Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU ÂU NĂM 1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.94 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
2.1. Thái Lan 6
3.1.2. Các nguyên nhân chủ quan 15
Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng % GDP (1965 - 1995) của một số nước Đông Nam Á.
15
Hình 3.3: Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trước khủng hoảng ở Đông Nam Á 15
Chương 4: Tác động của khủng hoảng kinh tế 1997 đến Việt Nam 20
4.1.Tình hình Việt Nam trước khủng hoảng 20
4.2 Tác động đối với Việt Nam 21
4.3.Các giải pháp đã thực hiện 23
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 2.1: Tăng trưởng GDP hàng năm của Indonesia 8
Hình 2.2 : Chỉ số chứng khoán Hong Kong sụt giảm 10
Hình 2.3: Chỉ số chứng khoán Hang seng của Hong Kong 10
Hình 3.1: Nhập khẩu của các nước phát triển từ các nước đang phát triển 13
Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng % GDP (1965-1995) của một số nước Đông Nam Á 15
Hình 3.3: Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trước khủng hoảng ở Đông Nam Á 16
Hình 3.4: Hệ thống tiền tệ sụp đổ 18
Hình 3.5: Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á 19
1
Chương 1: Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
1.1. Tổng quan về thị trường tài chính
Khủng hoảng tài chính tiền tệ là một khái niệm có lịch sử hình thành khá dài gắn với
sự ra đời và phát triển của hệ thống tài chính trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN).
Để tìm hiểu về khủng hoảng tài chính (KHTC) ta cần bắt đầu từ các luồng vốn (tiền và vật
có chức năng giống như tiền). Dòng luân chuyển luồng vốn giữa tập hợp của vô số các
mối quan hệ chằng chịt giữa các quỹ tiền (gồm các quỹ tiền tệ do doanh nghiệp nhà nước
lập ra, các trung gian tài chính, các tổ chức, gia đình và cá nhân) tạo nên một hệ thống tài
chính. Vậy ta có thể định nghĩa tài chính là tập hợp các quỹ tiền và giống như tiền cùng
với các mối quan hệ giữa chúng bao gồm cả nội tệ, ngoại tệ với ba chức năng chủ yếu là


thước đo giá trị, phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Giống như tiền tức là
những thứ có đủ ba chức năng chủ yếu của tiền đồng thời phải có khả năng chuyển thành
tiền dễ dàng (có tính thanh khoản).
Vậy khủng hoảng tài chính là gì?
Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng dẫn đến
sụp đổ hệ thống quỹ.
Đặc trưng của mỗi quỹ và cấu thành hệ thống tài chính là các dòng tiền hay giống như
tiền đi vào trừ đi tiền ra, nhận vào trừ đi thanh toán… hình thành tài sản nợ trừ có khi xảy
ra hiện tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số
2
lượng thời hạn, chủng loại tiền (giống như tiền) thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính.
Như vậy khủng hoảng tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi loại
khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải thanh
toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán hay khả năng thanh toán tại một thời
điểm nào đó của các tổ chức tài chính. Chính vì vậy khủng hoảng tài chính thường có đặc
điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng thừa diễn ra trong nền kinh
tế thị trường từ nhiều năm nay.
1.2. Các khái niệm về khủng hoảng tài chính
Khái niệm khủng hoảng tài chính được nhiều nhà kinh tế định nghĩa theo các cách
khác nhau và trên nhiều phương diện nhưng chúng đều mang đặc điểm chung là các tổ
chức tài chính (quỹ) trong tình trạng không có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đang
bị “đòi” của mình.
Khủng hoảng tài chính là tình trạng mà trong đó một bộ phận của nền tài chính có
những khoản nợ lớn hơn giá trị tài sản thực có trên thị trường gây ảnh hưởng tới các cán
cân đầu tư khác, dẫn tới sự sụp đổ của không ít công ty tài chính, dẫn tới việc chính phủ
bắt buộc phải có những can thiệp. (Định nghĩa tham khảo trong cuốn banking cries case:
cases and issues của V. Sundarajan, 1991, paperback).
Khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ của thị trường tài chính mà trong đó do những lựa
chọn bất lợi và tâm lý hoang mang đã trở nên xấu đi, dẫn đến hậu quả thị trường tài chính
không thể có những quỹ hiệu quả cũng như cơ hội đầu tư tốt nhất. (Định nghĩa của

Frederic Mishkin
1
).
1.3. Một số dạng khủng hoảng đặc thù
• Khủng hoảng ngân hàng: rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận
tiền gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số
lượng, thừoi hạn cũng như chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng
hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn
cao làm ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là
một hệ thống chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ
1
Frederic Mishkin sinh ngày 11/01/1951, là một nhà kinh tế Mỹ và là giáo sư tại Trường Columbia Business
school. Ông là thành viên của Hội đồng Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ từ năm 2006 đến 2008.
3
thống ngân hàng. Trong trường hợp khủng hoảng các Ngân hàng thương mại
thường có xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp
rủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp – bạn hàng chủ yếu của ngân hàng vào
tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt động.
• Khủng hoảng nợ quốc gia: trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay
chính thức, vay thương mại) qua nhiều, sử dụng không hiểu quả vốn nên không
trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xoá nợ
thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ (như trường hợp của CHDCND Triều Tiên).
Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều ( Argentina mới đây hay nhiều nước Châu
Phi vừa qua) cùng với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ
nước ngoài trở nên dễ dàng hơn.
• Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa
vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc chính phủ
phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho
nội tệ mất uy tín nhanh chóng.
• Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị

trường, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động
mạnh (“tuột dốc” hay “không thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu
ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị
“đông cứng” vì không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán)
vào so với tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ chứng khoán)
• Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được gọi
là tài khoản) là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng
xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn
bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại
(nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng
cácluồng ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây
nên thâm hụt nặng nề.
• Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại khủng hoảng tài chính ở
trên liên quan tới cả ba mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống như
tiền) thì khủng hoảng tình thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới
thời hạn và chủng loại của “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
4
• Khủng hoảng ngân sách: NSNN thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn
thu bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không
thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất
hiện nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Diễn biến của khủng hoảng tài chính châu Á 1997
Khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh
hưởng đến các thị trường chứng khoán, các trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của
những tài sản khác ở những nước châu Á, trong đó có một số quốc gia được coi như
là "những con h ổ Đông Á ". Cuộc khủng hoảng này cũng thường được gọi là Khủng
hoảng tiền tệ châu Á.

Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi
cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng
bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt
Nam ít bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng
hoảng, song nền kinh tế Nhật phải trải qua những khó khăn kinh tế dài hạn của
chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á,
nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài
chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga,
Brasil và Hoa Kỳ
5
2.1. Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng
năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền
kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu.
Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn
hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi, thâm hụt tài khoản vãng
lai đến 14,7 tỷ USD. Nợ nước ngoài của Thái Lan không ngừng tăng lên, từ mức 35,99 tỷ
USD năm 1991 lên 89 tỷ USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm và bằng 54%
GDP.
Từ đầu năm 1997 đến tháng 3/1997, người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn của
mình ở dạng tiền mặt ra khỏi các ngân hàng và công ty tài chính, buộc chính phủ phải
đóng cửa thị trường chứng khoán ngày 3/3/1997 và yêu cầu mọi tổ chức tài chính phải
tăng thêm dự trữ tiền mặt và công bố 10 công ty tài chính đang ở trạng thái không bình
thường (Unico Housing Co.Ltd; Thai-Fuji; Royal International; Sri Dhana; Eastern
Finace; County…).
Ngày 4 và 5/3/1997: hơn 21,4 tỉ Baht (820 triệu USD) được rút ra khỏi ngân hàng và
công ty tài chính.
Sau đó một tháng, ngày 9/4/1997, tỷ giá hối đoái tăng lên 26,08 Baht/USD, cao nhất
từ 1991.

Ngày 14/5 và ngày 15/5/1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn.
6
Ngày 25/6/1997, chính phủ đã ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính, nâng tổng số
công ty tài chính bị đóng cửa trên toàn quốc lên 56/91(chiếm 64%).
Ngày 30/6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá
baht. Để giữ tỷ giá hối đoái trong điều kiện số lượng ngoại tệ đặt mua tăng vọt, chính phủ
đã phải bán ngoại tệ, làm dự trữ ngoại tệ giảm mạnh từ 37,7 tỷ USD vào tháng 12/1996
còn 31,4 tỷ USD vào 30/6/1997.
Nếu mức độ sụt giảm dự trữ ngoại tệ quốc gia của quý 2/1997 kéo dài thêm khoảng 2-3
quý nữa thì lúc đó dự trữ ngoại tệ quốc gia chỉ còn 10 tỷ USD, bằng 1/3 mức dự trữ ngoại
tệ năm 1996, và chính phủ sẽ buộc thả nổi tỷ giá hối vì hoàn toàn không còn khả năng bán
ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái. Do đó, ngày 2/7/1997 chính phủ Thái Lan tuyên bố thả
nổi đồng Baht, kết quả là đồng Baht ngay lập tức mất giá gần 50%, tỉ giá hối đoái tăng từ
25 Baht/USD vào tháng 6/1997 lên 53Baht/USD vào tháng 1/1998 tức là tăng 112% trong
vòng 6 tháng.
Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn
372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống
còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
Ngày 11/08, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái
Lan.
Ngày 20/08, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
2.2. Indonesia
Tháng 7/1997, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia
đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên
12%.
Tháng 8/1997, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14/08/1997 thì chế độ
tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng
Rupiah liên tục mất giá.
IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar,
nhưng đồng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu USD ở

Indonesia tăng vọt.
Tháng 9/1997, cả giá đồng Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống
mức thấp lịch sử.
Đồng Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc
biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình
đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua USD vào, bán Rupiah ra khiến cho nội tệ thêm mất giá
và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
7
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến
chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình
trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người
bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng
chính trị. Giữa năm 1998, Tổng thống Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa đồng Rupiah và USD vào khoảng 2000 : 1.
Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo USD của Indonesia đã
giảm đi.
Hình 2.1: Tăng trưởng GDP hàng năm của Indonesia.
2.3. Philippines
Tháng 5/1997, Ngân hàng Trung Ương (NHTW) Philippines tăng lãi suất lên 1,75
điểm phần trăm và tiếp tục tăng lên 2 điểm vào tháng 6/1997. Khi cuộc khủng hoảng bắt
đầu diễn ra tại Thailand vào ngày 2/7/1997 thì một ngày say đó, ngày 3/7/1997, NHTW
Philippines buộc phải can thiệp sâu vào thị trường nhằm bảo vệ đồng peso, tăng mức lãi
suất vay qua đêm từ 15% lên 24%. Giá trị đồng peso giảm mạnh từ 26 peso ăn một USD
lên 38 peso vào năm 2000, và lên 40 peso khi kết thúc cuộc khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các
vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số
Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm
từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng

thống.
2.4. Hong Kong
8
Cuộc khủng hoảng nổ tài chính nổ ra chỉ 24 giờ sau khi Vương Quốc Anh trao trả
Hong Kong lại cho Trung Quốc.
Tháng 10/1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo
vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao
hơn ở Mỹ và tình trạng này kéo dài nhiều năm, đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công.
Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương
700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong
đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình.
Tuy giữ được tỷ giá đồng tiền nhưng Thị trường chứng khoán Hong Kong trở nên cực
kỳ bất ổn, chỉ số Hang Seng tụt 23% chỉ trong vòng ba ngày từ 20-23/10/1997.
Ngày 15/08/1998, lãi suất cho vay qua đêm được Hong Kong nâng lên một cách chống
mặt từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ
Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm
áp lực giảm giá cổ phiếu.
Đứng trước sức ép từ hoạt động đầu cơ, Chính phủ Hong Kong đã công khai tuyên
chiến với giới đầu cơ.
Chính phủ đã kết thúc cuộc chiến này bằng việc bỏ ra khoảng 120 tỷ đô-la Hong Kong
(tương đương 15 tỷ USD) để mua lại cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp, trở thành cổ đông
lớn trong một số công ty, chẳng hạn tại HSBC, Chính phủ nắm 10% cổ phần. Sau này, vào
năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar
Hong Kong (khoảng 4 tỷ USD).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của
nước này đã ngừng lại vào tháng 9/1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính
sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị
trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
9

