Lời cảm ơn!
===**===
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Giáo dục Mầm non,
Phòng Sau Đại học, Ban quản lý Kí túc xá, Thư viện trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên
cứu tại trường.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
PGS. TS Nguyễn Thị Như Mai đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt những
kiến thức bổ ích, dìu dắt em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, toàn thể giáo viên, các cháu mẫu
giáo 4 - 5 tuổi trường mầm non An Thịnh và trường mầm non Hoa Hồng, Thị
trấn Mậu A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã giúp tôi hoàn thành luận văn
này.
Chân thành cảm ơn tất cả bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, con xin chân thành cảm ơn gia đình đã luôn ủng hộ, động
viên con trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng… năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thủy
MỤC LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐC : Đối chứng
ĐCTTN : Đối chứng trước thực nghiệm
ĐCSTN : Đối chứng sau thực nghiệm
ĐHSP : Đại học sư phạm
ĐHQGHN : Đại học quốc gia Hà Nội
ĐTBC : Điểm trung bình chung
HĐVC : Hoạt động vui chơi
GV : Giáo Viên
MG : Mẫu giáo
MN : Mầm non
MĐ : Mức độ
TB : Trung bình
TC : Tiêu chí
TN : Thực nghiệm
TNTTN : Thực nghiệm trước thực nghiệm
TNSTN : Thực nghiệm sau thực nghiệm
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi con người phải vươn lên, tìm cách
khẳng định mình. Muốn vậy trước hết phải tự tin. Tự tin rất quan trọng đối
với mỗi con người, là tiền đề đầu tiên giúp ta chiến thắng mọi khó khăn đi đến
thành công.
Tính tự tin là phẩm chất nhân cách quan trọng có giá trị nhân văn được
hình thành trong quá trình hoạt động của con người. Nó có ở mọi người, mọi
lứa tuổi với mức độ và đặc điểm riêng. Tự tin là điều kiện đảm bảo cho con
người phát huy cao độ mọi tiềm năng của bản thân, thích nghi với điều kiện
biến đổi của tự nhiên, xã hội. Một đứa trẻ tự tin được giáo dục tốt, sẽ là một
công dân gương mẫu tính cực của xã hội sau này. Có thể nói tính tự tin càng
phát triển thì con người càng thành công trong cuộc sống.
Giáo dục học mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc
dân đã xác định mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ: Cần phát triển một số nét giá
trị, nét tính cách phẩm chất cần thiết phù hợp với lứa tuổi như: mạnh dạn, tự
tin, độc lập, sáng tạo linh hoạt, tự giác, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham
gia vào cuộc sống chuẩn bị tốt cho việc học tập ở lớp 1 và bậc học sau này có
kết quả Chính vì vậy mà việc giáo dục tính tự tin cho trẻ ngay từ bậc học
mầm non là rất quan trọng và cần thiết.
Trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi đang hình thành nhân cách, tính tự tin là một
trong những phẩm chất nhân cách cần được quan tâm, hình thành ở trẻ ngay
từ nhỏ, để chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường phổ
thông, đúng theo định hướng đổi mới giáo dục mầm non hiện nay. Có rất
nhiều con đường để giáo dục tính tự tin cho trẻ nhưng với ưu thế là hoạt động
chủ đạo của tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi giữ vai trò quan trọng trong sự
1
hình thành và phát triển tâm lý nhân cách trẻ đồng thời là phương tiện giáo
dục thuận lợi và có hiệu quả để giáo dục tính tự tin cho trẻ.
Thực tiễn giáo dục mầm non hiện nay, việc giáo dục tính tự tin cho trẻ
chưa được quan tâm đầy đủ. Giáo viên chưa thực sự quan tâm tới phẩm chất
này, nhiều giáo viên không chú ý giáo dục tính tự tin cho trẻ mà đôi khi còn
gắt gỏng với trẻ không cho trẻ được tự tin bày tỏ ý kiến, mong muốn của
mình. Giáo viên thường áp đặt trẻ, trẻ không được chủ động trong khi tham
gia trò chơi. Có lúc cô có những hành vi không tế nhị đối với trẻ làm cho trẻ
nhút nhát thiếu tự tin không dám bộc lộ mình, thậm chí có trẻ không đủ can
đảm để tiếp tục vui chơi nữa Như vậy giáo viên đã vô tình làm trẻ nhút nhát,
kém tự tin, từ đó trẻ không thích tham gia vào các trò chơi cũng như các hoạt
động khác. Mong muốn hình thành và phát triển tính tự tin cho trẻ mẫu giáo 4
- 5 tuổi trong hoạt động vui chơi, đề tài “Giáo dục tính tự tin cho trẻ mẫu
giáo 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non” được
chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề giáo dục tính tự tin cho trẻ 4 - 5
tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non. Trên cở sở đó đề xuất
các biện pháp nhằm giáo dục tính tự tin cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi
ở trường mầm non.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục tính tự tin cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi thông qua
hoạt động vui chơi.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục tính tự tin cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở trường mầm
non.
2
4. Giả thuyết khoa học
Có thể hình thành và phát triển tính tự tin cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi
thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non. Việc giáo dục tính tự tin cho
trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non hiện nay còn
hạn chế. Nếu đề xuất được những biện pháp giáo dục tính tự tin cho trẻ mẫu
giáo 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động vui chơi phù hợp thì sẽ giúp trẻ tự tin hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng cơ sở lí luận về giáo dục tính tự tin cho trẻ 4 - 5 tuổi
thông qua hoạt động vui chơi.
