTNT-BTS ) đã góp phần quan trọng để nâng cao
kiến thức kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp cho nông dân. Về vốn, Nhà nước cũng liên
tục có những chính sách đổi mới về tín dụng để phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp
10
cũng như xóa đói giảm nghèo cho các hộ nông dân nghèo, đặc biệt là hỗ trợ cho ứng dụng
TBKT trong sản xuất nông nghiệp (NQ 30/2008/NQ-CP, QĐ 131/QĐ-TTg, QĐ 443/QĐ-
TTg, QĐ 497/2009/QĐ-TTg…) đồng thời chỉ đạo hệ thống ngân hàng đáp ứng nhu cầu đa
dạng của nông dân, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân
hàng Nhà nước ngày càng dễ dàng hơn. Về thị trường, Chính phủ cũng đã rất quan tâm để
tạo điều kiện ngày càng có lợi cho người nông dân hơn trong tiêu thụ sản phẩm thông qua
các chính sách về mua bán sản phẩm thông qua hợp đồng (QĐ 80/2002/QĐ-TTg), khuyến
khích phát triển hệ thống bảo quản và chế biến sản phẩm nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ
tầng, nhất là giao thông và thông tin (NQ 10/2008/NQ-CP), để tăng giao lưu trong mua bán
sản phẩm và vật tư nông nghiệp. Mặc dù hỗ trợ được không ít cho người sản xuất nông
nghiệp như vậy nhưng nhóm chính sách này cũng không tránh khỏi còn rất nhiều bất cập:
Chính sách về quyền sử dụng đất chưa đáp ứng yêu cầu thực tế (hạn điền thấp, diện tích
canh tác manh mún); Chính sách hỗ trợ cho đối tượng nhận chuyển giao TBKT chưa phù
hợp với trình độ dân trí thấp, nhận thức không đồng đều giữa các vùng địa lí; Chính sách
khuyến khích sự tham gia của người dân chưa mang lại hiệu quả; Chính sách khuyến nông
có nguồn ngân sách Nhà nước vẫn chủ yếu áp dụng theo cơ chế cấp phát theo kế hoạch;
Chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế; Chính sách vốn tín
dụng cũng chưa phù hợp với thực tiễn sản xuất khi hạn mức cho vay thấp, thời hạn cho vay
ngắn và thủ tục còn khá rườm rà; Chính sách liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
chưa đem lại hiệu quả cao cho người sản xuất nông nghiệp do vẫn chưa tạo dựng được thị
trường thực sự cho các sản phẩm được ứng dụng TBKT…
Tóm lại, hệ thống chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và
ứng dụng TBKT trong nông nghiệp của Việt Nam đã có nhiều đổi mới tạo điều kiện cho
những chuyển biến tích cực của nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, hệ

thống chính sách này bên cạnh những ưu điểm rất đáng ghi nhận đó vẫn còn nhiều điểm
cần phải tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa để phù hợp với tình hình phát triển của sản xuất nông
nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Để làm được việc này, các nhà hoạch định chính
sách sẽ cần lưu ý đến một số vấn đề được coi là nguyên nhân của các tồn tại trên bao gồm
các yếu tố phi chính sách như năng lực của các cơ quan tham mưu và quản lí KH&CN,
tiềm lực nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT của các tổ chức nghiên cứu, chuyển
giao, quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ bản quyền… cũng như các yếu tố liên quan đến chính
sách như việc tổ chức chỉ đạo thực hiện chính sách, tính đồng bộ và thực tiễn của chính
sách, khả năng đầu tư của Nhà nước cho việc thực hiện chính sách, các chế tài liên quan
đến việc thực hiện chính sách… Để phát huy các thành công đã đạt được, khắc phục các
tồn tại trong hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông
nghiệp cần rất nhiều các giải pháp khác nhau, trong đó giải pháp hoàn thiện chính sách
khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp mang
tính chất quan trọng, then chốt, mở đường cho các giải pháp khác.
11
VII. MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Nghiên cứu kinh nghiệm về chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển
giao và ứng dụng TBKT trong nông nghiệp của nước ngoài có thể rut ra một số bài học
kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam như sau:
- Bài học về các chính sách tổ chức quản lý: Cần có một khung pháp lý hoàn chỉnh
và linh hoạt cho sự phát triển của hệ thống nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT
trong nông nghiệp. Các chính sách phải tạo ra động lực đủ mạnh để thúc đẩy phát triển đa
dạng các loại hình tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động nghiên
cứu, chuyển giao TBKT trong nông nghiệp. Đổi mới hệ thống tổ chức nghiên cứu và
chuyển giao TBKT trong nông nghiệp theo hướng tinh giản lực lượng ở các tổ chức
KH&CN công lập để giảm tải ngân sách. Hình thành các doanh nghiệp đầu não về
KH&CN. Có các chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực của các cơ quan/thể chế ở tầm quốc
gia để điều phối, kết nối các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu và
phát triển công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp
chuyển giao TBKT và bao tiêu sản phẩm do chuyển giao TBKT cho người sản xuất.

