Nhóm 5
Đề tài: Trình bày những hiểu biết về khối EU và đánh giá triển vọng của khối
ASEAN.
Danh sách nhóm:
1. Trần Ngọc Hải
2. Lê Quý Hiển
3. Vũ Minh Huế
4. Lê Quang Hưng
5. Tô Anh Minh (NT)
6. Nguyễn Thị Ngân
7. Phạm Thị Thu Phương
8. Nguyễn Thị Thơm
Bố cục
Mở Đầu
I, Tổng quan về EU
1. Lịch sử hình thành
2. EU là l iên minh kinh tế - tiền tệ
3. Thể chế của EU
II, Tìm hiểu chung về ASEAN
1 Quá trình hình thành và phát triển của ASEAN
2 Giới thiệu chung về AFTA
3 Cơ hội và thách thức
III, Triển vọng của ASEAN
1 So sánh những tương đồng và khác biệt về hội nhập khu vực của EU và
ASEAN.
2 ASEAN học được những bài học kinh nghiệm gì qua sự hội nhập của EU.
3 Triển vọng của ASEAN
Kết luận
Mở đầu
Trong một thời kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới sau chiến tranh có một xu hướng
phát triển có thể dễ dàng nhận ra ngay đó là xu hướng hợp tác quốc tế đối với các nền
kinh tế của các quốc gia trong khu vực hay trên phạm vi toàn thế giới. Biểu hiện rõ nét
nhất của xu hướng này là sự hình thành và phát triển của những tổ chức thương mại, tổ
chức kinh tế mang tính chất quốc tế. Ngoài ra các hiệp định song phương hay đa phương
giữa các chính phủ các nước đóng vai trò quan trọng kịch thích và góp phần đẩy mạnh xu
hướng hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế – nhân tố cơ bản của tiến trình toàn cầu hoá.
Những ví dụ cơ bản nhất cho xu hướng này có thể thấy ngay ở các tổ chức, các hiệp hội
kinh tế hay thương mại như uỷ ban Châu Âu EEC – tiền thân của EU, hiệp hội các quốc
gia Đông Nam á ASEAN với khu mậu dịch tự do AFTA. hiệp ước chung về thuế quan và
thương mại GATT tiền thân của tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngoài ra còn có một
số các tổ chức và các diễn đàn hợp tác kinh tế khác như WP, IMF, OPEC, APEC,
NAFTA…. Mặc dù các tổ chức hay các hiệp ước kinh tế này được lập ra với các mục
đích có thể không hoàn toàn giống nhau nhưng chúng cùng có một điểm chung đó là dựa
trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và mục đích chính là để thúc đẩy và phát triển
kinh tế của nền kinh tế quốc dân bằng cách triệt để khai thác các lợi thế so sánh và tranh
thủ các nguần lực từ bên ngoài hay đẩy mạnh thu hút và khai thác các nguồn lực nội sinh.
Các hình thức liên kết kinh tế quốc tế:
Thỏa thuận mậu dich ưu đãi
Là hình thức lỏng lẻo nhất, thấp nhất.
Các hàng rào mậu dịch đối với các nước thành viên thấp hơn so với các nước
không phải thành viên.
Khu vực mậu dịch tự do
Các hàng rào mậu dịch sẽ được bãi bỏ dần giữa các nước thành viên.
Mỗi thành viên vẫn giữ lại những hàng rào mậu dịch riêng.
VD: EFTA, NAFTA, ASEAN
Liên hiệp quan thuế
Đã đạt trình độ cao hơn “Khu vực mậu dịch tự do” ở chỗ sẽ thống nhất một mức
thuế quan chung.
VD: EEC
Thị trường chung
Cho phép di chuyển tự do lao động và tư bản giữa các nước thành viên.
VD: ECM
Liên hiệp kinh tế
Hình thức cao nhất. chẳng những thống nhất về kinh tế,mà còn thống nhất về tài
chính, về chính trị, về văn hóa.
VD: EU
I,Tổng quan về EU
Liên minh châu Âu (EU – European Union) là một tổ chức liên chính phủ của các
nước châu Âu. Ngày nay Liên minh châu Âu là khối liên kết kinh tế - chính trị có tính tổ
chức trong sự thống nhất cao nhất trong các liên kết của thế giới.
Với gần 500 triệu công dân thuộc 27 quốc gia, các nước trong Liên minh châu Âu
sản xuất gần 30% tổng sản phẩm của thế giới (16.8 ngàn tỉ năm 2007).
1 Lịch sử hình thành:
Lịch sử của Liên Minh Châu Âu bắt đầu từ Đệ nhị Thế chiến. Có thể nói rằng
nguyện vọng ngăn ngừa chiến tranh tàn phá tái diễn đã đẩy mạnh sự hội nhập châu Âu.
Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman là người đã nêu ra ý tưởng và đề xuất lần
đầu tiên trong một bài phát biểu nổi tiếng ngày 9 tháng 5 năm 1950.