5.2. Nghiên cứu thực trạng biện pháp giáo dục tính tự tin cho trẻ mẫu
giáo 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
5.3. Đề xuất và tiến hành thực nghiệm một số biện pháp giáo dục tính
tự tin cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những biện pháp giáo dục tính tự tin
cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
- Địa bàn khảo sát: Một số trường mầm non thuộc địa bàn tỉnh Yên Bái.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hóa các
vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát những biểu hiện của tính tự tin ở trẻ trong hoạt động vui chơi
ở một số lớp mẫu giáo.
Quan sát hoạt động của giáo viên đối với trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi nhằm
tìm hiểu những biện pháp giáo dục tính tự tin cho trẻ ở độ tuổi này.
3
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
Trò chuyện, trao đổi với giáo viên mầm non nhằm tìm hiểu nhận thức,
thái độ của họ đối với việc giáo dục tính tự tin cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi
thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu anket
Dùng phiếu điều tra ý kiến của giáo viên ở các trường mầm non về sự
hiểu biết về tính tự tin và thực trạng sử dụng biện pháp giáo dục tính tự tin
cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động vui chơi.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Kiểm chứng giả thuyết đặt ra và thử nghiệm các biện pháp đề xuất.
+ Thực nghiệm phát hiện: Dùng để phát hiện mức độ biểu hiện tính tự
tin của trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động vui chơi.
+ Thực nghiệm tác động: Dùng để tác động sư phạm nhằm giáo dục
tính tự tin của trẻ được nghiên cứu.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lí kết quả nghiên
cứu thu được.
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm: 3 phần
Phần mở đầu:
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Giả thuyết khoa học
Nhiệm vụ nghiên cứu
phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứu
4
Cấu trúc của đề tài
Phần nội dung có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận về giáo dục tính tự tin cho trẻ 4 - 5 tuổi
thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
- Chương 2: Thực trạng về biện pháp giáo dục tính tự tin cho trẻ mẫu
giáo 4 - 5 tuổi qua hoạt động vui chơi ở một số trường mầm non thuộc tỉnh
Yên Bái.
- Chương 3: Một số biện pháp giáo dục tính tự tin trẻ mẫu giáo 4 - 5
tuổi và thực nghiệm sư phạm
Phần kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
5
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TÍNH TỰ TIN CHO TRẺ
MẪU GIÁO 4 - 5 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Tính tự tin có vai trò rất quan trọng đối với con người nói chung và trẻ
em nói riêng. Giáo dục tính tự tin cho trẻ mầm non là một trong những nhiệm
vụ quan trọng bởi vì ở lứa tuổi này, sự tăng trưởng và phát triển tâm lý, sinh
lý đều diễn ra với một tốc độ lớn. Chính vì vậy, tính tự tin là vấn đề đã được
quan tâm từ lâu và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học,
trong đó có ngành tâm lý học và giáo dục học. Trong lịch sử đã có nhiều công
trình nghiên cứu khẳng định vai trò quan trọng, có tính chất quyết định của
tính tự tin đối với cuộc sống xã hội và hình thành nhân cách con người.
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Vào những năm thế kỷ XX, nhà tâm thần học người Nam Phi Joseph
Wolpe là người sử dụng từ “ tự tin” đầu tiên. Việc nghiên cứu tính tự tin được
bắt nguồn từ lý thuyết tâm lý hành vi do Ivan Paplov và Joseph Wolpe đã
sáng lập bao gồm: Quan sát, cách ly, phân tích và phân loại hành vi tự tin.
Hành vi tự tin không phải là phát minh của con người mà là một phần vốn có
trong hành vi của loài người.
Trong nghiên cứu của mình “ Tự tin là điều kiện để phát triển nhân
cách”. Nhà tâm lý học Nga T.P.Xkripkina đã cho thấy trong hàng loạt vấn đề
nghiên cứu nhân cách của các nhà tâm lý học nga, vấn đề tự tin rất ít được đề
cập đến. Nghiên cứu sự tự tin là rất quan trọng để hiểu rõ cơ chế hình thành
một nhân cách sáng tạo, chủ động, độc lập.
Nhà tâm lý học duy tâm người Mỹ R.U.Emerson trong tác phẩm
“Niềm tin vào bản thân” đã cho rằng có hai nỗi sợ hai chi phối sự tự tin, nỗi
6
sợ hãi phải đối mặt với ý kiến của đa số (chính vì vậy con người thường có
hành động không chân thực, dối trá) và nỗi sợ phải đối mặt với chính mình.
Đã có các nhà tâm lý học nghiên cứu cảm giác tự tin, nói: “ Nhu cầu
quan trọng nhất của con người là tính tự tin”. Trong khi nghiên cứu về cảm
giác tự tin họ nói: “ Tự tin quá cũng không cần thiết, bởi vì đó không phải là
một đặc điểm tích cực, nó có thể dẫn đến thô bạo. Người có tính tự tin cực
đoan thường rơi vào cảnh “ Không biết làm ra vẻ biết”, rất tự đắc. Hành vi đó
trong giao tiếp xã hội, rất dễ tạo ra xung đột với người khác. Do đó họ cho
rằng “ Một người giàu tính tự tin phải là người chân thành, thẳng thắn, thực
sự cầu thị, vừa cố gắng phát triển sở trường của mình, khiêm tốn mà không tự
ti, tự tin mà không ngông cuồng”. [51]
Bower nói “ Thiếu tự tin là nguyên nhân của mọi thất bại". Ông đã đề
cao vai trò của tự tin trong cuộc sống. Thật vậy, trong thực tế không ít người
cảm thấy số phận của mình long đong lận đận, cứ loay hoay mãi mà vẫn thất
bại trong cuộc sống và trong công việc. Bời vì họ thường hay dựa dẫm vào
người khác, họ không biết mình có những khả năng gì, do đó họ không biết
đánh giá bản thân mình. Người thiếu tự tin vì thế trong chừng mực nào đó
không thành đạt trong cuộc sống. Nhưng trong thực tế không phải ai cũng tìm
hiểu, khám phá nó để củng cố tự tin của mình để sống tích cực hơn. Như vậy,
Bower đã đề cao vai trò tính tự tin đối với quá trình phát triển đời người. Ông
đã phát triển lý thuyết giáo dục tính tự tin lên một nấc thang mới cao hơn.