Hình 2.2 : Chỉ số chứng khoán Hong Kong sụt giảm.
Hình 2.3: Chỉ số chứng khoán Hang seng của Hong Kong.
2.5. Hàn Quốc
Vảo tháng 10/1997 cuộc khủng hoảng bắt đầu tại Hàn Quốc – quốc gia có nền kinh tế
phát triển vượt bậc và đứng thứ 11 trong số những nền kinh tế lớn của thế giới. Lĩnh vực
tài chính ngân hàng của Hàn Quốc bị ảnh hưởng trầm trọng nhất.
10
Khi khủng hoảng xảy ra, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các
công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài.
Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra, các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở
quy mô lớn.
Ngày 7/11/1997, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%.
Ngày 24/11/1997 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các
chính sách khắc khổ.
Ngày 28/11/1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody’s đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ
A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11/12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá
chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.với tình trạng kém cỏi sẵn có của hệ thống ngân hàng bắt nguồn từ những
khoản nợ kém hiệu quả rất lớn, Moody's đã hạ bậc tín dụng của Hàn Quốc từ A1 xuống
A3 vào tháng 11/1997 và tiếp tục hạ xuống B2 vào tháng 12. Sự kiện này góp phần làm thị
TTCK Hàn Quốc sụt giảm mạnh hơn, giảm 4% vào 7/11/1997, giảm tiếp 7% vào ngày
8/11 và 7,2% vào ngày 24/11/1997 khi có tin IMF yêu cầu Hàn Quốc thực hiện cải tổ hệ
thống tài chính.
Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD
của Samsung cũng giải thể do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó Daewoo
Motors phải bán lại cho General Motors. Đồng won Hàn Quốc giảm từ 1000 xuống 1700
won đổi một USD. Dù có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện GDP trên đầu người, sau khủng
hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với trước đó.
2.6. Malaysia

Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là quốc
gia nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc KLSE (sàn
giao dịch chứng khoán chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch có hoạt động
mạnh nhất trên thế giới (tổng giá trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE mặc dù có mức
vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều.) Ở thời điểm đó, mọi người đều kỳ vọng quốc gia
này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và trở thành nước phát triển vào năm 2020.
Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE Index đang ở mức 1.200, đồng
ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2,5:1 so với USD, lãi suất qua đêm dưới 7%.
Khi khủng hoảng xảy ra, lãi suất qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh
giá tín dụng tụt xuống và xảy ra làn sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt.
11
Cuối năm 1997, mức đánh giá tín dụng tụt xuống dưới mức bình quân cho các khoản
đầu tư không đảm bảo, KLSE mất 50% điểm, tụt xuống dưới 600, đồng ringgit cũng mất
50% giá trị, còn 3,8 đồng đổi 1 USD.
Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng ringgit mất thêm 4,7% giá trị và KLSE tụt xuống
dưới 270 điểm.
2.7. Nhật Bản
Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh hưởng do là nền kinh tế lớn nhất trong khu vực và lớn
thứ 2 trên thế giới. Nhiều nước Châu Á khác ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương
mại với Nhật Bản. Vào cuộc khủng hoảng, đồng yên Nhật giảm còn 147:1 với USD khi có
những đợt bán ra ồ ạt.
Hàng loạt ngân hàng tại Nhật Bản bị chao đảo, gần 1800 doanh nghiệp bị phá sản, thất
nghiệp tăng lên 4,1%, tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật giảm từ 5% xuống còn 1,6%.
Chương 3: Nguyên nhân và tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á 1997
3.1 Nguyên nhân xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997
12
3.1.1. Các nguyên nhân khách quan
Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút.
Từ năm 1995 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp phát

triển giảm sút dẫn đến cầu cũng suy giảm. Đặc biệt, những nước này lại là những bạn hàng
chủ yếu là đối tác kích thích quá trình tăng trưởng hướng về xuất khẩu chủ lực của khu
vực (điện tử, sợi, dệt) đang đứng trước nguy cơ bão hoà của thị trường thế giới. Năm 1996
thị trường bán dẫn quốc tế suy thoái mạnh, giá vi mạch giảm hơn 80%. Trong khi đó các
sản phẩm điện tử dân dụng của Nhật Bản, các nước NIEs Đông Nam Á giảm lượng bán
hơn 40% ở thị trường thế giới.
Hình 3.1: Nhập khẩu của các nước phát triển từ các nước đang phát triển (tỷ USD&%)
1992 1993 1994 1995 1996 1997
Tổng xuất khẩu 2716 2527, 4 2883, 9 3391, 6 3513 1807, 7
NK tõ các nước đang phát triển.
691, 17 702, 42 812, 39 966, 36 1036, 28 535, 13
Tỷ trọng trong tổng xuất khẩu
25,4% 27,8% 28,1% 28,5% 29,5% 29,6%
Trong đó
Châu Phi 66, 23 58, 5 63, 6 72, 69 80, 07 41
(9,6) (8,3) (7,8) (7,5) (7,7) (7,7)
Châu Á 333, 91 352, 4 413, 53 494, 11 528, 11 267, 11
(48,3) (50,2) (50,9) (51,1) (50,9) (51,6)
Châu Âu 74, 29 80, 65 109, 54 134, 43 135, 94 69, 17
(10,7) (11,5) (12,7) (13,9) (13,1) (12,9)
Trung Đông 84, 11 87, 15 85, 02 93, 07 102, 63 54, 9
(13,6) (12,4) (10,6) (9,6) (9,9) (10,2)
Tây Bán Cầu 122, 62 123, 72 145, 70 172, 06 189, 54 102, 95
(17,7) (17,6) (17,9) (17,8) (18,3) (19,2)
* Chú thích : số liệu trong ngoặc là % trong xuất khẩu của các nước phát triển từ
các nước đang phát triển.
* Nguồn : Direction of Trade Statistics, Dec. 1997
Mặt khác tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam á trước các đối thủ Mỹ và Tây âu
đã giảm sút trước những khu vực năng động và hấp dẫn hơn thị trường Trung Quốc, SGN,
đông âu và thị trường Mỹ Latin. Thậm chí ngay cả đối với Nhật, bạn hàng lớn của Đông

