Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bài học và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á tại Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á - cuộc khủng hoảng lớn nhất trong khu
vực kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai - đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền
kinh tế trong khu vực và sự tăng trưởng kinh tế thế giới.
Kể từ khi cơn lốc của cuôc khủng hoảng tài chính tiền tệ cuốn theo rất nhiều quốc gia vào vòng
xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị trường đã trở nên ổn
định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các nước vẫn còn phải tiếp tục lịch
trình tái cơ cấu.
Khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu diễn ra vào tháng 7-1997 tại Thái Lan và ảnh hưởng
tới hệ thống tiền tệ thị trường chứng khoán và giá trị các tài sản khác của một vài quốc gia
Châu Á, trong đó có nhiều nước đang được coi là những “chú hổ” châu Á.
Inđônêxia, Hàn Quốc và Thái Lan là những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malayxia, Lào và Philippines cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Trung
Quốc, Ấn Độ, Đài Loan và Singapore thì tương đối không bị ảnh hưởng, Nhật Bản tuy được
cho rằng không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nhưng cũng gặp phải những khó khăn về
kinh tế trong dài hạn và ngày nay dang dần vượt qua.
I.Vậy đâu là những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á?
- Bài học thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính,
Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước không tự do hóa thị trường vốn. Và trong số
những nước đã tự do hóa thị trường vốn, cũng không phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt
nhất những tác động của cuộc khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ thống luật pháp tốt
nhất.
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình trạng quá phụ
thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là các khoản vay ngắn hạn. Cuối
năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân hàng châu Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản
260 tỷ USD và ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới 1 năm.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các khoản nợ ngắn hạn
của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ
chiếm 1% GDP.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện,
vì không hề có các công cụ điều tiết.
- Bài học thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó không trang bị cho
chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù hợp để giám sát việc tuân thủ luật lệ, sẽ
thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh tế của các nước đang phát triển với thị trường vốn quốc tế
mà chưa xây dựng hệ thống luật pháp phù hợp và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm khiết.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm 1997 đã dẫn đến
sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu Á, như Indonesia, Malaysia,
Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu tư dư thừa vào một số ngành kinh tế.
Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí, với cuộc chạy đua sở hữu tòa nhà
cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví dụ. Tệ hơn, việc “thừa tiền” còn châm ngòi cho
sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản, từ đó lại quay lại tình trạng dư thừa tín
dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực của tài sản thế chấp. Kết quả là khi
“bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có tỷ lệ vốn lưu
động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), ở
Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và Singapore (19%), tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tiêu
chuẩn tối thiểu quốc tế.
- Bài học thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ” vì nguồn cơn của
sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm trong tầm kiểm soát trực tiếp của
họ.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không phải chỉ do sự “tắc trách” của người châu Á gây ra.
Ngân khố của hầu hết các nền kinh tế châu Á đều ở mức cân bằng hoặc thặng dư, và không hề
có lạm phát. Cuộc khủng hoảng xảy ra phần nhiều là do những thay đổi về mô hình của hoạt
động trung gian tài chính quốc tế.
Thứ nhất, sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập niên 90 đã làm gia
tăng sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn thế giới. Vì thế, các giám đốc tài
chính buộc phải tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn, thông qua các dự án đầu tư mạo
hiểm.
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò quan trọng trong
sự mở rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở Mỹ, việc thâm hụt ngân sách giảm
xuống trong khi khả năng sản suất tăng lên đã dẫn đến tốc độ lạm phạt giảm và do đó lãi suất
giảm.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi suất ở châu Á cao
hơn, còn các nước châu Á nhận thấy việc vay mượn quy đổi bằng đồng đôla Mỹ hoặc yên
Nhật có lợi hơn là bằng đồng nội tệ.
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn vốn đã gia tăng sức
ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng thêm tình hình thâm hụt thương mại.
Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá đồng tiền, tình hình càng trở nên xấu đi do sự rút vốn đột
ngột của các nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường tài chính châu Á chao đảo.
Liệu điều tương tự có thể xảy ra lần nữa? Câu trả lời là hoàn toàn có thể.
Trong suốt thời gian diễn ra khủng hoảng, đã có khá nhiều thảo luận về việc hình thành một
“kiến trúc tài chính toàn cầu”. Tuy nhiên từ đó đến nay, cái “kiến trúc” đó hầu như không có gì
thay đổi. Vẫn chưa có được những công cụ điều tiết luồng vốn một cách hiệu quả.
Về hành lang pháp lý, đã có nhiều cải tiến kể từ năm 1997. Giờ đây nhiều ngân hàng của châu
Á hoạt động bền vững hơn, với tỷ lệ vốn lưu động tăng lên trong khi tỷ lệ nợ xấu giảm xuống.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên, trình độ quản lý vẫn chưa được cải thiện. Một cuộc điều tra gần đây của Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB) cho thấy trên thực tế, chất lượng ở 4 trong 5 nước bị ảnh hưởng nặng
nhất của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á - Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan -
thậm chí còn có chiều hướng kém đi so với năm 1997, ở 6 thước đo: trách nhiệm quản lý, sự
ổn định chính trị, hiệu quả của chính phủ, chất lượng của hệ thống luật pháp, sự tuân thủ pháp
luật và tình hình kiểm soát tham nhũng.
Luồng vốn chảy vào các thị trường châu Á mới nổi trung bình chiếm 6-7% GDP, cùng mức
với thời điểm trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-98. Tuy nhiên, không như hồi thập
kỷ 90, hiện nay luồng vốn phần lớn là đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài (FDI và FPI)
chứ không phải là đầu tư ngắn hạn.