Theo Rudaki: “Tính tự tin chính là trụ cột của tinh thần phong độ,
khiến con người cởi mở lạc quan, làm tiêu trừ và ngăn ngừa sinh sản lòng tự
ti, biết sử lý vấn đề một cách quyết đoán, nhanh gọn”. [26, tr 107]
Nghiên cứu về tính tự tin của trẻ, nhà tâm lý học nổi tiếng người
Canada Jan Dargatz cho rằng: Bí quyết quan trọng nhất trong việc nuôi dạy
trẻ là làm cho trẻ có được tính tự tin. Đứa trẻ tự tin là đứa trẻ sau này sẽ đi
7
bằng chính đôi chân, nghị lực và trí tuệ của nó. Đứa trẻ tự tin sẽ làm nhẹ đi rất
nhiều nỗ lực dạy dỗ của gia đình, nhà trường và xã hội. Khi trẻ tự tin sẽ giúp
trẻ có nhiều cơ hội thành đạt trong cuộc sống. Tiến sĩ tâm lý học trẻ em
Richard woolfson cũng chỉ rõ: Tạo cho trẻ sự tự tin là việc làm vô cùng quan
trọng. Nếu trẻ cảm thấy tự tin chúng sẽ có can đảm khám phá mọi thế giới
xung quanh dù chỉ một lần. Đây là một điều đáng quan tâm khi trẻ lên 4 - 5
tuổi, trẻ có những trải nghiệm mới về vui chơi và học tập. Trẻ cần có sự tự tin
để ứng phó giải quyết những trải nghiệm đó. Do vậy tự tin rất quan trọng cho
con người nói chung và đặc biệt cho trẻ nói riêng.
Nhà tâm lý học Gael Lindefield trong tác phẩm “Giúp trẻ tự tin” đã quả quyết
rằng: “Mỗi người trong chúng ta khi sinh ra dù ít, dù nhiều đều có sẵn trong
người một cái hộp nhỏ đựng những nguyên liệu cơ bản để tác thành lên sự tự
tin sau này và mỗi người chúng ta đều có được những tiềm năng riêng để xây
dựng sự tự tin trên những nền tảng đó”. Và qua những quan sát cơ bản Gael
Lindefield hoàn toàn quả quyết, khẳng định về tính tự tin là: “ Khi chúng ta
sinh ra đời, điều quan trọng không phải là ta là ai, làm nghề gì mà chính là
cách chúng ta sẽ được nuôi nấng dạy bảo và động viên làm công việc gì”. [08]
Theo Gael Lindefield thì tính tự tin ở trẻ có thể phụ thuộc vào yếu tố
bẩm sinh, thể chất, sức khỏe, tinh thần và đặc biệt là còn phụ thuộc vào yếu tố
giáo dục.
Các tác giả Marjorie R.Simic, Melinda Mc Clain và Michael Shermis
(người Mỹ) tác giả cuốn "Help your child succeed in school" khi nghiên cứu
về tự tin của trẻ cho rằng " tạo dựng sự trân trọng chính mình là thành quả lâu
dài, nhưng nền tảng cho sự trân trọng chính mình lại ở thời thiếu niên. Từ
những thành quả ban đầu này khi cha mẹ, thầy cô và bạn bè cho trẻ thấy được
lòng khát vọng của mình bao nhiêu thì trẻ sẽ bắt đầu bước đường tiến tới sự
thành công của mình bấy nhiêu. Cảm giác thành công của bản thân dần dần
8
tăng lên, đủ để cho trẻ cảm nhận những lý do hướng về phía trước. Đó là điều
chúng ta muốn nói đối với người học tự tin. Một đứa học trò đầy tự tin là một
đứa trẻ biết đánh giá cao bản thân, gia đình và những người xung quanh quan
tâm chăm sóc trẻ trong những năm đầu đời cần phát triển".[50]
Tác giả Emmanuelle Rigon khi nghiên cứu về tính tự tin của trẻ đã đề
ra những biện pháp khác nhau giúp trẻ tự tin là: [7]
- Cần phải nhận ra nhu cầu cơ bản ở trẻ.
- Đưa ra nhiều giả thiết, trẻ có thể lựa chọn trong đó một giả thiết thích hợp
nhất. Như thế trẻ sẽ thấy mình có giá trị vì bố mẹ cho mình quyền lựa chọn
- Phát triển khả năng tự chủ, trong đó tạo niềm tin và phát huy năng lực
của trẻ. Cần đề cao những thành công của trẻ, coi đó là bước tiến bộ quan
trọng của trẻ.
- Ảnh hưởng của những người xung quanh, đặc biệt là cô giáo trong
việc giáo dục tính tự tin cho trẻ.
- Vấn đề thành tích, trẻ nhận ra rằng thành công là tiêu chí đánh giá giá
trị của trẻ.
Như vậy, điểm qua vài nét về lịch sử nghiên cứu tính tự tin của các nhà
tâm lý giáo dục học nước ngoài cho thấy: Vấn đề tính tự tin và giáo dục tính
tự tin đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu và đưa ra quan điểm
của mình. những công trình nghiên cứu trên đã phần nào cho thấy vai trò quan
trọng của tính tự tin đối với con người. Do vậy cần phải giáo dục tính tự tin
cho con người nói chung và trẻ em nói riêng.