Liên minh này được thành lập chính thức bởi Hiệp định Maastricht (chính
thức được phê chuẩn ngày 1 tháng 11 năm 1993) dựa trên nền tảng của một số tổ
chức tiền thân :
• Cộng đồng Than và Thép châu Âu (năm 1951 tại Pari)
• Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC – European Economic Community) năm
1957 với mục tiêu xây dựng thị trường chung châu Âu
Một số Hiệp ước quan trọng có vai trò cột mốc trong việc hình thành và quyết
định đường lối phát triển của Liên minh châu Âu :
Năm Hiệp ước
1948 Brussels
1952 Paris
1957 European Economic Community (Custom union), European
Atomic Energy Community (Corporation in devoloping nuclear)
1958 Rome
1967 Brussels
1987 SEA
1993 Maastricht
1999 Amsterdam
2003 Nice
2009 Lisbon
Các nước gia nhập Liên minh châu Âu theo thứ tự thời gian :
Năm Quốc gia
1957 Bỉ, Tây Đức, Italy, Luxembourg, Pháp, Hà Lan
1973 Đan Mạch, Ireland, Anh
1981 Hy Lạp
1986 Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1995 Áo, Phần Lan, Thụy Điển
2004 Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia,
Malta, Cộng hòa Síp
2007 Romania, Bulgaria
Có thể thấy, giai đoạn từ 1990 mà đặc biệt là trong năm 2004 là một năm quan
trọng đối với liên minh kinh tế - chính trị này khi có hàng loạt nước châu Âu gia nhập,
đáng chú ý hơn, có một loạt các nước trước kia là thành viên của SNG (Cộng đồng các
quốc gia độc lập) từng có quan hệ “thân Nga”. Theo nhiều lý giải, chính việc dỡ bỏ bức
tường Berlin đã tạo ra những điều kiện vô cùng lý tưởng cho liên minh này mở rộng về
phía Đông, nâng cao vai trò của mình trong các vấn đề liên quan đến Nga.
4. EU là l iên minh kinh tế - tiền tệ
Từ khi thành lập, EU đã thiết lập một nền kinh tế xuyên suốt lãnh thổ các thành
viên. Hiện tại một đồng tiền chung đang được sử dụng giữa 16 quốc gia thuộc “Khu vực
đồng Euro” (Eurozone). Được xem như một nền kinh tế thống nhất, EU tạo ra GDP danh
nghĩa là $16.83 ngàn tỉ năm 2007, $18 493.009 tỉ (€12 581 tỉ) năm 2008, chiếm 31% tổng
sản lượng kinh tế thế giới. EU là nền kinh tế lớn nhất thế giới xét về GDP danh nghĩa,
cũng là nhà xuất khẩu lớn nhất, nhà nhập khẩu lớn thứ 2 và là đối tác thương mại hàng
đầu của nhiều quốc gia có tầm cỡ như Ấn Độ, Trung Quốc.
170 trong số 500 công ty hàng đầu thế giới về doanh thu
1
có trụ sở chính tại EU.
Tháng 5/2007, thất nghiệp ở EU là 7%, đầu tư bằng 21.4% GDP, lạm phát 2.2% và thâm
hụt công cộng là -0.9% GDP. Thu nhập bình quân đầu người biến động giữa các nước
thành viên từ $7000 USD tới $69000
2
(Việt Nam là $726).
Trong khối EU :
- Sự lưu chuyển của hàng hóa, vốn (tư bản), con người và dịch vụ là hoàn toàn tự do.
- Một biểu thuế nhập khẩu được áp dụng chung cho tất cả mọi hàng hóa vào thị trường
này.
- Hàng hóa một khi ở trong thị trường đơn nhất này có thể tự do lưu thông mà không chịu
tác động của bất cứ nghĩa vụ hải quan, hạn ngạch nhập khẩu hay thuế phân biệt nào khác.
- Một trong những bước tiến quan trọng nhất phát triển thị trường đơn nhất này là sử
dụng một đồng tiền chung : EURO.
Việc tạo ra đơn vị tiền tệ chung Châu Âu đã trở thành một mục tiêu chính thức của
EU từ năm 1969. Theo Hiệp ước Maastricht 1993 về Liên minh Châu Âu, Ủy ban kinh tế
Châu Âu soạn thảo kế hoạch cho sự ra đời đồng tiền Châu Âu thống nhất năm 1999. Bất
chấp những tranh cãi, đơn vị tiền tệ chung, EURO, đã xuất hiện đúng thời gian định
trước, tháng 1 năm 1999, với 11 trong số 15 thành viên EU lúc đó tham gia trong liên
minh tiền tệ này: Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Ý, Ireland, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào
Nha, và Tây Ban Nha. Đan Mạch, Thụy Điển, và Anh đã chọn không tham gia từ đầu,
còn Hy Lạp không đạt được các tiêu chuẩn về kinh tế theo Hiệp định Masstricht
3
, nhưng
được tham gia vào năm 2000.
Bắt đầu từ 1/1/1999, tỷ lệ trao đổi của các quốc gia tham gia liên minh tiền tệ được
cố định vĩnh viễn theo EURO. Đồng EURO trở thành đơn vị hạch toán. ECB thâu tóm
chính sách tiền tệ từ các ngân hàng trung ương quốc gia, các chính phủ bắt đầu phát hành
1
2
3
nợ bằng đồng euro. Đầu năm 2002, giấy bạc và tiền xu euro đã bắt đầu lưu thông và
trước tháng 6 năm đó, các đồng tiền quốc gia đã được thay thế hoàn toàn bằng euro.
Liệu đồng euro có phải thuốc bổ cho nền kinh tế Châu Âu không và liệu nó có
giúp tăng GDP của EU không vẫn là một câu hỏi mở. Tuy nhiên, động cơ đằng sau liên
minh tiền tệ này có lẽ (theo một số nhà kinh tế) mang tính chính trị nhiều hơn tính kinh
tế. Liên minh tiền tệ sẽ củng cố liên minh chính trị, tạo ra một Châu Âu hợp nhất để có
thể diễn một vai mạnh hơn cả về chính trị lẫn kinh tế trên kịch trường kinh tế thế giới.