Nam á cũng đang lúng túng về những đồng vốn cho vay quá lớn trước những diễn biến
xấu của thị trường tài chính tiền tệ khu vực. Theo báo cáo của Ngân hàng Deutsch Morgan
G.renFely, hơn một nửa số nợ 70 tỷ USD của Thái Lan là các khoản vay của Nhật và chủ
13
yếu là vay nóng. Do vậy, nếu lãi suất của Nhật tăng thì không chỉ chi phí vay nợ của Thái
Lan tăng mà đồng vốn vào Thái Lan sẽ gây áp lực đối với đồng Peso Philippin và Rupi
Indonesia.
Các hoạt động đầu cơ phá hoại từ bên ngoài.
Theo các nguồn tin nước ngoài cho biết, có rất nhiều nhà đầu cơ trong tổng số 2300
quỹ tín dụng tư nhân ở Mỹ, với số tài sản tổng cộng 100 tỷ USD, đã vào đầu cơ tiền tệ ở
khu vực này trong 2 tháng qua. Ngoài các quỹ do G. Xôrốt kiểm soát còn có các quỹ tín
dụng lớn khác như Tiger, orbics, Puman Panther và Jaguar. Họ mua đồng Baht sau đó lần
lượt mua các đồng Peso, Runggit, Rupi kể cả đồng USD. Theo ước tính, các quỹ nói trên
đã bán ra một lượng đồng bạc Đông Nam Á trị giá từ 10 - 15 tỷ USD. Các quỹ tín dụng
này thường tổ chức lỏng lẻo và có thể đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào trong kinh doanh.
Chúng phải trả lãi suất tiền gửi khá cao, do đó xu hướng lao vào những hoạt động mạo
hiểm mang tính chất đầu cơ. Trong các quốc gia bị ảnh hưởng của nạn đầu cơ thì Thái Lan
và Malaixia là 2 quốc gia bị tổn hại nhiều nhất.
Ngoài ra những tác động can thiệp cứng nhắc và vụ lợi từ bên ngoài cũng là
nguyên nhân khách quan gây ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, là cơ hội hiếm
có cho sự can thiệp sâu rộng và trực tiếp của một số thế lực tài chính quốc tế (đứng đầu là
Mỹ) vào tình hình nội bộ của các nước trong khu vực. Thông qua chương trình cứu trợ
trọn gói dành cho một số nước bị khủng hoảng tiền tệ, có sự phối hợp tham gia của IMF
và nhiều quốc gia chủ chốt, Mỹ muốn hướng chính phủ một số quốc gia tuân theo sự kiểm
soát nghặt nghèo của IMF. IMF đã đưa ra những quy định rất chặt như là những điều kiện
bắt buộc phải thực hiện đối với các nước muốn vay tiền của IMF. Những điều kiện này là :
nâng lãi suất để thu hút tiền gửi và giảm tốc độ tăng trưởng cắt giảm các dự án đầu tư để
giảm nhu cầu ngoại tệ; cân bằng ngân sách nhà nước; giữ lạm phát thấp; đóng cửa các
ngân hàng, công ty tài chính yếu kém; mở của hơn nữa nền kinh tế. Chẳng hạn đối với
Thái Lan, IMF quy định phải đóng cửa tới 58 công ty tài chính, nâng thuế giá trị gia tăng

từ 7% lên 10%, từ 16/ 8/ 1997 đảm bảo dự trữ ngoại tệ ở mức tối thiểu là 25 tỷ USD, giữ
mức thâm hụt tài khoản vãng lai bằng 5% GDP trong năm 1997 và giảm xuống 3 % vào
năm 1998, cắt giảm ngân sách ít nhất là 2, 4 tỷ USD trong tài khoá 1998, bảo đảm tăng
GDP tõ 3 đến 4% trong năm 1997, 1998 và kìm hãm lạm phát dưới 8 % hoặc 9% năm.
IMF cũng đã đưa ra những điều kiện rất ngặt nghèo đối với Hàn Quốc như phải
tăng lãi suất tới 18-20%, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào lĩnh vực tài
14
chính, phải giảm mạnh chi tiêu chính phủ, giảm mạnh cung ứng tiền tệ, chấp nhận để các
cơ quan kiểm toán quốc tế thẩm tra quyết toán của các tổ chức tài chính Hàn Quốc, loại bỏ
3 - 4 ngân hàng lớn có nguy cơ phá sản và 12 ngân hàng thương mại hoạt động kém hiệu
quả trong tổng số 30 ngân hàng thương mại.
3.1.2. Các nguyên nhân chủ quan
Thâm hụt tài khoản vãng lai, nền kinh tế phát triển mất cân đối.
Tính từ trước đến nay, đã có hàng trăm cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ lớn nhỏ
xảy ra ở hầu khắp các châu lục trên thế giới, song phần lớn các cuộc khủng hoảng đó đều
bắt nguồn từ những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô hết sức tồi tệ. Riêng cuộc khủng hoảng ở Đông
Nam Á vừa qua lại có đặc điểm hoàn toàn khác, nó dường như được sinh ra từ chính sự
thành công của khu vực này. Đây là một nghịch lý, nhưng cũng là một sự thật. Bằng
chứng là trong suốt 3 thập kỷ qua (1965 - 1995) hầu hết các nước đang bị khủng hoảng
đều gặt hái được những thành tựu to lớn với tốc độ tăng trưởng cao và liên tục.
Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng % GDP (1965 - 1995) của một số nước Đông Nam Á.
Nước 1965 - 1975 1976 - 1985 1986- 1995
Thái Lan 7, 5 6, 7 9, 3
Indonesia 7, 0 6, 3 6, 6
Malaisia 7, 5 6, 9 8, 7
Philippin 5, 5 2, 5 3, 5
* Nguồn : Võ Thành Hưng " Kinh tế tài chính ASEAN", chuyên đề nghiên cứu
chuyên sâu. Viện NCTC - 1997.
Hơn nữa ngay cả trong những năm gần đây, tình hình kinh tế tài chính của khu vực
này cũng rất khả quan với một hệ thống các chỉ tiêu về kinh tế vĩ mô rất tốt thể hiện ở tốc