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, những năm gần đây vấn đề về tính tự tin cũng được các
nhà giáo dục Việt Nam quan tâm nghiên cứu
9
Tính tự tin là cơ sở tâm lý của sự phát triển và thành công của đời
người, lại là chất xúc tác của năng lực và ý chí. Với số đông người, trí lực
bình thường cộng thêm tính tự tin cao là có thể đạt được thành công.
Đinh Trí Viễn – Đông Phương Tri cho rằng: Tự tin chính là một chiếc
quyền trượng, một khi bạn có sự tự tin thì cách nhìn cuộc sống và nhìn vào
chính bản thân bạn cũng sẽ thay đổi, khí chất sẽ càng ưu tú hơn, bạn sẽ càng
lạc quan hơn. [44]
Trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo do Trần Thị Trọng
– Phạm Thị Sửu: “Một người khi không tin tưởng vào chính bản thân mình thì
sẽ chẳng bao giờ thấy thoải mái và hạnh phúc, Anh ta không tập trung vào
công việc, lúc nào cũng dao động, lo lắng, bồn chồn”[41]. Như vậy, tính tự tin
có tính định hướng cho cuộc đời của mỗi người.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn trong phần kĩ năng thể hiện và nuôi dưỡng sự
tự tin, có viết: "Hãy nhớ rằng sự tự tin không phải là quà tặng thiên bẩm mà
nó lại chính là sản phẩm của sự tự rèn luyện thường xuyên Sẽ không thừa
nếu chúng ta rèn luyện sự tự tin từ rất sớm. Mạnh dạn phát triển trước công
chúng, mạnh dạn thể hiện chính mình, mạnh mẽ bày tỏ chính kiến. Những
hành động này sẽ không thể được thực hiện một cách dễ dàng ngay từ đầu khi
mình vốn dĩ chưa tự tin để bộc lộ. Tuy vậy sẽ có thể chấp nhận bạn còn nhiều
hạn chế trong một khoảng thời gian nào đó, sẽ có thể chấp nhận những sai sót
nhất định của bạn trong lần đầu tiên nhưng đó chính là những bước đệm để
bạn có thể nuôi dưỡng sự tự tin của bạn lớn dần" [30, tr 28].
Tác giả Hà Sơn trong cuốn " Hình thành lòng tự tin cho trẻ" và cuốn"
Khai phá tiềm năng nâng cao khả năng can đảm cho trẻ" có viết: "Khi không
có lòng tin, mọi việc chúng ta đều không thể làm được. Một người đạt được
thành công to lớn trước tiên là bởi vì người đó có lòng tin. Cho nên tự tin là
sức mạnh thần kỳ, chúng biến cái không thể thành cái có thể, biến cái có thể
trở thành hiện thực. Ngược lại không có lòng tin sẽ làm cho điều có thể biến
10
thành không thể, làm cho không thể khó trở thành tuyệt vọng". " Sự tự tin của
con cái không phải là thứ thiên bẩm, mầm nó phải được nuôi dưỡng và bù đắp
trong thực tiễn cuộc sống và trong học tập". [27, tr 141], [28, tr 51, 52]
Trong luận án tiến sĩ Nguyễn Thanh Huyền nêu rõ niềm tin vào bản
thân (tính tự tin). “Trong cơ chế thể hiện của tính tự lực, có sự tham gia của
cảm xúc, sự tự tin. Khi trẻ thiếu lòng tin vào bản thân, trẻ không thể hoạt
động tự lực. Sự thành công tạo cho trẻ cảm giác hạnh phúc, vui sướng tin yêu
bản thân - cội nguồn của sự phát triển tính tự lực. Nếu gặp thất bại nhiều trẻ
dễ chán, mất lòng tin vào bản thân. Khi giao nhiệm vụ cho trẻ hoạt động, giáo
viên phải tạo cho trẻ cảm xúc tích cực về bản thân, làm nền cho quá trình phát
triển trí lực”. [18]
Ngô Thị Hợp và Nguyễn Thị Bích Hạnh trong cuốn "Những kiến thức
ban đầu hình thành kĩ năng sống cho trẻ mầm non" phần dạy trẻ lòng tự tin có
viết: "Ai cũng muốn con mình tự tin khi trưởng thành. Điều này hoàn toàn có
thể giúp trẻ hình thành sự tự tin ngay từ khi còn nhỏ. Các nhà tâm lý học cũng
đã phân loại tự tin ở trẻ để có biện pháp hỗ trợ sau này: Tự tin thân thể, tự tin
trí óc, tự tin cảm xúc và tự tin giao tiếp xã hội" [16, tr 137] tác giả cũng đã
đưa ra các biện pháp để dạy trẻ lòng tự tin.
Như vậy, các nhà tâm lý-giáo dục học ở Việt Nam từ trước đến nay đã
nghiên cứu bản chất, biểu hiện và biện pháp để giúp trẻ tự tin hơn trong cuộc
sống. Họ khẳng định vị trí quan trọng của tính tự tin trong việc hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Do đó cần phải có những biện pháp
nhằm giáo dục tính tự tin cho trẻ tuổi mầm non.