Hình 3.2: Tỉ giá USD/EUR giai đoạn 1999-2009
(Nguồn: ECB)
Với sự ra đời của Hệ thống tiền tệ Châu Âu và đồng EURO năm 1999, USD sẽ bị
thử thách gay go để giữ được vị trí là đơn vị dự trữ và thanh toán quốc tế cơ bản. Việc sử
dụng EURO tăng thêm sự thống nhất của thị trường tài chính Châu Âu, giúp nó cạnh
tranh với thị trường tài chính Mỹ. Sự tăng sử dụng đồng EURO trong các thị trường tài
chính sau đó sẽ làm EURO trở nên thích hợp hơn cho các giao dịch quốc tế. Hiện nay
GDP cũng như xuất khẩu của EU đã qua mặt Mỹ, thậm chí còn vượt khá xa . Nếu
European Central Bank có thể đảm bảo lạm phát ở mức thấp thì Euro sẽ thực sự trở thành
một đồng tiền vững chắc, báo hiệu một triển vọng lớn.
Dù vậy, để EURO có thể gặm vào vị trí của USD, EU phải hoạt động như một
thực thể liên kết chặt chẽ về chính trị, để có thể phô trương sức mạnh ảnh hưởng của nó
trên trường quốc tế. Điều này thì lại thật đáng ngờ, và đa số nhà phân tích cho rằng cần
có thời gian dài trước khi EURO đá USD ra khỏi hoạt động giao dịch tài chính quốc tế.
5. Thể chế của EU
- Hội đồng Châu Âu: bao gồm những người đứng đầu nhà nước, chính phủ các
nước thành viên và chủ tịch ủy ban Châu Âu. Hội đồng Châu Âu có nhiệm vụ xác định
những định hướng lớn của EU và đóng vai trò như một diễn đàn chính trị.
- Ủy ban Châu Âu: là cơ quan hành pháp của EU, gồm 20 ủy viên được ủy nhiệm
dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa các nước thành viên và phải được Quốc hội Châu Âu tán
thành. Ủa ban Châu Âu đề xuất lên hội đồng bộ trưởng cấc biện pháp phát triển chính
sách chung và theo dõi việc tôn trọng các hiệp ước.
- Nghị viện Châu Âu: là cơ quan lập pháp của EU. Nghị viên Châu Âu có chức
năng thông qua ngân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, cùng
hội đồng Châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực. Nghị viên cũng có quyền bãi miễn
ủy viên ban Châu Âu.
- Tóa án Châu Âu: Có quyền bác bỏ những quy định của các ủy ban Châu ÂU, văn
phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU.
- Tòa kiểm toán Châu Âu: có chức năng kiểm tra cá khoản tài chính của EU để
đảm bảo tính hợp pháp của các khoản thu chi.
- Ủy ban kinh tế và xã hội: là cơ quan đại diện cho lợi ích của các nhóm người
trong xã hội, có nhiệm vụ tư vấn tới lợi ích của các đơn vị địa phương và khu vực.
- Ngân hàng đầu tư Châu Âu: đảm bảo trách nhiệm cấp phát tín dụng cho các tổ
chức nhà nước, doanh nghiệp và các nước thành viên trên cơ sở nguồn vốn của các nước
thành viên đóng góp hoặc vốn vay quốc tế.
II,Tìm hiểu chung về ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á (Association of Southeast Asian Nations-
ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 bởi Tuyên bố Băng-cốc, Thái Lan, đánh dấu một
mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của khu vực.
1 Quá trình hình thành và phát triển của ASEAN
Từ sau năm 1945, nhiều quốc gia đã ra đời dưới những hình thức khác nhau ở
Đông Nam Á.
Sau khi giành được độc lập, nhiều nước Đông Nam Á đã có dự định thành lập một
tổ chức khu vực nhằm tạo nên sự hợp tác phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ
thuật và văn hóa; đồng thời hạn chế ảnh hưởng của các nước lớn đang tìm cách biến
Đông Nam á thành “sân sau” của họ.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, các trào lưu hình thành “chủ nghĩa khu vực” trên
thế giới đã xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC);
Khu vực Thương mại Tự do Mỹ Latin (LAFTA); Thị trường chung Trung Mỹ
(CACM) Việc thành lập các tổ chức khu vực này đã tác động đến việc hình thành
ASEAN.
Từ kinh nghiệm của EEC, các nước Đông Nam Á đều thấy rằng việc hình thành
các tổ chức khu vực sẽ giúp thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường hợp
tác kinh tế, buôn bán và phân công lao động.
Sau nhiều cuộc thảo luận, ngày 8/8/1967, Bộ trưởng Ngoại giao các nước
Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore và Phó Thủ tướng Malaysia ký tại Bangkok
bản Tuyên bố thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Từ 5 nước thành viên ban đầu, đến nay ASEAN đã có 10 quốc gia thành viên,
gồm Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore, Malaysia, Bruney (năm 1984), Việt
Nam (năm1995), Lào (năm 1997), Myanmar (năm 1997) và Campuchia (năm1999).
ASEAN có diện tích 4,5 triệu km2, dân số khoảng 575 triệu người và tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) đạt 2.487 tỷ USD (ước tính năm 2009).
* Những cột mốc phát triển quan trọng
+ Tuyên bố ASEAN:
Ngày 8/8/1967, tại Bangkok, Thái Lan, Bộ trưởng phụ trách các vấn đề chính trị
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia, Phó Thủ tướng Malaysia, Bộ trưởng Ngoại giao
Philippines, Bộ trưởng Ngoại giao Singapore và Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan đã ra
Tuyên bố ASEAN.
Đây là Tuyên bố thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á với mục tiêu đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa; tăng cường hợp tác, giúp đỡ
lẫn nhau cũng như thúc đẩy hòa bình, ổn định trong khu vực.
+ Tuyên bố về khu vực hòa bình, tự do và trung lập:
Ngày 27/11/1971, tại Kuala Lumpur, Malaysia, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia,
Malaysia, Philippines, Xingapo và Đặc phái viên của Hội đồng Hành pháp Quốc gia Thái
Lan đã ký và công bố “Tuyên bố về khu vực hòa bình, tự do và trung lập ở Đông Nam
Á”- Tuyên bố ZOPFAN.