- Bài học về chính sách đầu tư và kinh phí: Tăng đầu tư ngân sách Nhà nước cho
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông
nghiệp. Đầu tư thích đáng và có trọng điểm cho các cơ quan đầu não nghiên cứu, phát triển
công nghệ mua sắm trang thiết bị hiện đại ngang tầm thế giới. Hình thành cơ chế đầu tư
thích đáng và hiệu quả cho hoạt động nghiên cứu KH&CN. Có cơ chế phân bổ tài chính
linh hoạt và rõ ràng cho các cấp nghiên cứu như các viện nghiên cứu quốc gia, cấp vùng và
các trung tâm nghiên cứu cấp quận, huyện. Tăng tỷ lệ kinh phí từ ngân sách cho các đơn vị
nghiên cứu cấp địa phương. Cải tiến cơ chế quản lý chi tiêu cho phù hợp với đặc thù của
hoạt động nghiên cứu khoa học đặc biệt trong Ngành nông nghiệp với những đặc thù riêng
để có một cơ chế tài chính thông thoáng nhưng vẫn đảm bảo chi tiêu ngân sách tiết kiệm và
đúng mục đích. Hoàn thiện chính sách kích cầu về KHKT bằng việc cải tiến chính sách hỗ
trợ thoả đáng cho bên nhận chuyển giao trong một số năm sau khi tiếp nhận kết quả
chuyển giao. Sau đó sẽ giảm dần sự hỗ trợ ngân sách cho các đối tượng tiếp nhận và ứng
dụng TBKT trong nông nghiệp. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và chuyển
giao TBKT trong nông nghiệp và sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân.
- Bài học về chính sách phát triển nhân lực: Có các chính sách thúc đẩy khoa học
cơ bản và đào tạo đặc biệt cho những nhà khoa học sáng tạo hoặc nhân lực công nghệ tay
nghề cao. Thúc đẩy nhận thức về KH&CN của thanh niên và quần chúng nhằm xây dựng
một nền văn hoá lành mạnh về KH&CN. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ du học để
tiếp thu tri thức quốc tế. Tăng cường đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở cả về số lượng và
chất lượng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của chuyển
giao KH&CN trong nông nghiệp. Có các chính sách đào tạo thích hợp cho nông dân.
- Bài học về chính sách phát triển thị trường KH&CN: Nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ trong nông nghiệp nên theo định hướng đáp ứng yêu cầu của khách
hàng (người dân, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp,…) – cách tiếp cận kéo - hơn là vì
12
mục tiêu thúc đẩy nghiên cứu khoa học – cách tiếp cận đẩy. Phát triển nghiên cứu, chuyển
giao dựa trên nhu cầu thực tế. Có cơ chế, chế tài quản lý, giám sát và xử lý việc chuyển
giao tiến bộ KHKT&CN. Hình thành các ủy ban độc lập đánh giá kết quả của các hoạt
động nghiên cứu. Có chính sách hợp lý, hỗ trợ cho thương mại hóa các sản phẩm nghiên

