MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sau 25 năm thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước, nền kinh tế Việt
Nam có nhiều thay đổi kể cả về chất và lượng. Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra: “Phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trung tâm…, bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng miền;
thúc đẩy nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát
triển các vùng có nhiều khó khăn…”. Để thực hiện thành công nhiệm vụ
quan trọng này, cả nước cần có chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế nói
chung và theo từng vùng, tỉnh, từng địa phương cụ thể.
Với tiềm năng sẵn có về thiên nhiên và con người, kinh tế tỉnh Thanh
Hóa đang phát triển theo chiều hướng tích cực. Quy mô GDP ngày càng tăng,
năm 2011 đạt 66,9 nghìn tỉ đồng, đứng thứ 6/63 tỉnh, thành phố; GDP/người
đạt 17,6 triệu đồng/người, đứng thứ 44/63 tỉnh, thành phố. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực và tiến bộ, khu vực I chiếm 19,2%; khu vực II đạt
43,3% và khu vực III là 37,5%. Có được kết quả này nhờ sự đóng góp của 27
huyện, thị xã, thành phố, trong đó có huyện Thiệu Hóa.
Là một huyện thuộc vùng đồng bằng, nhỏ về diện tích (1,6% diện tích
toàn tỉnh) và cả về dân số (5,2% dân số toàn tỉnh), kinh tế huyện Thiệu Hóa
chủ yếu là nông nghiệp, điểm xuất phát thấp, đời sống còn gặp nhiều khó
khăn. Vì vậy việc khai thác các lợi thế, phát triển kinh tế đúng hướng, tạo ra
bước chuyển dịch cuộc sống theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp và
nông thôn ở huyện Thiệu Hóa có ý nghĩa quan trọng.
Là người con xứ Thanh, với mong muốn đóng góp hiểu biết của mình
để xây dựng quê hương, tôi quyết định lựa chọn đề tài luận văn Thạc sĩ Địa lí
học: “Phát triển kinh tế huyện Thiệu Hóa giai đoạn 2006-2011 và định
hướng đến năm 2020”.
11
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội có vai trò hết sức quan trọng đối với
mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ và mỗi địa phương. Đây là đề tài được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà kinh tế và các cơ quan chuyên ngành
với mong muốn phát huy những lợi thế sẵn có của mỗi địa phương để phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
Có rất nhiều công trình liên quan đến cơ sở lí luận nói chung, tiêu biểu là:
Ở cấp độ toàn quốc, các tác giả thuộc khoa Địa lý, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy đã biên soạn nhiều
công trình, hai trong số đó là các tác giả: Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Văn
Phú, Nguyễn Minh Tuệ với cuốn Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam (2011)
[14]; Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức với Địa lý kinh tế - xã hội Việt
Nam – tập 1 (2000) [11]. Trong hai công trình này, các tác giả đã đề cập đến
các nguồn lực tự nhiên và con người Việt Nam, tổ chức lãnh thổ các ngành
kinh tế chủ yếu và các vùng kinh tế ở Việt Nam dưới góc độ Địa lý học. Các
công trình này được chúng tôi đánh giá như một nguyên mẫu trong việc phân
tích, đánh giá tình hình phát triển và phân bố của một lãnh thổ dưới góc độ
Địa lý học. Trên phạm vi cả nước, ngoài hai công trình nghiên cứu trên còn
có rất nhiều các công trình nghiên cứu của các cơ quan, Viện nghiên cứu, đặc
biệt là trong hệ thống các trường Sư phạm có Đào tạo ngành Địa lý.
Ở cấp độ vùng kinh tế - xã hội, việc nghiên cứu và đánh giá tình hình
phát triển các vùng ở nước ta cũng đã được nhiều tác giả quan tâm sát sao.
Gần đây nhất (năm 2012), công trình “Việt Nam - Các vùng kinh tế và vùng
kinh tế trọng điểm” của các tác giả Lê Thông và Nguyễn Quý Thao [15] cùng
đồng sự đã được xuất bản. Trong công trình này các tác giả đã nêu những
điểm khái quát chung về vùng, đặc điểm địa lý kinh tế - xã hội 7 vùng kinh tế
và 4 vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam. Công trình được chúng tôi đánh giá
là đầy đủ và cập nhật nhất trong số các công trình đã công bố về tình hình
kinh tế - xã hội ở cấp độ vùng tại nước ta. Bên cạnh các nhà Địa lý học, trong
22
quá trình lập quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho các vùng kinh tế ở
nước ta, các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
công bố bản Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các
vùng trong cả nước. Trong các bản quy hoạch đó, nội dung về nguồn lực,
hiện trạng cũng như định hướng phát triển kinh tế - xã hội của vùng được thể
hiện khá chi tiết song chủ yếu dưới góc nhìn của Kinh tế học.