Tuyên bố quan trọng này đã định ra các mục tiêu cơ bản và lâu dài của ASEAN là
xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hòa bình, tự do và trung lập, không có sự can
thiệp dưới bất cứ hình thức nào của các cường quốc bên ngoài.
+ Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á:
Ngày 24/2/1976, tại Bali, Indonesia, nguyên thủ quốc gia các nước ASEAN ký
Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali).Hiệp ước nhằm thúc đẩy
hòa bình vĩnh viễn, tình hữu nghị và hợp tác lâu bền giữa nhân dân các bên tham gia
Hiệp ước, góp phần tăng cường sức mạnh, tình đoàn kết và quan hệ chặt chẽ hơn giữa các
nước Đông Nam Á.
+ Hiến chương ASEAN:
Từ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 (năm 2004), lãnh đạo các nước ASEAN
đã nhất trí xây dựng bản Hiến chương ASEAN. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 13
(năm 2007), lãnh đạo các nước ASEAN đã ký thông qua Hiến chương ASEAN và ra
Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm hoàn tất việc phê chuẩn Hiến chương trong vòng
một năm.
Ngày 15/12/2008, Hiến chương ASEAN chính thức có hiệu lực sau khi được tất cả
các nước thành viên ASEAN phê chuẩn. Đây là một sự kiện quan trọng, là bước ngoặt
lịch sử của Hiệp hội trong hơn 40 năm hình thành và phát triển.
Hiến chương ASEAN đánh dấu một bước chuyển mình cơ bản của Hiệp hội sang một
giai đoạn mới, trở thành một tổ chức liên chính phủ, có tư cách pháp nhân và hoạt động
dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN; đồng thời, phản ánh sự trưởng thành của
ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của các nước thành viên
ASEAN, nhất là của các vị lãnh đạo, về mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt
chẽ, vững mạnh hơn, để hỗ trợ cho mục tiêu hòa bình và phát triển của cả khu vực cũng
như của từng nước thành viên.
*Hoạt động:
+ Về chính trị-an ninh: Đây là lĩnh vực có nhiều hoạt động hợp tác nổi trội và là
nhân tố quan trọng bảo đảm hòa bình và ổn định ở khu vực. Trước hết, sự hiểu biết và tin
cậy lẫn nhau giữa các nước thành viên ASEAN ngày càng gia tăng thông qua nhiều hoạt
động đa dạng, trong đó có việc duy trì tiếp xúc thường xuyên ở các cấp, nhất là giữa các
vị Lãnh đạo Cấp cao.
ASEAN chủ động đề xướng và tích cực phát huy tác dụng của nhiều cơ chế bảo
đảm hòa bình và an ninh khu vực, như : Tuyên bố Đông Nam Á là Khu vực Hòa bình, Tự
do và Trung lập (ZOPFAN) năm 1971 ; Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á
(TAC) ký năm 1976 và đến nay đã trở thành Bộ quy tắc ứng xử chỉ đạo mối quan hệ
không chỉ giữa các nước Đông Nam Á mà cả giữa các nước ASEAN và các đối tác bên
ngoài; Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) năm
1995 ; Tuyên bố của các bên liên quan về cách ứng xử ở Biển Đông (DOC) năm 2002, là
bước quan trọng tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình và
ổn định trên Biển Đông,
ASEAN khởi xướng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) để tạo khuôn khổ thích
hợp cho ASEAN và các đối tác bên ngoài tiến hành đối thoại và hợp tác về các vấn đề
chính trị-an ninh ở Châu Á-TBD. ASEAN cũng tích cực đẩy mạnh hợp tác với nhau và
với các đối tác bên ngoài thông qua nhiều khuôn khổ, hình thức và biện pháp khác nhau,
nhằm đối phó với những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như khủng
bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, thiên tai, bệnh dịch,
+ Về kinh tế: là lĩnh vực có những bước tiến quan trọng và hiện là động lực đẩy
nhanh tiến trình liên kết khu vực. Đến nay, ASEAN đã cơ bản hoàn tất các cam kết về
hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA), với hầu hết các dòng thuế
đã được giảm xuống mức 0-5%. Tiếp đó, ASEAN đã xác định 12 lĩnh vực ưu tiên hội
nhập sớm để đẩy mạnh hơn nữa thương mại nội khối. Kim ngạch thương mại nội khối
hiện đạt khoảng 300 tỷ USD và chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch thương mại của
ASEAN.
Mặt khác, ASEAN tích cực tăng cường hợp tác kinh tế-thương mại với các
đối tác bên ngoài, nhất là việc đàm phán thiết lập các khu vực mậu dịch tự do
(FTA) với hầu hết các nước đối thoại của ASEAN, như Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôt-xtrây-lia và Niu Di-lân, ….
+ Về văn hóa-xã hội: các hoạt động hợp tác chuyên ngành ngày càng được mở
rộng với rất nhiều chương trình dự án khác nhau trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục-đào
tạo, khoa học – công nghệ, môi trường, y tế, phòng chống ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ
em, HIV/AIDS, bệnh dịch…
Các hoạt động hợp tác này đã hỗ trợ cho các nước thành viên nâng cao khả năng
giải quyết các vấn đề liên quan, đồng thời giúp tạo dựng thói quen hợp tác khu vực, nâng
cao nhận thức và ý thức cộng đồng ASEAN.
6. Giới thiệu chung về AFTA
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á là một dạng thức liên kết thương mại của
ASEAN – Hiệp hội các Quốc Gia Đông Nam Á, ý tưởng thành lập và thực hiện AFTA
được Thái Lan đề xuất tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore tháng 1
năm 1992. Nhằm tiến tới thúc đẩy sự thực hiện AFTA tại hội nghị các bộ trưởng kinh tế
ASEAN (AEM) năm 1992. Các thành viên trong hiệp hội đã thống thất ký hiệp định thực
hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT.