cứu trong nông nghiệp. Khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia vào nghiên cứu và
phát triển thị trường KH&CN. Chính phủ cần rút lui dần khỏi những khu vực nghiên cứu
đã được đầu tư thỏa đáng và khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm tốt. Một chính sách không
thể thiếu là “kích cầu KH&CN”: tạo điều kiện cho người sản xuất nông nghiệp có điều
kiện về vốn, đất đai, cơ sở hạ tầng, thị trường… để ứng dụng hiệu quả các TBKT.
VIII. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH, THÚC ĐẨY
NGHIÊN CỨU, CHUYỂN GIAO VÀ ỨNG DỤNG TBKT TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Để hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao
và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu thực tiễn, phù hợp với xu
thế của thời đại cần chú ý theo các quan điểm sau:
Quan điểm 1. Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế
giới, cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt hơn thì việc chuyển giao TBKT trong nông
nghiệp là giải pháp mang tính then chốt nhằm nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp
nước ta, do vậy cần có một hệ thống chính sách ưu tiên đồng bộ, tạo động lực đủ mạnh để
thúc đẩy công tác nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông nghiệp.
Quan điểm 2. Các chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và chuyển giao TBKT
trong nông nghiệp phải đảm bảo gắn công tác nghiên cứu với thực tiễn phát triển nông
nghiệp, làm cho các hoạt động nghiên cứu vừa phục vụ thiết thực và hiệu quả cho các chủ
trương phát triển nông nghiệp, vừa đảm bảo sự thống nhất trong chủ trương phát triển
khoa học công nghệ của đất nước, theo kịp trình độ KH&CN nông nghiệp tiên tiến, đáp
ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
Quan điểm 3. Các chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và chuyển giao TBKT
trong nông nghiệp phải tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho mọi tổ chức, cá nhân
tham gia nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông nghiệp.
IX. CÁC ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH, THÚC ĐẨY NGHIÊN CỨU,
CHUYỂN GIAO VÀ ỨNG DỤNG TBKT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỚI
1) Để tạo sự liên kết, tăng cường sức mạnh và hiệu quả hoạt động của hệ thống
các tổ chức nghiên cứu, chuyển giao TBKT trong nông nghiệp theo hướng liên thông,

hợp lý, hiệu quả cần tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức hoạt động nghiên cứu, chuyển
giao TBKT trong sản xuất nông nghiệp. Cụ thể, Bộ nông nghiệp và PTNT cần tiếp tục
đẩy mạnh việc sắp xếp lại hệ thống nghiên cứu theo nhóm các nhiệm vụ nghiên cứu
(nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và hàng hóa công), ban hành Bộ Quy chuẩn về
quản lý đối với hệ thống các viện theo mô hình “viện mẹ - viện con”; thành lập các học
viện vừa có chức năng nghiên cứu, vừa có chức năng đào tạo; tích cực thực hiện Quy chế
liên kết viện – trường đã được ban hành. Tại các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp nên bố
13
trí theo hướng hình thành các “làng nghiên cứu nông nghiệp”. Hệ thống khuyến nông công
lập cần được đổi mới tổ chức theo hướng gắn kết hoạt động chuyển giao và ứng dụng đáp
ứng nhu cầu của sản xuất nông nghiệp làm cơ sở phát triển khả năng kết nối trong toàn bộ
quá trình từ nghiên cứu, chuyển giao đến ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp.
Cuối cùng, để vận hành được cả hệ thống này một cách trơn tru thì việc đẩy mạnh đổi mới
tổ chức quản lý nhà nước về KH&CN nông nghiệp phải tiếp tục được Bộ Nông nghiệp và
PTNT xác định là một trong những nhiệm vụ chính trong thời gian tới nhằm tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao TBKT phục vụ
thiết thực sự phát triển bền vững của cả ngành nông nghiệp.
2) Để nâng cao hiệu quả các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao đáp ứng tốt
hơn nhu cầu thực tế về KHKT trong sản xuất nông nghiệp cần tiếp tục đổi mới chính
sách về quản lý hoạt động nghiên cứu, chuyển giao TBKT trong sản xuất nông nghiệp.
Cụ thể, trước mắt cần hoàn thiện cơ chế, chính sách gắn kết các hoạt động nghiên cứu với
chuyển giao từ đầu vào đến đầu ra của quá trình, gắn nghiên cứu với thực tiễn sản xuất
đồng thời trên cơ sở thực tiễn sản xuất cần dự báo để đặt hàng nghiên cứu. Trên cơ sở dự
báo và cân đối được cung - cầu về nghiên cứu và chuyển giao TBKT, Bộ Nông nghiệp và
PTNT (với sự thống nhất với một số Bộ ngành liên quan khác) cần thành lập được một quỹ
nghiên cứu - chuyển giao TBKT nông nghiệp nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu nghiên
cứu, chuyển giao trong sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, tiếp tục đổi mới cơ chế đấu thầu,
giao đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu, chuyển giao để đảm bảo các nhiệm vụ được thực hiện tốt
nhất, hiệu quả nhất và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn nhất. Công tác tuyên truyền, tăng
cường trao đổi thông tin giữa các bên liên quan đến nghiên cứu và chuyển giao, ứng dụng