1.2. Lý luận về tính tự tin và giáo dục tính tự tin cho trẻ 4 - 5 tuổi
1.2.1. Khái niệm về "Tính tự tin"
Theo đại từ điển Tiếng Việt do Bộ Giáo dục và Đào tạo – Trung tâm
ngôn ngữ văn học Việt Nam – Nguyễn Như Ý chủ biên, tính tự tin được định
nghĩa là: Tin vào bản thân mình: một người tự tin nói một cách tự tin [47]
11
Theo tác giả Gael Lindefield, do Ngọc Quang dịch và phân tích:
"Người tự tin là người cảm thấy hài lòng về mình" [8]
Aldrele nói: "Tự tin ở đây chính là tin vào bản thân mình hoặc coi trọng
bản thân mình"[52]
Theo Rudaki “Tính tự tin chính là trụ cột của tinh thần, phong độ,
khiến con người cởi mở lạc quan, làm tiêu trừ và ngăn ngừa sinh sản lòng tự
ti, biết xử lý vấn đề một cách quyết đoán nhanh gọn. [26, tr 104]
Trí Đức viết “Tính tự tin là biết tin tưởng vào khả năng phẩm chất của
mình, tin tưởng vào khả năng to lớn và phẩm chất tốt đẹp của mình có thể đạt
được qua rèn luyện trong học tập và lao động. Tự tin phải đi đôi với nỗ lực,
bền bỉ và kiên trì phấn đấu… Tự tin là dám chịu trách nhiệm về việc mình
làm và chủ động tìm cách khắc phục mọi hoàn cảnh khó khăn". [6, tr 5-12]
Nguyễn Ánh Tuyết có viết: Tính tự tin khác với tự cao, tự đại, đánh
giá quá cao sự thực, năng lực và phẩm chất của mình luôn luôn cho mình là
tài giỏi hơn người và coi thường mọi người. [35]
Ngô Công Hoàn cũng cho rằng tự tin là một trong những phẩm chất
nhân cách. Tự tin là tin vào mình và tin vào người. Đúng hẹn đứng giờ đúng
việc. [14]
Trong luận án Tiến sĩ, Nguyễn Thanh Huyền với đề tài “Các biện pháp
giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt tại
trường mầm non” có viết: “Tự tin là một phẩm chất của thế giới quan. Tự tin
thể hiện cao đối với bản thân trong quá trình hành động”. “Niềm tin vào bản
thân là một phẩm chất của thế giới quan, là sự kết tinh những hiểu biết và tình
cảm của bản thân đối với mình và ý chí của mình, là sự tin tưởng vào năng
lực của mình khi hành động. Niềm tin tạo cho trẻ nghị lực, ý chí để hành động
phù hợp với quan điểm của bản thân, tạo cho trẻ tính kiên định khi hành
12
động…Sự tự tin quyết định tính nguyên tắc và tính kiên định trong suốt quá
trình hành động" [18, tr 38]
Các tác giả Nga như: T.P. Xkripkina, X.L.Rubinxtein, B.X.Bratus chỉ
ra rằng, sự tin tưởng tuyệt đối vào chính mình hay vào thế giới là không thể
có. Sự tuyệt đối tin vào chính mình chỉ dẫn đến sự tù hãm, mụ mẫm nhân
cách và cuối cùng là hủy diệt chính mình. Ngược lại, sự tuyệt đối hóa việc
không tin vào bản thân dẫn đến sự chối bỏ tính cá nhân của mình, bởi vì một
người không tin vào chính mình luôn tìm kiếm những điểm tựa bên ngoài chứ
không phải ở bản thân mình, vì vậy họ dễ trở thành phụ thuộc và không tự
thân vận động được, luôn tìm kiếm sự khẳng định giá trị của chính mình từ
bên ngoài và kết quả là họ trở thành đối tượng bị điều kiển bởi những người
khác. Họ đánh mất thế chủ động sáng tạo của mình, nếu không có niềm tin
vào chính mình con người không thể có cá tính sáng tạo bởi con người sẽ
không hình thành được mối quan hệ giá trị với chính mình. Sự tự tin còn được
coi như khả năng của con người đi ra khỏi “ giới hạn của bản thân”.
Tác giả Kiều tố Uyên cho rằng: Tự tin là hoàn toàn tin tưởng vào bản
thân, là nhận thức và nắm rõ được bản thân mình, chứ không có nghĩa là tin
tưởng bản thân một cách mù quáng. Muốn rèn luyện sự tự tin, trước tiên bạn
phải tin vào bản thân mình (vì nếu ngay cả bạn cũng không tin vào chính
mình thì làm sao người khác có thể giúp được bạn ) [53]
Trong luận văn thạc sĩ Phạm Thị Huyên với đề tài “Một số biện pháp
phát huy tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động góc" có
viết: " Tự tin là sự kết tinh những hiểu biết và tình cảm của bản thân đối với
mình và ý chí của mình, là sự tin tưởng vào năng lực của mình khi hành động.
Niềm tin tạo cho trẻ nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm của
bản thân, tạo cho trẻ tính kiên định khi hành động, giúp trẻ có nhu cầu trạng
thái hành động dựa trên năng lực của bản thân, tin tưởng yêu quý, trân trọng
13
mình. Sự tự tin quyết định tính nguyên tắc và tính kiên định trong suốt quá
trình lao động. Tự tin thể hiện ở yêu cầu cao đối với bản thân trong quá trình
hành động". [17, tr 15,16]
Như vậy, thuật ngữ " tự tin" được các tác giả sử dụng không hoàn toàn
giống nhau, song nội hàm khái niệm "tự tin" thì khá thống nhất. Tự tin là tin
vào bản thân mình, nhận thức rõ được bản thân. Từ những nghiên cứu ở trên
và đặc biệt là theo quan niệm của Trí Đức, trong đề tài này khái niệm "Tính tự
tin" được hiểu như sau:
Tính tự tin là một phẩm chất nhân cách, là khả năng tin vào bản thân
của mỗi người, giúp họ có sức mạnh, ý chí để tiến hành chắc chắn một việc
nào đó.
Về bản chất tính tự tin được hình thành trên cơ sở cá nhân có nhu cầu,
khả năng và mong muốn tin tưởng vào sức lực của bản thân để thực hiện các
nhiệm vụ đặt ra, tự tìm kiếm cách thức riêng để giải quyết các nhiệm vụ đó.