Việc thành lập AFTA và thực thi hiệp định CEPT đương nhiên cũng chịu một số
ảnh hưởng do bối cảnh lịch sử tạo ra. Trước hết đó là do trên thế giới , xu hướng toàn cầu
hoá đang diễn ra một cách sâu rộng tác động mạnh mẽ tới mọi quốc gia, mọi nền kinh tế,
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là tới lĩnh vực thương mại – kinh tế, dịch vụ và
đầu tư. Sự ra đời của nhiều tổ chức liên kết và liên minh kinh tế với những thoả thuận
thương mại khu vực hay song phương như EU ở Tây Âu, NAFTA của khu vực Bắc Mỹ
là một thách thức không nhỏ đối với tăng trưởng của ASEAN. Trong khu vực, xu thế hoà
bình và hữu nghị đang là xu hướng chung cùng cới xu hướng chung của thời đại, đó là xu
hướng hoà bình, đối thoại và hợp tác. Cùng với những nguyên nhân tồn tại đó là các đòi
hỏi và các yêu cầu của các nền kinh tế trong khu vực, sự tác động mạnh của tình hình thế
giới, sáng kiến thành lập AFTA có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng nó vừa là một giải
pháp tình thế vừa là một bước đi chiến lược nhằm tạo ra một khối thống nhất về thương
mại mạnh hơn rộng hơn trong môi trường thế giới mới.
Với việc thành lập AFTA, mục đích chính của các nước thành viên là nhằm thúc
đẩy sự hợp tác kinh tế, trao đổi buôn bán trong khu vực, tạo sức cạnh tranh cao trên thị
trường thế giới. Từ đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nâng cao năng lực
sản xuất hàng hoá và bổ xung nguần lực giữa nền kinh tế của các nước thành viên, nâng
cao khả năng thích ứng một cách chủ động với những thay đổi về điều kiện chung của
tình hình thế giới nói chung và tình hình thương mại nói riêng, thúc đẩy sự phát triển của
ASEAN và các nước thành viên.
Để xây dựng thành công AFTA cũng như thực thi hiệp định CEPT. Các thành viên
tham gia AFTA phải thực hiện một số quy định mang tính chất nguyên tắc như sau:
• Cam kết cắt giảm các loại thuế nhập khẩu cho hàng hoá nội bộ ASEAN đạt
mức thuế xuất từ 0 → 5% sau 15 năm.
• Thoả thuận và loại bỏ các hạn chế về định lượng, các hàng rào phi thuế
quan vốn là nhân tố cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực và thế
giới.
7. Cơ hội và thách thức
a. Cơ hội
Thứ nhất, ASEAN nằm trong khu vực có các nền kinh tế phát triển năng động nên
có điều kiện đẩy mạnh hợp tác kinh tế trong khu vực. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế
cao của Trung Quốc và Ấn Độ trong nhiều năm qua ở mức liên tục ở mức 9-10%/năm,
các nền kinh tế ASEAN cũng có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao hơn tỷ lệ trung bình thế
giới, ở mức 5,9% so với 5,1% tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình của thế giới năm 2006.
Chỉ trong vài năm qua, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành đối tác thương mại lớn
nhất của hầu hết các nước ASEAN. Một số nước ASEAN còn tranh thủ được nguồn đầu
tư tăng lên của Nhật Bản do Nhật Bản áp dụng chiến lược “Trung Quốc+” để tăng đầu tư
vào ASEAN nhằm tránh rủi ro của việc quá tập trung hợp tác với Trung Quốc.
Hai là, nhờ sự phục hưng của Châu Á, giá trị địa chiến lược, chính trị và kinh tế
của ASEAN tăng lên. Các nước lớn ngoài khu vực coi ASEAN là một cửa ngõ để xâm
nhập và phát huy ảnh hưởng của mình tại Châu Á cả về kinh tế, chính trị và an ninh.
Lợi thế của ASEAN là khác với EU, đến nay ASEAN rất thành công trong việc
tạo các cơ chế hợp tác giữa khu vực với các đối tác bên ngoài. Chẳng hạn diễn đàn khu
vực ASEAN (ARF) do ASEAN tạo lập là cơ chế đối thoại an ninh duy nhất đã thu hút sự
tham gia của hầu hết các cường quốc trên thế giới như Mỹ, EU, Nhật, Nga, Trung Quốc,
Canada, Úc, New Zealand v.v Cơ chế này có vai trò tích cực trong việc duy trì hòa bình
và ổn định ở khu vực Châu Á. Hiệp định Thân thiện và Hợp tác (TAC) của ASEAN còn
thu hút được sự tham gia của Ấn Độ, Úc, New Zealand, Trung Quốc. EU gần đây cũng
bày tỏ ý định tham gia vào hiệp định TAC. Như vậy, mặc dù không có sức mạnh vật chất
như Trung Quốc và Nhật Bản trong khu vực, nhưng sức mạnh mềm, hay nói cách khác là
các sáng kiến, cơ chế ngoại giao và giá trị của ASEAN đã được các nước bên ngoài khu
vực ghi nhận và sử dụng.