độ tăng trưởng, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu tư đều khá cao, lạm phát thấp.
Hình 3.3: Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trước khủng hoảng ở Đông Nam Á

Nước
Tốc độ tăng
trưởng KT
(%/năm)
Tỷ lệ tiết
kiệm
(%/GDP)
Tỷ lệ đầu tư
(%GDP)
Lạm phát
(%/năm)
dự trữ ngoại
tệ (tháng NK)
Thái Lan
1991 - 1995 8, 6 34, 5 40, 9 4, 6 5, 2
1996 5, 5 33, 7 41, 7 5, 9 5, 1
Indonesia
1991 - 1995 7, 8 28, 6 31, 0 8, 9 2, 2
15
1996 8, 0 28, 8 32, 1 7, 9 0, 6
Malaisia
1991 - 1995 8, 7 31, 8 38, 8 3, 6 5, 6
1996 8, 6 36, 6 41, 5 3, 5 4, 6
Philipin
1991 - 1995 2, 2 18, 2 21, 9 10, 5 2, 6
1996 5, 7 18, 8 23, 3 8, 4 2, 8
* Nguồn: Lalpana. The Asian (risis - Macroeconomic Developments and Policy Lesson

Với những thành công như bên, ngay cả trước khi cuộc khủng hoảng bùng nổi một
cách công khai, phần lớn các phân tích, dự báo đều không nghi ngờ gì về tương lai tươi
sáng của khu vực này. Rõ ràng vì quá say sưa với kết quả đạt được, các nước trong khu
vực đã không chú ý đến những nguy cơ tiềm ẩn đằng sau để kịp thời điều chỉnh, ngăn
chặn.
Xét về mức độ, tuy có khác nhau nhưng nhìn chung kinh tế Thái Lan và một số
nước Đông Nam Á tăng trưởng nóng tạo nên tốc độ phát triển kinh tế cao trong thập kỷ
qua đã ngấm ngầm báo hiệu những sự mất cân đối dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng quá nhanh đã tạo nên sức ép đối với giá cả do chi phí tiền lương và các
chi phí đầu vào sản xuất ngày một tăng. Đối với Thái Lan: Chỉ số giá cả tiêu dùng tăng
nhanh, đạt mức 5,9% năm 1996 so với mức 3, 4 % của năm 1993. Do giá cả tiêu dùng
tăng đòi hỏi chính phủ phải tăng lượng tối thiểu trung bình 8,5% năm trong khi đó năng
suất lao động chỉ tăng trung bình 3%/năm. Đặc điểm này cũng diễn ra tương tự ở
Malaixia, Indonexia và Philippin.
Thái Lan và Malaixia đều rơi vào tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức báo
động. Điều này có nghĩa là nền kinh tế Đông Nam Á đã mất cân đối nghiêm trọng đối với
bên ngoài. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan là 8,1% GDP năm 1993, 8,2% năm
1996. Mức thâm hụt tà khoản vãng lai của Malaixia năm 1996 là 9,7% GDP, của
Indonêxia là 4%, Philippin là 3,2% GDP. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Hàn Quốc năm
1996 là 23, 7 tỷ USD.
3.2. Tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ tới hệ thống tài chính của khu vực và
châu Á
3.2.1. Tác động tiêu cực
Trước hết hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nằm
trong khu vực chịu ảnh hưởng của khủng hoảng cũng phải gặp đó là sự mất ổn định của
đồng tiền và thị trường tiền tệ. Sự giảm sút ngiêm trọng vốn nước ngoài đầu tư vào khu
16
vực và sự sụt giảm ngay cả vốn trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả đã làm
giảm sút tốc độ tăng trưởng của các nước, đồng bản tệ bị phá giá gây tăng cao tỉ lệ thất
nghiệp và lạm phát cao.

Mặc dù có đủ khả năng để nâng đỡ đồng tiền của mình, nhưng chính phủ Malaysia
và Singapore đã tỏ ra không thiết tha để thực hiện điều này bởi vì nếu họ can thiệp để ổn
định đồng nội tệ của mình thì giá trị của các đồng tiền này sẽ quá cao so với các đồng tiền
khác trong khu vực và do vậy đã làm giảm khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu. Cuộc
khủng hoảng tài chính ở Đông Nam Á có thể sẽ làm cho các nhà đầu tư của Mỹ và châu
Âu là những người thường có cái nhìn toàn cục sẽ rút vốn của họ để chuyển sang các vùng
ngoài châu Á. Chẳng hạn sang Mỹ, Đông Âu hoặc Mỹ Latinh. Còn các nhà đầu tư châu Á
sẽ chuyển vốn của mình sang các thị trường ngoài Đông Nam Á là nơi ít bị ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính hơn, chẳng hạn như Hồng Kông, Trung Quốc và Ấn Độ.
Khủng hoảng gây ra một tác hại còn lớn hơn lên thị trường chứng khoán, gây
hoang mang, làm thị trường tê liệt và nạn đầu cơ tạo nên những ảnh hưởng xấu cho nền
kinh tế.
Cuộc khủng hoảng gây thiệt hại nặng nề cho các nền kinh tế. Các nước này thiệt hại
ít nhất 300 tỷ đôla và thiệt hại chung trên toàn thế giới là 500 tỷ.
Sự phá giá đồng nội tệ đã làm gia tăng chi phí các khoản nợ, đặt gánh nặng lên các
công ty, làm chúng mất khả năng thanh toán và phá sản. Tình hình “ bong bong bất động
sản” vỡ tung khiến hàng loạt các ngân hàng rơi vào tình cảnh phải gánh chịu những khoản
nợ khó đòi hoặc giữ một lượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó bán hơn. Với sự
mất giá của đồng tiền ĐNA từ 20% đến 50%, khu vực tư nhân nói chung đang có nguy cơ
lỗ nặng ở những khoản vay mượn ngoài.
Khủng hoảng gây gia tăng thất nghiệp, lạm phát tăng cao, giá xăng dầu và các nhu
yếu phẩm tăng cao khiến đời sống của người dân khó khăn. Giá lương thực và các nhu yếu
phẩm khác tăng từ 0,3% đến 1,56% trong khi đó mức tăng của những mặt hàng như nước
giải khát đóng chai, xăng dầu, điện thoại di động, hàng điện tử, xe máy, băng video, sơn
và thép thanh có thể tăng từ 2,72 đến 5%. Một số mặt hàng khác như sữa, dầu ăn, cá, ô tô
chở khách có thể tăng từ 5,5 đến 13,7%. Tóm lại, cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam
Á bắt nguồn từ Thái Lan đã có ảnh hưởng tới toàn khu vực này nói riêng và với châu Á
nói chung, nhưng nó chỉ gây ra bất ổn định tài chính ở những nơi có những mất cân đối
17
nghiêm trọng trong nền kinh tế và các nhà lãnh đạo tỏ ra mất bình tĩnh khi cuộc khủng