Dù vậy, giới lãnh đạo tài chính châu Á đã chỉ ra rằng tỷ lệ lãi suất thấp trong suốt một thời
gian dài đã dẫn đến sự phát triển bong bóng của thị trường chứng khoán, bất động sản, thị
trường hàng hóa và hoạt động đầu tư tư nhân. Và như Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đã
cảnh báo, nếu tình trạng mất cân đối trên thị trường tài chính quốc tế không được giải quyết
một cách nhịp nhàng thì nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng.
Nói như nhà soạn kịch Eugene O'Neill, không có hiện tại hay tương lai, mà chỉ có quá khứ cứ
lặp đi lặp lại. Cách nói này có thể hơi cường điệu. Có lẽ sẽ chính xác hơn khi nói rằng lịch sử
luôn lặp lại, nhưng có một chút thay đối. Nếu khôn ngoan và thận trọng, chính phủ các nước sẽ
cố gắng tìm ra sự khác biệt đó để có các biện pháp đề phòng.
II. Tác động và bài học kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính tới Việt Nam
Từ khi “đổi mới” Việt Nam ngày càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế
giới, do đó cũng đã phải chịu những ảnh hưởng nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực 1997. Trên con đường chuyển đổi cơ chế và hội nhập Việt Nam đã đạt được không ít thành
tựu cũng như phải đối đầu với không ít thách thức.
- Tác động tiêu cực:
+ xét về lĩnh vực thương mại: dưới thời kì kế hoạch hoá, Việt Nam kiểm soát chặt chẽ
việc giao dịch thương mại nước ngoài. Tại thời điểm đó, Liên Xô cũ và Đông Âu là
những đối tác thương mại chính của Việt Nam. Tất cả mọi giao dịch đều do các doanh
nghiệp nhà nước thực hiện.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ xuất khẩu: Sau đổi mới năm 1986, xuất khẩu được coi là mục tiêu số một. Rất nhiều
chính sách đã được thi hành. Tự do hoá thương mại bằng việc giảm bớt sự hạn chế của
hệ thống thuế quan và phi thuế quan nhằm khuyến khích người xuất khẩu. Năm 1990,
tỷ lệ tăng trưởng của xuất khẩu đạt 23,5%. Năm 1991, tỷ lệ này giảm xuống -13,2% bởi
sự tan rã của Liên bang Xô viết và Đông Âu, những đối tác thương mại chính của Việt
Nam. Những năm sau, Việt Nam đã tìm kiếm nhiều thị trường xuất khẩu mới, đó là các
quốc gia Đông Á như Singapore, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc. Tốc độ tăng trưởng
thương mại tăng nhanh vượt 30% năm 94, 95, 96. Những con số này có xu hướng giảm
từ năm 94 và giảm mạnh vào năm 97 và 98 do bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng ở Châu Á
vì nước ta chủ yếu dựa vào thị trường này để phát triển xuất khẩu.
+ Về nhập khẩu: tỷ lệ này là 7,3% năm 1990, sau đó giảm xuống -15,1% năm 1991, sau
sự tan rã của Liên Xô cũ và Đông Âu. Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu đã tăng lại và đạt tới
54,4% năm 93. Nhập khẩu tăng mạnh như vậy bởi quá trình phát triển công nghiệp cần
nhiều nguyên liệu và trang thiết bị. Đến năm 94 thì con số nhập khẩu lại giảm xuống vì
nên kinh tế bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính khu vực, giảm xuống 4% năm 97
và -0,8% năm 98.
+ Nguồn vốn FDI: nói chung nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam
phát triển qua 3 giai đoạn khác nhau, từ 1988 đến 1990, từ 1991 đến 1995 và từ 1996
đến nay. Trong giai đoạn đầu từ 1988 đến 1990, nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam
không đáng kể. Chỉ có 37 dự án được cấp phép vào năm 1988 với mức vốn 371,8 triệu
đôla, con số này tiếp tục tăng trong những năm sau, tốc độ tăng trưởng từ 56,6% năm
1989 giảm xuống 44% năm 1990. Giai đoạn hai, được đánh dấu bởi sự tăng lên vượt
bậc của dòng vốn FDI. So với thời kì trước, năm 1991 dòng vốn đạt con số 1322,3 triệu
đôla, tốc độ tăng trưởng của FDI tăng mạnh từ 57,5% lên 63,7% rồi lần lượt là 33,9%;
29,8% và 73,4% trong các năm 1992, 1993, 1994, 1995. Đây là dấu hiệu tích cực cho
thấy những nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tin tưởng viễn cảnh kinh tế Việt Nam.
Nhưng đến giai đoạn ba, từ 1996 đến 1998, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam ngày
càng giảm. Khoản tiền cho các dự án giảm 16% năm 1996, 45,3% năm 1997, 16,1%
năm 1998. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á năm 1997 ảnh hưởng lớn đến dòng
vốn chảy vào Việt Nam và nguồn vốn FDI ở Việt Nam giảm mạnh trong 2 năm 97 – 98.
Từ khi cuộc khủng hoảng nổ ra, các nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt với nhiều khó
khăn tài chính, nhiều người đã phải thu hồi những khoản đầu tư ở nước ngoài, nhiều
người khác không thể đầu tư thêm ra hải ngoại. Việt Nam đã phải chịu ảnh hưởng
nghiêm trọng khi FDI bị rút khỏi đất nước vì chúng ta phụ thuộc nhiều vào các nhà đầu
5