Ba là, ASEAN sẽ có lợi từ quá trình cải cách các thể chế quốc tế hiện nay nhằm
thể hiện vai trò và vị trí đang lên của Châu Á. Qủa thực cơ cấu thể chế quốc tế hiện nay
chưa thể hiện được vai trò của Châu Á. Chẳng hạn, vẫn như trước đây, người đứng đầu
các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới và Qũy tiền tệ quốc tế phải là người Mỹ và
người Châu Âu cho dù sức mạnh kinh tế của các nước Châu Á đã khác trước. Cơ chế G7
không có sự tham gia chính thức của Trung Quốc, Ấn Độ như hiện nay cũng khó có thể
quản trị tốt được mọi vấn đề quốc tế. Trong tương lại không xa, các tổ chức và cơ chế
quốc tế sẽ cần phải được cải tổ lại theo hướng trao quyền quản trị các vấn đề khu vực và
thế giới cho các nước Châu Á. ASEAN chắc chắn sẽ được hưởng lợi từ xu hướng này và
sẽ có ảnh hưởng ngày càng lớn trong các vấn đề quốc tế. Thực tế, với việc lập cơ chế
ASEAN+3 và đi đầu trong việc thiết lập cơ chế Hội nghị thượng định Đông Á như thời
gian vừa qua, ASEAN cho thấy năng lực thiết lập cơ chế quốc tế để quản trị các vấn đề
toàn cầu.
b. Thách Thức
Thách thức lớn nhất của ASEAN là tìm lại vai trò và ảnh hưởng của một tổ chức
khu vực đối với khu vực và đối với từng thành viên mà nó đã từng có nhưng bị mai một
đi trong thời gian gần đây bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Vấn đề đặt ra hiện nay đối
với ASEAN là vừa phấn đấu để trở nên có ích hơn đối với tất cả các thành viên, vừa mở
rộng hợp tác với bên ngoài. Cái khó đối với ASEAN trong việc xử lý vấn đề này là phi
kết hợp giữa duy trì các nguyên tắc hoạt động vốn đã trở thành bản sắc và cội nguồn sức
mạnh của ASEAN một thời với việc tranh thủ đối tác bên ngoài, tạo thế và tạo giá trong
hợp tác với các đối tác bên ngoài.
Thách thức lớn đối với ASEAN hiện nay là một số nước thành viên gặp phải khó
khăn nội bộ đã gây ảnh hưởng đến tốc độ liên kết và mức độ hợp tác trong Hiệp hội. Sự
ưu tiên đối nội khác nhau ở các thành viên dẫn đến việc không ít dự án và chương trình
hợp tác và liên kết đã được thông qua, nhưng lại bị trì trệ trong triển khai thực hiện và
không ít nước thành viên đã tìm kiếm những lối đường đi riêng rẽ có lợi cho chính mình
nhiều hơn có lợi cho Hiệp hội. Hay nói cách khác, chưa khi nào mà sự gắn kết nội bộ,
đoàn kết và đồng thuận trong Hiệp hội lại bị đe doạ như hiện tại.
Thách thức lớn đối với ASEAN cũng còn đến từ chính các đối tác đối thoại của
ASEAN. Nó đặt ASEAN trước sự cần thiết phải vừa tăng cường sự hợp tác này, mở rộng
ra thêm nhiều lĩnh vực, nhưng đồng thời phải giữ vai trò chủ động thì mới có thể tranh
thủ được cái thuận và hạn chế được tác động bất lợi đối với ASEAN cũng như đối với
một số thành viên. Chính sách hai mặt của các đối tác này đối với ASEAN luôn bao hàm
ý đồ gây phân rẽ trong nội bộ ASEAN, hoặc ít nhất giữa một số thành viên nhất định, để
từ đó tạo dựng vai trò và ảnh hưởng.
Thách thức lớn đối với ASEAN còn là những thách thức đến từ môi trường chính
trị và an ninh thế giới. Khủng bố, toàn cầu hoá và những nguy cơ an ninh phi truyền
thống đòi hỏi ASEAN phi có cách tiếp cận mới trong việc gắn sự phát triển năng động và
lâu bền của Hiệp hội với việc quan tâm giải quyết những nguy cơ mới đó. Đã đến lực
ASEAN không chỉ phải thể hiện có tác dụng thiết thực đối với các thành viên của nó, mà
còn phải đóng vai trò xứng đáng trong mọi mặt đời sống của khu vực và thế giới.
III, Triển vọng của ASEAN
1 So sánh những tương đồng và khác biệt về hội nhập khu vực của EU và
ASEAN.
1.1. So sánh mục tiêu, nguyên tắc hội nhập
EU ra đời năm 1951 đến nay, đã trải qua 6 lần mở rộng. Còn ASEAN ra đời năm
1967 đã trải qua 4 lần mở rộng. Xét về trình độ phát triển, 2 liên minh này rất khác nhau
cả về dân số và diện tích ASEAN đều lớn hơn EU, nhưng qui mô nền kinh tế (GDP) của
EU lại lớn gấp 12 lần ASEAN, và GDP/đầu người của EU cũng lớn gấp 12 lần ASEAN.
* Mục tiêu khi thành lập EU được đề ra là bảo đảm hoà bình bền vững cho châu
Âu, giải quyết cơ bản mâu thuẫn của 2 cường quốc Đức và Pháp, tăng cường hợp tác
kinh tế, liên kết các ngành sản xuất cơ bản của 2 nước này và 4 nước đồng minh khác là
Bỉ, Italia, Hà Lan, Lucxămbua là than và thép vào một cơ quan điều phối chung. Như thế
sự thống nhất châu Âu được thực hiện bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, thương mại và trong
một thị trường chưa rộng.
Còn mục tiêu thành lập của ASEAN rất khác với EU, đó là các nước ASEAN luôn
tỏ rõ tình đoàn kết với Mỹ chống cộng sản. Thời kỳ đầu, 5 nước ASEAN đã luôn luôn
đứng về phía đồng minh Mỹ chống lại Việt Nam và các nước XHCN khác như Trung
Quốc, Liên Xô. Ngoài ra, sự thành lập ASEAN còn có mục tiêu nữa là hợp tác chống lại
tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Như thế là mục tiêu chính thành
lập ASEAN là nhằm vào an ninh, chính trị theo xu hướng chống đối nhau, chịu sự ảnh
hưởng sâu sắc của cuộc chiến tranh lạnh.