TBKT cũng cần được duy trì đảm bảo tạo điều kiện sử dụng dễ dàng kết quả nghiên cứu
ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, để thực sự giám sát được chất lượng của
công tác nghiên cứu cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá chất lượng sản phẩm
nghiên cứu KH&CN và chuyển giao TBKT gắn kết nhiều hơn với hiệu quả ứng dụng thực
tế, thực hiện cơ chế chấm thầu kín và đồng thời huy động, khuyến khích sự tham gia của
phía người sản xuất trực tiếp trong việc giám sát, đánh giá các kết quả thực hiện nhiệm vụ
nghiên cứu, chuyển giao TBKT. Bên cạnh đó cần chú ý sử dụng hiệu quả thành quả
KH&CN và nguồn lực hỗ trợ từ nước ngoài cho hoạt động KH&CN trong sản xuất nông
nghiệp thông qua việc hoàn thiện các chính sách khuyến khích (thuế, đất đai …) và cơ chế
điều phối sử dụng hợp lý nguồn hỗ trợ từ bên ngoài.
3) Để tăng cường năng lực về cơ sở vật chất hạ tầng và kinh phí hoạt động, đảm
bảo sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất hạ tầng và kinh phí trong các tổ chức nghiên cứu,
chuyển giao TBKT trong sản xuất nông nghiệp cần tiếp tục đổi mới chính sách về đầu
tư và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng TBKT trong sản xuất
nông nghiệp. Cụ thể: Hoàn thiện quy trình hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng, đảm bảo
tính đồng bộ và hiệu quả từ đánh giá – xác định nhu cầu – xét duyệt kinh phí – đấu thầu/hỗ
trợ theo đúng nhu cầu, bên cạnh đó chú ý chính sách cấp duy tu bảo dưỡng và khấu hao tài
sản cố định hợp lý. Mức và cơ cấu đầu tư kinh phí cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao
khoa học công nghệ cũng cần được điều chỉnh nhằm giúp chọn lọc và tập trung nghiên cứu
và chuyển giao TBKT theo các ưu tiên đã được xác định. Cơ chế quản lý tài chính cho hoạt
14
động nghiên cứu và chuyển giao cũng cần được tiếp tục đổi mới theo hướng đảm bảo tính
hiệu quả và minh bạch trong sử dụng kinh phí cho nghiên cứu và chuyển giao KHKT.
4) Để nâng cao năng lực nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong sản xuất nông
nghiệp góp phần đảm bảo chất lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng các sản phẩm của
hoạt động nghiên cứu, chuyển giao cần tiếp tục đổi mới chính sách phát triển nguồn
nhân lực. Cụ thể: cơ chế tuyển dụng cán bộ cần được điều chỉnh dựa trên tiêu chí chính là
năng lực làm việc và khả năng sáng tạo của cán bộ nhằm bổ sung và phát triển được lực
lượng nhân lực nghiên cứu và chuyển giao TBKT có chất lượng cao. Đi kèm với cơ chế
này là cơ chế đánh giá năng lực của cán bộ cũng cần được điều chỉnh nhằm đánh giá đúng