hoảng xảy ra
Hình 3.4: Hệ thống tiền tệ sụp đổ.
3.2.2. Tác động tích cực
Cuộc khủng hoảng đã đánh dấu kết thúc một giai đoạn tăng trưởng nhanh, kéo dài
dựa vào vốn nước ngoài để chuyển sang một giai đoạn tăng trưởng ôn hòa hơn.
Việc chuyển qua chính sách tỷ giá linh hoạt thay vì cố định giúp chính phủ giảm
thiểu lượng ngoại tệ can thiệp và giữ mức giá bản tệ và tăng dự trữ quốc gia.Về lâu dài,
đồng ngoại tệ rẻ sẽ thúc đẩy xuất nhập khẩu, cải thiện tài chính đất nước.
Các đồng tiền Đông Nam Á bị phá giá trong hơn hai tháng đã làm cho hàng xuất
khẩu của họ có khả năng cạnh tranh hơn ở các thị trường Mỹ và Nhật Bản, do đó thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu của các nước này. Dấu hiệu phục hồi xuất khẩu đang ở trong tầm tay
của họ. Hầu hết tất cả các nước trong khu vực đã thông báo tốc độ xuất khẩu đang tăng
nhanh trong mấy tháng qua. Tại Philippines, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng 22%.
Trong 7 tháng đầu năm 1997 đạt 13,76 tỷ USD so với 11,27 tỷ USD trong cùng kỳ năm
1996. Tại Singapore, nước có hướng buôn bán chiếm 2/3 nền kinh tế của họ đã có mức
tăng xuất khẩu các hàng hoá phi dầu mỏ là 6,9% trong tháng 7/1997 so với cùng tháng này
năm ngoái, vượt mức 5,5% là mức các nhà phân tích đã dự đoán.
Hình 3.5: Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á.
Đồng Tỷ giá so với USD Mức độ
ngày 1/7 ngày 6/10
18
Baht / USD 25,65 36,37 42%
Rupi / USD 24,75 38,65 56%
Peso / USD 26,37 34,92 32%
MR / USD 2,5 3,38 35%
SGD / USD 1,43 1,548 8,3%
Nhiều quốc gia được nhận các khoản viện trợ và nguồn tín dụng quốc tế sẽ giúp các
quốc gia này hiện thực hóa các chính sách cải cách và phát triển kinh tế sau khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng giúp lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia. Nó được các nhà kinh tế
xem như là một cú “sốc” giúp nền kinh tế trở nên cân bằng và có sức cạnh tranh hơn.

Cuộc khủng hoảng cũng là dịp để các chính phủ cũng như các tổ chức kinh tế tài
chính thế giới nhìn nhận và bổ sung những thiếu sót trong chính sách lẫn con người. Từ đó
tạo nên xung lực tích cực cho nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng tài chính cũng đã vẽ nên bức tranh mới cho thị trường này với
nhưng vị thế mới của Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Nam Á…
19
Chương 4: Tác động của khủng hoảng kinh tế 1997 đến Việt Nam
4.1.Tình hình Việt Nam trước khủng hoảng
Sau giai đoạn mở cửa nền kinh tế với nhiều chuyển biến trong kinh tế và hoạt dộng đầu tư
những năm 1994 – 1996 Việt Nam đang trên đà phát triển và mở cửa hội nhập, kinh tế có
những bước chuyển quan trọng trong nhiều lĩnh vực thì xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính
- tiền tệ khu vực. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ Thái Lan lan sang Hàn Quốc,
Indonesia.
Giai đoạn trước khủng hoảng mặc dù Việt Nam đã mở cửa nhưng chưa phải là hoàn toàn
trong khi tình hình kinh tế pháp luật vẫn còn những đặc điểm sau:
- Luật pháp: chưa có luật Doanh nghiệp thống nhất, vẫn còn phân biệt doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp của tư nhân
- Hệ thống tài chính ngân hàng mới hình thành, có khoảng dưới 20 ngân hàng thương
mại với quy mô nhỏ, hoạt động tín dụng của các NHTM nhà nước chiếm tỷ trọng
lớn.
- Hoạt động kinh tế và đầu tư chưa chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế.
- Đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp vì thị trường chứng khoán lúc này
chưa hình thành.
- Hoạt động xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng chưa cao trong GDP.
- Về mặt tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn trước khủng hoảng tăng
trưởng ở mức cao trong thời kỳ 1995-1997 (trên 6%), vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đăng ký, năm 1995 đạt trên 6,9 tỷ USD, năm 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD.
- Lạm phát nếu năm 1996 ở mức 4,5%, giá USD năm 1995 giảm 0,6%, 1996 tăng
1,2%.
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 1996 ở mức 33,2%. Tốc độ tăng nhập khẩu