* Về nguyên tắc hội nhập EU xây dựng trên nguyên tắc liên bang, sự liên kết hội
nhập được bắt đầu từ kinh tế, dần dần chuyển sang chính trị; xây dựng các thể chế chung
vững chắc, đồng thời giữ vai trò hạt nhân, bản sắc dân tộc của các nước thành viên, trên
cơ sở luật pháp vững vàng.
Còn các nước ASEAN đề ra nguyên tắc hội nhập kiểu hợp bang, lỏng lẻo về xây
dựng thể chế, giữ vững vai trò độc lập của các nước thành viên, theo nguyên tắc đồng
thuận, bắt đầu từ liên kết về an ninh, chính trị, sau đó dần dần chuyển sang liên kết kinh
tế, văn hoá, xã hội, nhưng chưa đạt được những hiệu quả vững chắc.
Mục tiêu và nguyên tắc liên kết của 2 tổ chức khu vực này đã dần dần được điều
chỉnh theo hướng phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, hợp tác và phát triển của thế giới. Các
nước EU ngày càng liên kết chặt chẽ có hiệu quả và sâu sắc hơn, còn các nước ASEAN
đã tích cực điều chỉnh theo xu hướng xây dựng một liên minh chính trị, kinh tế, văn hoá -
xã hội vững chắc, sự liên kết ngày càng có hiệu quả, sâu sắc, chặt chẽ hơn, chiếm địa vị
cao và có uy tín trên trường quốc tế.
1.2. So sánh về trình độ và mức độ hội nhập
Có thể thấy, 2 khu vực EU và ASEAN cùng tiến hành liên kết, hội nhập nhưng
ngay từ thời điểm xuất phát, trình độ phát triển trong từng khu vực đã có sự chênh lệch
nhau khá rõ. Thời điểm năm 1951, khi 6 nước châu Âu cùng nhau thành lập Cộng đồng
Than - Thép châu Âu (ECSC) thì trình độ phát triển của những nước này đã là rất cao so
với mức độ chung của thế giới. Sau này qua 6 lần mở rộng, tuy trình độ phát triển của EU
27 có chênh lệnh, không đồng đều, đặc biệt ở những nước thành viên mới gia nhập lần 5
và 6, bao gồm các nước XHCN cũ ở Đông và Trung Âu, song so với trình độ phát triển
chung của thế giới, các nước này vẫn xếp vào loại trung bình, thậm chí trình độ của họ
thuộc loại các nước OECD (trường hợp của CH Séc, Hunggari…).
Trái lại, các nước ASEAN, xét về kinh tế, trình độ phát triển vào thời điểm ra đời
(1967) nói chung thuộc loại thấp so với mặt bằng chung trên thế giới. Đồng thời, đến nay,
trình độ phát triển là rất khác nhau. Tại 5 nước thành viên sáng lập là Thái Lan, Malaisia,
Inđônêxia, Philippin thu nhập hiện nay khoảng 2.400-3000 USD/người. Còn 5 nước còn
lại, trong đó có Brunei có thu nhập rất cao nhờ xuất khẩu dầu lửa, trong 4 nước còn lại là
Việt Nam, Mianma, Campuchia, Lào bình quân thu nhập hiện nay chỉ khoảng 600-1000
USD/người. Như vậy, khoảng cách phát triển thể hiện trong thu nhập giữa 5 nước thành
viên cũ và 4 nước thành viên mới là rất khác nhau, cách nhau khoảng từ 3 - 4 lần.
1.3. So sánh về các thiết chế
Các thiết chế của EU giống như ASEAN, ban đầu khá đơn giản. Sự khác nhau
giữa hai bên về cơ cấu là đương nhiên và do những nhân tố đặc thù qui định.
Nhìn về thiết chế bộ máy của EU và ASEAN, thấy rằng sự khác biệt không phải ở
cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ, mà ở tính chất của toàn hệ thống. Trong khi hệ
thống tổ chức của ASEAN gồm những cơ cấu có sự tham gia của mỗi nước thành viên
đại diện cho quyền lợi của nước mình, thì hệ thống tổ chức của EU không chỉ có vậy, nó
còn được thiết kế và tuân thủ theo nguyên tắc tam quyền phân lập của một nhà nước siêu
quốc gia. Đại diện cho các thành viên trong cơ cấu tổ chức không chỉ có tiếng nói vì lợi
ích riêng của nước mình, mà nó còn hoạt động như một thành viên của một thiết chế ngày
càng mang tính chất siêu quốc gia.
8. ASEAN học được những bài học kinh nghiệm gì qua sự hội nhập của EU.
Thứ nhất, EU là mô hình liên kết, hội nhập mang hai dạng thức vừa Liên bang
(liên kết xây dựng nhà nước siêu quốc gia) vừa hợp bang (liên kết giữa các quốc gia có
chủ quyền), trong đó chất liên bang nhiều hơn; Còn ASEAN thì ngược lại. Vì vậy, việc
học tập mô hình liên kết của EU, các nước ASEAN cần nhất thiết không học tập máy
móc, phải có tính đặc thù của mình. Tuy vậy, cần phải nghiên cứu bổ sung những điều
mà EU đã làm được, đặc biệt là kinh nghiệm xây dựng ngôi nhà chung EU về hiến pháp
(hiến pháp chung EU), trội về kinh tế (các bước phát triển từ thị trường chung, hải quan
chung, liên minh kinh tế, tiền tệ, đồng tiền chung…), về chính trị, an ninh (chính sách an
ninh và đối ngoại chung…).
Thứ hai, để đi đến một thị trường chung như EU, ASEAN chắc chắn sẽ phải khắc
phục một số vấn đề, như: sự khác biệt về trình độ phát triển. Không thể có một thị trường
chung vận hành một cách thông thoáng nếu trình độ phát triển còn quá chênh lệch. Do
đó, nhiệm vụ của ASEAN trong thời gian tới là thu hẹp khoảng cách phát triển đó. Việc
này sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với EU. Nhiệm vụ thứ hai ASEAN cần khắc phục trong
thời gian tới là sự hợp tác nội Khối còn quá ít.