kết quả công việc, khuyến khích tăng hiệu quả nghiên cứu, chuyển giao đồng thời gắn liền
với chính sách bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ để gắn hoạt động nghiên cứu và chuyển
giao TBKT với quản lí KH&CN, đảm bảo tính hiệu quả cao. Các chính sách khuyến khích,
tạo động lực cho cán bộ (thu nhập, thưởng phạt, đào tạo, phúc lợi…) cũng cần được xem
xét điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế và theo nhiệm vụ được giao để tạo được động
lực khuyến khích cho khối cán bộ nghiên cứu và chuyển giao TBKT.
5) Để tạo môi trường công bằng trong hoạt động nghiên cứu, chuyển giao
TBKT; nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu, chuyển giao; khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia hoạt động nghiên cứu và chuyển giao TBKT cần đổi mới các
chính sách phát triển thị trường KH&CN trong ngành nông nghiệp. Cụ thể: hoàn thiện
cơ chế, chính sách (tài trợ kinh phí hoạt động nghiên cứu, chuyển giao; tôn vinh …)
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu và chuyển giao TBKT, đặc biệt
cần chú ý thực hiện thương mại hóa các sản phẩm KH&CN cả từ phía người nghiên cứu và
đối tượng nhận chuyển giao. Bên cạnh đó, để thị trường KH&CN có thể hình thành và phát
triển thì môi trường pháp lí cho các hoạt động trong thị trường này là rất cần thiết và hiện
vẫn gần như mới chỉ được bắt đầu quan tâm nên cần được Nhà nước sớm chỉ đạo hoàn
thiện.
6) Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận và ứng dụng các chuyển giao TBKT
của đối tượng nhận chuyển giao và ứng dụng TBKT cần tăng cường chính sách hỗ trợ
bên nhận chuyển giao và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp bao gồm các vấn
đề về hỗ trợ cho người nhận chuyển giao TBKT đặc biệt chú ý đến khối người nghèo, đồng
bào dân tộc thiểu số về kiến thức, vốn (hạn mức, thời gian…) nên được xem xét điều chỉnh
để đảm bảo đủ năng lực cho ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp. Hạn điền là vấn
đề đang rất được quan tâm do liên quan nhiều đến hiệu quả sản xuất và khả năng ứng dụng
TBKT cũng cần được chỉnh sửa. Cơ chế thị trường, đặc biệt là thị trường cho các sản phẩm
ứng dụng TBKT, cần được Nhà nước tiếp tục hoàn thiện theo hướng giảm rủi ro cho người
sản xuất.
15
X. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận

Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm
khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các TBKT trong sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta chuyển sang thực hiện cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập quốc tế, hệ thống các chính
sách này cần tiếp tục được điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của
sản xuất cũng như quản lý nhà nước để nâng cao hiệu quả và tạo điều kiện ngày càng tốt
hơn cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các TBKT trong sản xuất nông
nghiệp.
Kết quả nghiên cứu này đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc điều chỉnh và
bổ sung hệ thống chính sách liên quan đến nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các
TBKT vào sản xuất nông nghiệp, đồng thời kết quả nghiên cứu đã đề xuất giải pháp hoàn
thiện hệ thống chính sách khuyến khích, thúc đẩy công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng
dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp.
• Về cơ sở lý luận, đề tài đã đưa ra các khái niệm cơ bản liên quan đến KH&CN,
nghiên cứu KHKT, TBKT, chuyển giao và ứng dụng TBKT, những đặc điểm cơ bản của
nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp, vai trò của
nghiên cứu và chuyển giao TBKT, các yếu tố ảnh hưởng đến nghiên cứu và chuyển giao
TBKT, tổng quan chính sách hiện hành khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và
ứng dụng TBKT, đã làm rõ cơ sở lý luận và khung pháp lý cho việc xây dựng và ban hành
chính sách cho nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các TBKT trong nông nghiệp.
• Về cơ sở thực tiễn, đề tài đã phân tích các kinh nghiệm quốc tế về chính sách
khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao TBKT ở một số nước và rút ra một số bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam; đồng thời đề tài đã thực hiện phân tích, đánh giá thực
trạng nghiên cứu, chuyển giao TBKT trong nông nghiệp ở Việt Nam ở hai khía cạnh: hệ
thống nghiên cứu và chuyển giao TBKT trong nông nghiệp và các kết quả đạt được trong
nghiên cứu và chuyển giao TBKT ngành nông nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây.
Đề tài cũng đã thực hiện đánh giá thực trạng hệ thống chính sách khuyến khích, thúc đẩy
nghiên cứu, chuyển giao TBKT những năm gần đây ở các khía cạnh: thực trạng hệ thống
chính sách; các thành công, tồn tại và nguyên nhân của hoạt động nghiên cứu, chuyển giao
và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Trong phần Đánh giá thực