nếu năm 1996 còn tăng 36,6%, Độ mở của kinh tế Việt Nam lúc này chưa cao (xuất
khẩu so với GDP mới đạt 30%, đồng tiền chưa chuyển đổi), dầu thô, gạo, xuất khẩu
với khối lượng lớn, do có sự chủ động ứng phó từ trong nước.
Trước tình hình khủng hoảng 1997 nổ ra vẫn có những tác động nhất định đến nền kinh tế
Việt Nam dù cho độ mở của Việt Nam là chưa lớn. Cụ thể
20
4.2 Tác động đối với Việt Nam
Về những tác động cụ thể đến các chỉ số nền kinh tế Việt Nam như sau:
- Tăng trưởng GDP đến năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm 1999 chỉ tăng 4,77%
- Vốn đầu tư nước ngoài thì năm 1997 giảm còn gần 5,6 tỷ USD, năm 1998 còn gần
5,1 tỷ USD, năm 1999 còn gần 2,6 tỷ USD.
- Lạm phát năm 1997 ở mức 3,6%, thì năm 1998 lên mức 9,2%
- Giá USD năm 1997 tăng 14,2%, năm 1998 tăng 9,6%
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 1997 ở mức 26,6%, đến năm 1998 chỉ còn
1,9%. Tốc độ tăng nhập khẩu năm 1997 chỉ còn tăng 4% và năm 1998 giảm 0,8%,
năm 1999 chỉ tăng 2,1%.
Có một số ý kiến cho rằng vì đồng tiền Việt Nam chưa chuyển đổi được, chưa có thị
trường chứng khoán và mới đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế nên mức độ
ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam sẽ là rất nhỏ hoặc không có. Nhưng trái lại, cuộc
khủng hoảng đã có nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta như số liệu cụ thể ở
trên, lý do là ở những điểm sau:
a) Theo các số liệu ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam là với các
nước Đông A', và chủ yếu được thanh toán bằng USD hoặc vàng. Nhưng khi đồng tiền ở
Đông A' bị phá giá mạnh sẽ tác động xấu tới các doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với các
nước Đông A'. Ngoại trừ đồng đô la Singapore và đồng Yên Nhật mới bị mất giá trên dưới
20%, còn các đồng tiền khác trong khu vực đã bị phá giá từ 80% đến 250% so với đồng
USD. Trong khi đó đồng tiền Việt Nam mới chỉ mất giá chút ít, khoảng trên 10% so với
đồng USD. Điều đó sẽ làm cho hàng nhập khẩu từ các nước Đông A' vào Việt Nam với
mức rẻ gần như tương ứng với mức phá giá của đồng tiền các nước. Do đó hàng nhập từ
Đông A' sẽ lấn át hàng nội của chúng ta ngay tại thị trường Việt Nam. Chính điều này đã

khuyến khích các nhà xuất khẩu của Đông A' tăng lượng hàng bán sang Việt Nam, đồng
thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam nhập hàng từ Đông A' do giá rẻ hơn bằng
cả hai con đường chính ngạch và tiểu ngạch (buôn lậu qua biên giới). Hiện nay, các doanh
nghiệp trong cả nước ta còn tồn kho nhiều hàng của Đông A' sẽ bị lỗ nặng vì giá các hàng
hoá này giảm nghiêm trọng.
Đồng thời, do các đồng tiền Đông A' bị phá giá ở mức cao, đã tạo sức ép đối với hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường Đông A' phải giảm giá, nếu không họ sẽ không nhập
hàng của ta. Do vậy nguồn thu vì xuất khẩu sẽ giảm vì hai lẽ : Thứ nhất, giá xuất khẩu hạ
21
thì doanh nghiệp nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu có thể phải ngừng sản xuất vì doanh thu
không đủ trang trải cho các yếu tố đầu vào. Thứ hai, những doanh nghiệp lớn có thể tìm
được thị trường khác khi bị ép giá, nhưng lượng xuất khẩu giảm đi, đồng thời doanh thu
cũng giảm xuống do giá xuất khẩu hạ. Riêng sáu tháng cuối năm 1997, lợi tức của Việt
Nam chỉ tính từ xuất khẩu của mặt hàng nông sản đã bị mất khoảng 500 triệu USD.
Đồng thời, do giá cả dịch vụ, sinh hoạt hiện nay ở Việt Nam đã cao tương đối,nên lượng
khách du lịch vào Việt Nam cũng bị giảm mạnh. Do đó, hệ số sử dụng phòng khách sạn
chỉ đạt xấp xỉ 50%, kể cả các khách sạn cao cấp cũng trong tình trạng như vậy.
b) Do các đồng tiền Đông A' bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tạo ra tình trạng đầu cơ, găm
giữ ngoại tệ ở nước ta. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt
trần gây sức ép phá giá đồng tiền Việt Nam. Tình trạng mua bán USD chuyển khoản theo
tỷ giá vượt trần đã xảy ra. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền gửi bằng đồng
Việt Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết kiệm của dân
chúng. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối nói chung cầu luôn
luôn cao hơn cung, do đó có lúc thị trường gần như đóng băng, doanh số mua bán ngoại tệ
giảm mạnh. Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng nhu cầu vay vốn bằng đồng
Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất đồng Việt Nam. Ngoại tệ
tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được USD hoặc phải mua với
giá cao chịu lỗ nặng.
c) Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt
Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với năm 1996. Đó là do