Tính tự tin cũng như bất cứ phẩm chất nhân cách nào khác của nhân cách toàn
vẹn, đều được hình thành, phát triển trong hoạt động và thông qua hoạt động
của con người, trong sinh hoạt cũng như trong giao tiếp của con người với
con người và thế giới xung quanh.
1.2.2. Những biểu hiện của tính tự tin ở trẻ 4 -5 tuổi
1.2.2.1. Những biểu hiện của tính tự tin
Theo Gael Lindefield, trong mỗi con người có hai loại tự tin biểu hiện
như sau: [27]
- Loại ẩn bên trong người chúng ta (tự tin nội tâm) đem lại cho ta cảm
giác hoàn toàn yên tâm về mình.
- Loại biểu hiện ra bên ngoài giúp ta đi đứng, ứng xử với mọi người để
họ thấy rằng ta hoàn toàn vững tâm, quả quyết hơn về bản thân.
Khi phân tích hai loại tự tin này ta thấy:
14
Tự tin bên trong
Có 4 dấu hiệu làm tiêu chuẩn chính để đánh giá một người có được sự
tự tin bên trong:
• Luôn tự hào về bản thân và không ích kỷ
Người tự tin luôn yêu bản thân, họ luôn tự hào về ưu điểm của mình và
cố gắng làm ưu diểm đó tốt hơn lên. Họ không khoe khoang đề cao mình một
cách lộ liễu mà họ rất kín đáo, hơn nữa họ không cần che đậy tính ích kỷ của
bản thân. Người xung quanh dễ nhận ra họ, luôn yêu mến con người họ vì lẽ
lối sống và cách đối xử luôn được chính họ nuôi dưỡng.
• Biết rõ khả năng của bản thân
Người tự tin luôn biết mình có thể làm được gì, họ không phải lúc nào
cũng nhìn lại những cảm xúc, những suy nghĩ và những hành vi của mình hay
luôn cố tìm hiểu người khác xem họ đánh giá mình như thế nào.
• Luôn biết những mục tiêu cụ thể
Người tự tin luôn có những mục tiêu cụ thể cho việc mình làm. Họ
thấy rõ được lý do tại sao lại hành động như vậy. Họ như nhìn thấy được kết
quả mà họ hằng mong đợi. Có thói quen đặt cho bản thân những mục tiêu
hợp với khả năng của mình. Không phải luôn dựa vào người khác để buộc
bản thân mình phải làm việc, học hành.
• Tư tưởng lạc quan
Sống gần người tự tin thật là thú vị, một trong những ly do như vậy là
họ luôn có những thói quen nhìn cuộc đời rất lạc quan, họ sẽ luôn tìm kiếm,
hy vọng vào những điều tốt đẹp và những kết quả tốt đẹp đến với họ. Khi có
được sức mạnh này sẽ có vài biểu hiện như sau:
-Khi trưởng thành hy vọng cuộc đời sẽ tốt đẹp
- Luôn nhìn thấy điều tốt ở người khác, trừ một vài trường hợp cá biệt.
- Luôn tin rằng hầu hết mọi rắc rối đều có cách giải quyết.
15
- Không phí thời gian vô ích để lo lắng đến những hậu quả xấu có khả
năng xảy ra
- Luôn tin rằng tương lai bao giờ cũng tốt hơn hoặc bằng quá khứ.
- Luôn hăng hái nỗ lực làm việc để vượt qua những nỗi thất vọng khi bị
thay đổi thích thú, hóa hức với những chuyển biến tốt đẹp.
- Sẵn sàng bỏ thời gian công sức vào việc học và vào việc thực hiện những
công tác chuẩn bị cần thiết vì tin rằng thế nào rồi cũng đạt được mục đích.
Tự tin thể hiện ra bên ngoài:
Để mọi người xung quanh nhận thấy cá tính tự tin, cần phát triển các kỹ
năng trong bốn lĩnh vực sau:
- Kỹ năng giao tiếp
- Tính quyết đoán
- Kỹ năng trình bày, lập luận trước đám đông
- Kỹ năng kiểm soát những cảm xúc
Tác giả Nguyễn Quang Loan trong bài giảng về tự tin , Ông cho rằng: "
Tự tin là tin tưởng vào khả năng của bản thân trước một công việc nào đó,
con người tin rằng mình có thể vượt qua khó khăn, trở lực để đạt đến mục
đích." [49] và ông cho rằng biểu hiện của tính tự tin là:
- Chủ động
- Dám tự quyết định
- Hành động chắc chắn
- Không hoang mang dao động
- Hành động cương quyết
- Dám nghĩ dám làm
Trích trong internet của tác giả Nguyễn Huy trong bài viết "Xây dựng
lòng tự tin" có viết:
16
Mức độ biểu hiện tự tin có thể thể hiện thông qua nhiều cách: hành vi
của bạn, ngôn ngữ cơ thể, cách bạn nói, những gì bạn nói,… Sau đây là những
so sánh về hành vi của sự tự tin với hành vi của sự thiếu tự tin
Tự tin Thiếu tự tin
Làm những gì bạn tin là đúng,
ngay cả khi những người khác
phản đối và chỉ trích nó.
Bạn làm theo ý kiến của người khác
Sẵn sàng chấp nhận rủi ro và tiếp
tục thực hiện nhằm đạt được kết
quả tốt hơn.
Bạn luôn muốn mình ở trong “vùng an toàn”
do sợ thất bại và để tránh rủi ro.
Thừa nhận và học hỏi từ sai lầm Làm việc chăm chỉ để che đậy những sai lầm
và hy vọng rằng bạn có thể sửa chữa chúng
trước khi bị ai đó phát hiện.