Số lượng các công trình nghiên cứu ở cấp tỉnh, huyện tính đến nay là
rất lớn. Trong quá trình thu thập tài liệu để hoàn thiện luận văn, chúng tôi đã
tiếp cận một số công trình tiêu biểu sau: Trước hết là công trình “Địa lý các
tỉnh, thành phố Việt Nam” [13] do GS.TS Lê Thông chủ biên. Đây là công
trình đồ sộ cung cấp thông tin khá đầy đủ, cập nhật về nguồn lực cũng như
đặc điểm kinh tế - xã hội của các địa phương cấp tỉnh ở nước ta. Thứ hai là
công trình “Địa chí Thanh Hóa – Tập 3: Kinh tế” [16] do tập thể các nhà
khoa học thuộc rất nhiều lĩnh vực tham gia xây dựng. Trong công trình này,
nội dung về nguồn lực, hiện trạng cũng như định hướng phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Thanh Hóa cũng như các huyện, thị xã và thành phố trong tỉnh được
thế hiện rất chi tiết. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng có dịp tiếp cận với một số
luận văn Thạc sỹ Địa lý Kinh tế - xã hội nghiên cứu về các huyện, thị xã và
thành phố của tỉnh Thanh Hóa như “Phát triển kinh tế thành phố Thanh Hóa
giai đoạn 2000-2010” [6], “Phát triển kinh tế huyện Thọ Xuân giai đoạn
2006-2011 và tầm nhìn đến năm 2020” [2] Trong các công trình này, các
tác giả đã phân tích, đánh giá tương đối toàn diện về các mặt nguồn lực, hiện
trạng và định hướng phát triển của lãnh thổ nghiên cứu. Các công trình này
được chúng tôi coi như những tài liệu tham khảo bổ ích trong quá trình hoàn
thiện luận văn. Đối với huyện Thiệu Hóa, số lượng các công trình nghiên cứu
riêng lẻ về tình hình kinh tế - xã hội đến nay vẫn chưa có. Hầu hết các công
trình trước đây chủ yếu tập trung vào phân tích, đánh giá một số đặc điểm
riêng lẻ của huyện.
33
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu
Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế vào một
huyện cụ thể, mục tiêu chủ yếu của đề tài luận văn là phân tích tiềm năng,
đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện Thiệu Hóa để từ đó đề xuất
định hướng và giải pháp nhằm đem lại hiệu quả cao hơn về kinh tế - xã hội
trong giai đoạn đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển kinh tế.
- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế của huyện
Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa.
- Kiểm kê, phân tích thực trạng nền kinh tế huyện Thiệu Hóa giai đoạn
2001-2011.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển ổn định, bền vững nền kinh
tế của huyện Thiệu Hóa đến năm 2020.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Nghiên cứu kinh tế trên toàn bộ huyện Thiệu
Hóa bao gồm 1 thị trấn và 30 xã, có chú ý so sánh với các huyện khác trong
tỉnh Thanh Hóa.
- Về mặt thời gian: Nguồn số liệu được điều tra, thu nhập và xử lí từ
năm 2001 đến 2011 và định hướng đến năm 2020.
- Về mặt nội dung: Đề tài tập trung vào các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế và thực trạng phát triển kinh tế dưới góc độ Địa lý học
(ngành và lãnh thổ).
44
4. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Quan điểm nghiên cứu
- Quan điểm hệ thống
Tính hệ thống giúp đề tài trở nên lôgic, thông suốt và sâu sắc. Trong
đề tài này việc nghiên cứu hiện trạng phát triển kinh tế huyện Thiệu Hóa
được đặt trong vấn đề phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa và vùng Bắc
Trung Bộ. Đồng thời huyện Thiệu Hóa cũng được coi là một hệ thống hoàn
chỉnh và thống nhất, trong đó bao gồm các hệ thống con (như các cụm xã,
các xã). Các hệ thống có mối quan hệ tương tác, mật thiết với nhau. Vì vậy
cần phải tìm hiểu các mối quan hệ qua lại, các tác động ảnh hưởng giữa các
yếu tốt trong một hệ thống và giữa các hệ thống để đánh giá chính xác vấn
đề nghiên cứu.
- Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Huyện Thiệu Hóa là một thể tổng hợp bao gồm các yếu tố tự nhiên, kinh
tế - xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau.
Quan điểm tổng hợp thể hiện rõ việc xem xét hiện trạng phát triển kinh tế
trong mối liên hệ tác động qua lại giữa các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội.
Mọi sự vật, hiện tượng địa lý đều tồn tại và phát triển trong một không
gian lãnh thổ nhất định. Khi nghiên cứu phải tìm hiểu sự ảnh hưởng của lãnh
thổ đến khía cạnh nghiên cứu, tìm ra các quy luật phát triển và đưa ra những
định hướng tốt nhằm khai thác có hiệu quả những tiềm năng của huyện. Đặc
biệt chú ý tới sự khác biệt lãnh thổ trong quá trình phát triển kinh tế. Các khu
vực khác nhau kết hợp với sự phân hóa không gian, cũng như việc tổ chức
hợp lí quá trình sản xuất sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Vận dụng quan điểm lịch sử viễn cảnh vào nghiên cứu phát triển kinh
tế huyện Thiệu Hóa để thấy được những biến đổi của các yếu tố kinh tế trong
từng giai đoạn phát triển và xu hướng chuyển dịch các ngành kinh tế trong
55
huyện. Từ đó đánh giá được hiện trạng và dự báo xu hướng phát triển kinh tế
đến năm 2020.