70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông A', là những nước đang bị ảnh
hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng. Cho nên cũng giống như đối với Trung Quốc, họ
không muốn đầu tư vào nước ta vì nhu cầu khắc phục kinh tế của bản thân nước họ.
d) Sự giảm sút của FDI cùng với nguy cơ phá sản đối với các công ty của Việt Nam do
khả năng xuất khẩu giảm hoặc do chi phí đầu vào tăng vì lãi suất vay vốn tăng và do giá
hàng nhập tăng đã tạo ra nguy cơ thất nghiệp tăng ở nước ta. Chỉ tính trong 3 tháng cuối
năm 1997, riêng các xí nghiệp liên doanh ở thành phố Hồ Chí Minh đã sa thải 4000 công
nhân vì họ phải thu hẹp các hoạt động hoặc bị giải thể do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng. Năm 1997, cả nước có 47 dự án với nước ngoài bị giải thể, tăng 162% so với năm
1996.
22
Tóm lại có thể thấy cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam A' đã có những ảnh hưởng
nghiêm trọng không những đối với nền kinh tế của các nước trong khu vực mà đối với cả
các nước khác trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc và Việt Nam ta. Tuy bị ảnh hưởng không
nhỏ nhưng vì Việt Nam chưa thực sự mở cửa hoàn toàn và nội lực của chúng ta có sẵn khi
nền kinh tế mới bắt đầu chuyển đổi, do đó chúng ta đã nhanh chóng vượt qua và tiến lên
phát triển trong giai đoạn sau năm 1999:
- Tăng trưởng kinh tế cao dần lên, bình quân thời kỳ 2000 - 2007 đã đạt 7,63%/năm
- GDP bình quân đầu người năm 2007 tính bằng USD đã đạt 843 USD, cao gấp gần
2,3 lần năm 1999. Bình quân năm FDI nếu thời kỳ 1998 - 1999 vốn đăng ký chỉ có
trên 3,8 tỷ USD thì thời kỳ 2000 - 2008 đã đạt gần 12,9 tỷ USD và thực hiện đạt 4
tỷ USD; ODA cam kết đạt gần 3,5 tỷ USD, giải ngân đạt 1,75 tỷ USD.
- Xuất khẩu tăng liên tục với tốc độ cao (năm 2008 cao gấp trên 5,4 lần năm 1999,
bình quân 1 năm thời kỳ 2000 - 2008 lên đến 20,7%). So với GDP năm 2008 xuất
khẩu đạt 70%; nhập khẩu đạt 90%; cộng cả xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP lên
tới 160%, thuộc loại cao thứ 3 ở Đông Nam Á và thứ 5 trên thế giới - chứng tỏ độ
mở của nền kinh tế Việt Nam khá rộng.
- Dự trữ ngoại hối tăng khá: nếu cuối năm 2002 đạt chưa được 3,7 tỷ USD, thì đến
cuối năm 2007 đã đạt trên 21 tỷ USD. Lượng kiều hối bình quân năm thời kỳ 2000
- 2008 đạt tỷ USD. Vị thế của Việt Nam đã chuyển sang mở cửa hội nhập đầy đủ

với thế giới, ký hiệp định thương mại Việt-Mỹ, gia nhập WTO.
4.3.Các giải pháp đã thực hiện
Việt Nam đã tiến hành nhiều biện pháp để đối phó với tác động của cuộc khủng hoảng,
trong đó những biện pháp đã được tiến hành cơ bản mang đến thành công cho giai đoạn
phát triển sau này là:
- Xây dựng bộ luật doanh nghiệp 1999, trong đó thống nhất quy tắc ứng xử cho các
doanh nghiệp kể cả nước ngoài và trong nước.
- Bắt đầu xây dựng và hình thành thị trường chứng khoán vào năm 2000
- Kiểm soát chặt chẽ các dòng vốn ra vào.
- Mở rộng các thị trường xuất khẩu sang châu Mỹ, châu Âu và các thị trường khác.
- Kiểm soát hoạt động của các NHTM trong nước, tuy nhiên việc có nhiều NHTM
hình thành và phát triển lên trong giai đoạn này tạo ra rủi ro cho Việt Nam đến hôm
nay.
23
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
24
Lê Vân Anh-“Khủng hoảng tài chính – mô hình lý thuyết và những nguy cơ đối với
Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay” – Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế -
Luật (2008) 55-65.
Nguyễn Xuân Thành-“Khủng hoảng tài chính ở Đông Á- Mô hình khủng hoảng thế hệ
thứ ba” – Giáo trình kinh tế Fulbright.
International Monetary Fund, World Economic Outlook: Interim Assessment,
December 1997
International Monetary Fund, World Economic Outlook, May 1998
International Monetary Fund, World Economic Outlook, October 1998
International Monetary Fund, The IMF’s Response to the Asian Crisis, October 1998
/>International Monetary Fund, Annual Report 1998, Chapter VII, 1998
S. Sugisaki, presentation at the IMF Symposium on Capital Flows and Financial
System
Stability, 8 December 1997 (from the IMF website

@ />International Monetary Fund, Toward a Framework for Financial Stability, January
1997 “East Asia & Pacific”, World Bank Annual Report 1997, 19 September 1997
Bank for International Settlements, 68 th
Annual Report, 1998 OECD, OECD Economic Outlook No. 54, December 1993
“The OECD Economic Outlook Highlights”, The OECD Observer 210,
February/March 1998
Peter Montagnon, “Needed: Another Miracle”, Financial Times, 23 December 1997
Sebastian Edwards, Capital Controls, Exchange Rates and Monetary Policy in the
World Economy, 1995 “The Pacific’s Grim Rim”, Financial Times, 25 October 1997
David Wighton, “Blair Urges Big IMF Overhaul”, Financial Times, 22 September
1998
George Soros, “Avoiding A Breakdown”, Financial Times, 31 December 1997
Lê Vân Anh-“Khủng hoảng tài chính – mô hình lý thuyết và những nguy cơ đối với
Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay” – Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế -
Luật (2008) 55-65.
Nguyễn Xuân Thành-“Khủng hoảng tài chính ở Đông Á- Mô hình khủng hoảng thế hệ
thứ ba” – Giáo trình kinh tế Fulbright.
International Monetary Fund, World Economic Outlook: Interim Assessment,
December 1997
International Monetary Fund, World Economic Outlook, May 1998
International Monetary Fund, World Economic Outlook, October 1998
International Monetary Fund, The IMF’s Response to the Asian Crisis, October 1998
/>International Monetary Fund, Annual Report 1998, Chapter VII, 1998
S. Sugisaki, presentation at the IMF Symposium on Capital Flows and Financial
System
Stability, 8 December 1997 (from the IMF website
@ />International Monetary Fund, Toward a Framework for Financial Stability, January
1997 “East Asia & Pacific”, World Bank Annual Report 1997, 19 September 1997
Bank for International Settlements, 68 th
Annual Report, 1998 OECD, OECD Economic Outlook No. 54, December 1993

“The OECD Economic Outlook Highlights”, The OECD Observer 210,
February/March 1998
Peter Montagnon, “Needed: Another Miracle”, Financial Times, 23 December 1997
Sebastian Edwards, Capital Controls, Exchange Rates and Monetary Policy in the
World Economy, 1995 “The Pacific’s Grim Rim”, Financial Times, 25 October 1997
David Wighton, “Blair Urges Big IMF Overhaul”, Financial Times, 22 September
1998
George Soros, “Avoiding A Breakdown”, Financial Times, 31 December 1997
25

×