Chấp nhận lời khen một cách
lịch thiệp.
Né tránh lời khen một cách không câu nệ.
Như vậy, sự thiếu tự tin vào bản thân sẽ “hủy hoại” chính bản thân bạn
và thường có những biểu hiện tiêu cực. Người tự tin nói chung là tích cực hơn
– họ tin vào bản thân và khả năng của họ. Họ cũng tin vào cuộc sống một
cách toàn diện.
1.2.2.2. Những biểu hiện của tính tự tin ở trẻ 4 - 5 tuổi
Theo Gael Lindefield ở trẻ tính tự tin biểu hiện khá rõ ràng: [8]
Sự tự tin bên trong: Đứa trẻ tự tin sẽ có những biểu hiện chính như sau:
- Xem việc mình đòi hỏi người khác thực hiện những nhu cầu cho bản
thân mình là chuyện đương nhiên.
17
- Luôn tỏ ra cho mọi người thấy mình thích được tán dương, thích được
khen thưởng và không cần tìm cách sai bảo người khác làm điều đó một cách
gián tiếp.
- Biết rõ những điểm mạnh của bản thân và do đó dễ dàng phát huy
những khả năng tiềm ẩn của mình.
- Biết tìm những người bạn phù hợp, biết lắng nghe ý kiến của người
khác, sẵn sàng và háo hức đón nhận những lời đóng góp, dậy bảo của người lớn.
- Được tiếp thêm sức lực thêm niềm hứng thú khi bản thân được người
khác khích lệ động viên.
- Học cách tự đánh giá bản thân và đánh giá bạn
Sự tự tin bên ngoài sẽ có những biểu hiện chính như sau:
- Trò chuyện được với mọi lứa tuổi và mọi thành phần
- Sử dụng hiệu quả những cử chỉ sao cho ăn khớp với lời nói.
- Hiểu và sử dụng được những cử chỉ và cách ra dấu hiệu của người khác.
- Không run sợ khi đứng nói trước đám đông.
- Biết bầy tỏ điều mình cần trực tiếp và thẳng thắn.
- Biết bênh vực quyền lợi của mình và của người khác.
- Biết cách chọn quần áo và màu sắc sao cho phù hợp với cá tính riêng
của chúng.
- Dám nhận thêm những thử thách và công việc nguy hiểm vì chúng
biết mình có thể kiềm chế được những nỗi sợ hãi, thất vọng và lo âu.
- Biết kiềm chế cảm xúc, chia sẻ niềm vui nỗi buồn cùng bạn.
Hai loại biểu hiện tự tin bên trong và tự tin bên ngoài này tương trợ lẫn
nhau, chúng sẽ tạo cho ta một cái gì đó thật mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Điều
quan trọng là phải phát triển hài hòa giữa yếu tố bên trong và bên ngoài của
sự tự tin. Bởi vì có những trẻ có thừa tính tự tin bên trong nhưng lại không thể
nào thể hiện được những điểm mạnh cho mọi người nhìn thấy. Người khác có
18
lẽ không bao giờ biết được những tư tưởng và niềm tin của đứa trẻ đó thực sự
cụ thể và mạnh mẽ đến nhường nào, và vì chúng chưa bao giờ được học cách
thể hiện những ưu thế của sự tự tin bên trong của chúng, nên chúng thua kém
hơn người khác và có thể dẫn đến kết quả là chúng sẽ trở nên chán nản, nhụt
chí và đau khổ. Cho nên các nhà giáo cần tạo cho trẻ môi trường thuận lợi, an
toàn giúp cho trẻ hình thành và phát triển tính tự tin một cách đầy đủ hơn, cả
tự tin bên trong và bên ngoài.
Cùng với quan điểm của Gael Lindefield, Nguyễn Hồng Thuận trong
luận án tiến sĩ "Một số biện pháp tác động của gia đình nhằm phát triển tính
tự lực cho trẻ mẫu giáo "[33] cho rằng có hai loại tự tin:
- Loại tự tin bên trong (nội tâm) đem lại cho trẻ cảm giác hoàn toàn yên
tâm về mình, không có những mặc cảm về mình trong quá trình hoạt động
- Loại tự tin bên ngoài, biểu hiện ở phong cách đi lại, ứng xử đĩnh đạc,
đàng hoàng, không rụt rè sợ sệt.
Các dấu hiệu làm nên sự tự tin của trẻ là:
- Đánh giá cao về bản thân.
- Hiểu rõ bản thân.
- Có mục tiêu rõ ràng trong hoạt động và dễ dàng lựa chọn mục đích
của hoạt động.
- Hành động dứt khoát, quyết đoán
- Sống lạc quan yêu đời.
Tác giả còn cho rằng để mọi người xung quanh nhận rõ cá tính tự tin
của mình cần phát triển các kĩ năng:
- Kỹ năng giao tiếp
- Kỹ năng tự ra quyết định
- Kỹ năng trình diện trước bạn bè
- Kỹ năng kiểm soát những xúc cảm.
19
Tác giả Hữu Khánh trong cuốn "37 phương pháp đơn giản giáo dục
tính tự tin cho trẻ" [ 20] trong đó ông đưa ra rất nhiều biểu hiện tính tự tin của
trẻ 4 - 5 tuổi:
- Tự khẳng định mình trong việc chơi, việc học và tự lập trong sinh
hoạt hàng ngày.
- Dám bảo vệ quan điểm của mình ngay cả khi nói chuyện với người lớn.
- Thể hiện rõ rệt sự dũng cảm và bình tĩnh khi gặp khó khăn nguy hiểm
hay khi va vấp thất bại.