Thứ ba: do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
(năm 2008), đặc biệt từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu (cuối năm 2009) đến nay,
EU đã bộc lộ rõ những khuyết tật trong cấu trúc mô hình, tổ chức, vận hành cả về chính
trị, kinh tế, xã hội. Đó là những mâu thuẫn giữa thiết chế và vận hành của nhà nước siêu
quốc gia EU với 27 nước thành viên. Đó là sự mâu thuẫn giữa đảng cầm quyền và các
đảng phái đối lập ở 27 nước thành viên. Những mâu thuẫn kể trên trong cơ cấu tổ chức,
mô hình phát triển, vận hành của Liên minh châu Âu hiện nay sẽ là những bài học đắt giá
cho các nước ASEAN trong hội nhập khu vực của mình trong tương lai.
9. Triển vọng của ASEAN
Thực tế cho thấy, hầu hết các nước ASEAN đã và đang trải qua thời kỳ tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ trong hơn 25 năm qua. Ngay cả Philippines, quốc gia cuối cùng
trong nhóm các nước thu nhập trung bình trong khu vực, cũng đang duy trì đà tăng
trưởng với nhịp độ có thể là gấp đôi thu nhập bình quân đầu người trong một thập niên
qua.
Trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng cao của Trung Quốc đang chậm lại và giá nhân
công tăng nhanh, Ấn Độ vất vả tìm cách tái phát triển kinh tế, ASEAN đang có cơ hội để
tỏa sáng hơn nữa với tư cách là một điểm đến đầu tư, một cơ sở sản xuất và một thị
trường tiêu thụ, tiến tới giai đoạn tăng trưởng cao bền vững mới cho khu vực. Để đạt
được điều này, ASEAN cần phải tăng tốc hơn nữa quá trình trở thành một điểm đến được
ưa thích, cũng như thúc đẩy khả năng hội nhập, cạnh tranh, năng động, toàn diện và linh
hoạt hơn nữa.
Trước tiên, triển vọng về một thị trường ASEAN hội nhập đang là một cân nhắc
ngày càng quan trọng đối với những tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào các nền kinh tế
trong khu vực. Sự hội nhập lớn hơn phụ thuộc cơ sở hạ tầng tốt, sự kết nối thể chế và gắn
kết pháp luật trong khu vực.
Thứ hai, một ASEAN năng động và cạnh tranh hơn cần phải được gắn kết hơn nữa
với các mạng lưới sản xuất ở Đông Á và thế giới. Chẳng hạn như giờ đây, khi lợi thế lao
động vượt trội của Trung Quốc với tư cách là nhà cung cấp toàn cầu về hàng hóa lắp ráp
hoàn chỉnh và trung gian đang bị thu hẹp, ASEAN có cơ hội để khai thác khoảng trống
này.
Ngoài ra, để tăng chuỗi giá trị và vượt qua cái bẫy thu nhập trung bình, việc củng
cố phát triển công nghệ và năng lực đổi mới đi sau nguồn vốn nhân lực tốt hơn cũng có ý
nghĩa quan trọng.
Cuối cùng, một ASEAN toàn diện và linh hoạt đòi hỏi việc tăng trưởng cao không
nên làm chênh lệch thu nhập tồi tệ hơn.
ASEAN sẽ phát triển nhanh chóng nhưng không thể như EU được vì:
Trên cơ sở phân tích các nhân tố tác động đến triển vọng của ASEAN trong 10-15
năm tới, dự báo khả năng hiện thực nhất là ASEAN sẽ chuyển hóa dần từ một Hiệp hội
khá lỏng lẻo thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ có mức độ ràng buộc pháp lý cao
hơn và liên kết sâu rộng hơn, nhưng không trở thành một tổ chức siêu quốc gia; sẽ trở
thành một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết hơn, một cộng đồng “thống nhất trong đa
dạng”; tiếp tục là một tổ chức hợp tác khu vực mở và có vai trò quan trọng ở Châu Á -
Thái Bình Dương.
Liên kết ASEAN sẽ sâu rộng hơn, nhưng mức độ liên kết sẽ không đồng đều trong
ba lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội, do sự đa dạng khá lớn giữa các
nước thành viên, nhất là về khoảng cách phát triển, chế độ chính trị - xã hội cũng như
những tính toán chiến lược và lợi ích quốc gia.
KẾT LUẬN
Những chuyển biến của thế giới khi bước vào thế kỷ XXI đã đặt ra cho ASEAN
những thách thức to lớn, trong đó sức hấp dẫn của ASEAN ngày càng gặp phải sự cạnh
tranh của các tổ chức và khu vực khác. Cơ chế hợp tác linh hoạt và mềm dẻo tạo nên sự
thành công cho các nước ASEAN suốt hơn 4 thập kỷ qua thực sự chịu những thách thức
to lớn khi nhu cầu phát triển kinh tế và hội nhập, đòi hỏi ASEAN phải hợp tác, liên kết
gắn bó với nhau mạnh mẽ hơn. Thông qua những bậc thang liên kết hội nhập khu vực của
EU và những cải cách thể chế chính trị ở cấp độ EU qua từng giai đoạn liên kết hội nhập
khu vực từ thị trường chung, thị trường đơn nhất đến liên minh kinh tế - tiền tệ và xây
dựng Hiến pháp chung là những kinh nghiệm quan trọng nhằm tạo cho những nước thành
viên ASEAN có thể cùng nhau xây dựng mô hình thể chế phù hợp với sự đa dạng văn
hoá và dân tộc của các nước thành viên.