trạng hệ thống chính sách, đề tài đã tập trung đánh giá các thành công và tồn tại theo 5
nhóm chính sách: tổ chức quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vạt chất kỹ thuật và kinh phí hoạt
động, phát triển nguồn nhân lực, phát triển thị trường khoa học công nghệ, hỗ trợ đối tượng
ứng dụng TBKT. Trong phần phân tích nguyên nhân, đề tài đã tiến hành phân tích các
nguyên nhân phi chính sách và các nguyên nhân liên quan đến chính sách để làm rõ cơ sở
thực tiễn cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách.
16
• Về đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách, đề tài đã đưa ra các quan
điểm hoàn thiện hệ thống chính sách và đề xuất hoàn thiện hệ thống chính sách theo 6
nhóm: chính sách về hệ thống tổ chức hoạt động nghiên cứu, chuyển giao TBKT; chính
sách về quản lý hoạt động nghiên cứu, chuyển giao TBKT; chính sách về đầu tư và kinh
phí cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng TBKT; chính sách phát triển nguồn
nhân lực; chính sách phát triển thị trường KH&CN; chính sách hỗ trợ bên nhận chuyển
giao và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp.
Khuyến nghị
Để hoàn thiện và đi vào thực hiện hệ thống giải pháp chính sách khuyến khích, thúc
đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng TBKT trong sản xuất nông nghiệp rất cần có sự
hỗ trợ quyết liệt và quyết tâm cao của Chính phủ, cũng như sự quyết tâm cao và sự nỗ lực
của tất cả các tổ chức KH&CN làm nhiệm vụ nghiên cứu và chuyển giao TBKT nông
nghiệp, sự nỗ lực của bản thân cá nhân, tổ chức sản xuất nông nghiệp trong quá trình xây
dựng cũng như trong thực hiện hệ thống chính sách này, trong đó, sự hỗ trợ quyết liệt và
quyết tâm cao của Chính phủ là yếu tố quan trọng. Chính phủ, Bộ NN&PTNT và các Bộ
liên quan cần nhanh chóng tiến hành một số việc sau:
Chính phủ:
- Tiếp tục ban hành các văn bản pháp quy cụ thể hóa các Luật liên quan nhiều đến
hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các TBKT trong sản xuất nông nghiệp
như Luật KH&CN, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ
- Tiếp tục ban hành các Quyết định, Chỉ thị quyết liệt hơn trong thực hiện xắp xếp
và đổi mới tổ chức quản lý các tổ chức KH&CN công lập theo hướng tự chủ và hiệu quả.
- Chuẩn bị nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu trong quá trình thực hiện xắp xếp và

đổi mới tổ chức quản lý các tổ chức KH&CN công lập, triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu
và chuyển giao TBKT cũng như hỗ trợ các điều kiện ứng dụng TBKT theo hướng tự chủ
và hiệu quả.
Bộ NN&PTNT và các Bộ liên quan
- Tiếp tục ban hành các văn bản pháp quy cụ thể hóa các Nghị định của Chính phủ
liên quan đến hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các TBKT trong sản xuất
nông nghiệp.
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
TBKT trong ngành nông nghiệp thời kỳ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đề trình
Chính phủ phê duyệt.
- Chỉ đạo quyết liệt, đồng thời tích cực cùng các tổ chức KH&CN công lập, tổ chức
thuộc hệ thống khuyến nông nhà nước xây dựng các đề xuất chính sách đệ trình Chính phủ
để tháo gỡ các khó khăn trong quá trình thực hiện đổi mới tổ chức quản lý theo hướng tự
chủ và hiệu quả.

17
18

×