- Dễ kết thân với bạn bè, có quan hệ bạn bè rộng rãi và biết chọn bạn
mà chơi.
- Làm việc gì cũng kiên trì làm cho đến cùng.
- Không hùa vào ý kiến của đa số, khi chúng cho rằng ý kiến đó không đúng.
- Thường độc lập ý kiến, xong biết phục thiện khi biết rằng ý kiến đó là
không đúng.
- Đứa trẻ tự tin là đứa trẻ biết điều gì làm được, nên làm và điều gì
không nên, không được làm.
Theo kết quả nghiên cứu bài tập nghiên cứu khoa học của sinh viên
trường cao đẳng sư phạm mẫu giáo, cho thấy biểu hiện tự tin của trẻ 4 - 5
tuổi như sau:
-Trẻ mạnh dạn nhanh nhẹn, dứt khoát, linh hoạt khi thực hiện các
nhiệm vụ cô giáo giao.
-Dễ kết thân và hòa đồng với bạn. Chủ động bàn bạc, đặt ra kế hoạch
cho nhóm của mình và chơi cho tới cùng.
-Biết bảo vệ ý kiến của mình những sẵn sàng sửa lỗi khi biết mình sai
-Khả năng tự tìm tòi, tự lựa chọn những vấn đề cần khám phá….
-Tin tưởng vào khả năng và chịu trách nhiệm về công việc của mình
không ỷ lại cô giáo.
20
-Nhanh nhẹn, sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao.
-Biết tự đánh giá mình và tham gia nhận xét đánh giá bạn.
-Hay có những câu hỏi thắc mắc tìm tòi khám phá
-Giọng nói to, rõ ràng mạch lạc.
-Khi múa hát cho các bạn xem trẻ luôn ngẩng mặt, tự biết mình hát
đúng, múa đẹp, động tác tự nhiên, thoải mái…
-Khi tạo ra được một sản phẩm, trẻ vui vẻ cầm nắm, nhìn ngắm, nâng
niu và trân trọng sản phẩm của mình.
-Trẻ biết dùng ngôn ngữ để nói cho mọi người hiểu ý định của mình rõ
ràng, mạch lạc, và biết lắng nghe, hiểu được người khác nói.
-Tác phong hồn nhiên thoải mái. Cử chỉ, điệu bộ phù hợp với lời nói.
Như vậy, tính tự tin có rất nhiều những biểu hiện khác nhau. Trẻ mẫu
giáo 4 - 5 tuổi cũng đã có những biểu hiện khác nhau về tính tự tin, và ở
những mức độ khác nhau. Có trẻ tự tin ở hoạt động này nhưng không tự tin ở
hoạt động khác, hoặc có trẻ trong tất cả các hoạt động đều e dè, rụt rè nhút
nhát. Do đó cần phải có các biện pháp phù hợp để giúp trẻ tự tin hơn.
1.2.3. Nhiệm vụ, nội dung giáo dục tính tự tin cho trẻ mẫu giáo ở trường
mầm non
Chương trình giáo dục mầm non hiện nay được ban hành là chương
trình khung, có kế thừa những ưu việt của các chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ trước đây, được phát triển trên các quan điểm đảm bảo đáp ứng sự đa
dạng của các vùng miền, các đối tượng trẻ, hướng đến sự phát triển toàn diện
và tạo cơ hội cho trẻ được phát triển. Trong đó, mục tiêu giáo dục mầm non
là: “ Giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, hình thành
và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang
tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và
21
phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp
học tiếp theo và cho việc học tập xuất đời. (số 17/2009/TT- BGDĐT. Ngày 25
tháng 7 năm 2009)
Trong cuốn "Chương trình giáo dục mầm non" do Bộ giáo dục và tào
tạo ban hành (2009), trong phần mục tiêu cụ thể tuổi mẫu giáo được đề ra ở 5
lĩnh vực. Riêng lĩnh vực phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội có đề cập đến
việc phát triển một số phẩm chất cá nhân: Mạnh dạn, tự tin, tự lực. với mục
tiêu cụ thể trong lĩnh vực này thì kết quả mong đợi thể hiện sự tự tin, tự lực ở
trẻ mẫu giáo [2, tr 68]:
- Trẻ 3 - 4 tuổi là: Mạnh dạn tham gia vào các hoạt động, mạnh dạn khi
trả lời câu hỏi. Cố gắng thực hiện công việc đơn giản được giao.
- Trẻ 4 - 5 tuổi là: Tự chọn đồ chơi, trò chơi theo ý thích. Cố gắng
hoàn thành công việc được giao (trực nhật, dọn đồ chơi).
- Trẻ 5 - 6 tuổi là: Tự làm một số việc đơn giản hàng ngày. Cố gắng tự
hoàn thành công việc được giao.
Nhiệm vụ của giáo viên là: Tạo cơ hội thuận lợi cho sự tự tin của trẻ
bằng cách cung cấp môi trường cho phép sự lựa chọn các hoạt động do trẻ
khởi xướng và thực hiện.
Nhìn chung, chương trình giáo dục mầm non và các tài liệu về giáo dục
trẻ hầu hết chỉ hướng dẫn chung chung chưa có yêu cầu và hướng dẫn cụ thể
về nội dung giáo dục tính tự tin cho trẻ. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục mầm
non chúng tôi đề xuất nhiệm vụ và nội dung giáo dục tính tự tin cho trẻ mầm
non như sau:
• Nhiệm vụ giáo dục tính tự tin cho trẻ
- Hình thành, củng cố, phát triển ở trẻ những hành vi của tính tự tin.
- Bồi dưỡng cho trẻ có thái độ đúng đắn đối với hành vi tự tin.
- Giúp trẻ có những hiểu biết về tính tự tin
22