- Quan điểm phát triển bền vững
Những giải pháp cho sự phát triển kinh tế - xã hội phải dựa trên quan
điểm bền vững. Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với bảo vệ và tái tạo
tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hòa phát triển
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu
Để phân tích và đánh giá tình hình phát triển kinh tế của một lãnh thổ,
cần phải có thông tin về nhiều khía cạnh khác nhau của các ngành và lãnh
thổ. Cụ thể trong luận văn này, tác giả đã thu thập những dữ liệu bằng số liệu
thống kê, bằng văn bản và dữ liệu không gian (bản đồ) từ nhiều nguồn khác
nhau như các báo cáo, các văn kiện, văn bản chính thức, niên giám thống kê
và có sự thống nhất về thời gian.
- Phương pháp phân tích tổng hợp
Trên cơ sở những dữ liệu đã thu thập, bằng phương pháp phân tích
tổng hợp phân tích tình hình phát triển kinh tế, những yếu tố ảnh hưởng, hiện
trạng phát triển kinh tế - xã hội và từ đó tìm ra những giải pháp nhằm phát
triển các ngành kinh tế của huyện Thiệu Hóa.
- Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp phổ biến dùng để so sánh các yếu tố định lượng
hoặc định tính, so sánh các mối quan hệ không gian và thời gian giữa các
ngành, các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là mối quan hệ về tự nhiên và nhân văn,
so sánh phân tích các chỉ tiêu, các hoạt động kinh tế đã được lượng hóa có
cùng nội dung, tính chất tương tự để xác định mức độ biến động của các chỉ
tiêu. Trên cơ sở đó rút ra bản chất của các hiện tượng kinh tế, hiện tượng địa
lý và xây dựng mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý.
66
- Phương pháp thống kê toán học
Từ những số liệu đã được thu thập, tác giả đã sử dụng phương pháp
thống kê toán học để xử lý số liệu, tính toán các chỉ số phát triển, tính tỉ trọng
các ngành so với tổng thể, so sánh, đánh giá để thấy được vị trí và sự chuyển
biến của nền kinh tế huyện Thiệu Hóa trong giai đoạn 2006 - 2011 và định
hướng đến năm 2020.
- Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp dùng để kiểm tra lại mức độ chính xác của các số
liệu đã được thu thập, trên cơ sở khảo sát, tìm hiểu trực tiếp các cơ sở sản
xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã, các cụm công, các khu
công nghiệp, các hoạt động dịch vụ và các doanh nghiệp đóng trên địa bàn.
Tác giả đã phỏng vấn một số cán bộ địa phương, hộ nông dân, các hộ kinh
doanh về những lĩnh vực liên quan đến đề tài. Từ đó thu thập thêm những
thông tin, tích lũy thêm những hiểu biết về địa phương để từ đó đề xuất
những giải pháp hữu hiệu
- Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý (GIS)
Đây là phương pháp được sử dụng để phản ánh quy mô, cơ cấu, hiện
trạng và sự biến động kinh tế theo ngành, thành phần kinh tế và theo lãnh thổ.
Đồng thời nó còn phản ảnh sự phân bố không gian, các mối liên hệ của các
đối tượng địa lý kinh tế theo lãnh thổ.
Sử dụng công nghệ GIS: để số hóa và vẽ các bản đồ, biểu đồ một cách
chính xác mang tính khoa học cao.
5. CÁC ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Đề tài được thực hiện đã có những đóng góp sau:
- Góp phần làm sáng tỏ thêm được cơ sở lý luận, thực tiễn về phát
triển kinh tế và vận dụng chúng vào địa bàn Thiệu Hóa là một huyện cụ thể
của tỉnh Thanh Hóa.
77
- Đánh giá được về cơ bản các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển
kinh tế của huyện Thiệu Hóa và lãm rõ được những thế mạnh và hạn chế về
tự nhiên và kinh tế - xã hội.
- Phân tích được bức tranh phát triển kinh tế huyện Thiệu Hoá trên các
phương diện ngành và lãnh thổ, những thành tựu và hạn chế trong phát triển
kinh tế của huyện.
- Đề xuất và định hướng một số giải pháp để khai thác có hiệu quả và
phát triển kinh tế huyện Thiệu Hoá trong tương lai.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, phần Nội dung chính của
luận văn được trình bày trong bốn chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển kinh tế.
- Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế huyện Thiệu Hoá.
- Chương 3: Thực trạng phát triển kinh tế huyện Thiệu Hoá.
- Chương 4: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế huyện Thiệu Hoá
đến năm 2020.
88
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
“Tăng trưởng kinh tế, theo nghĩa chung nhất là mức tăng lượng của cải
(tài sản) trong một thời kỳ nhất định”. Khái niệm tăng trưởng này phù hợp
với mọi quy mô kinh tế: toàn nền kinh tế, cấp tỉnh, huyện, ngành
Đối với một quốc gia, một tỉnh, mức độ gia tăng của các chỉ tiêu như
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay tổng thu nhập quốc gia (GNI) và
GDP/người (hoặc GNI/người), phản ánh mức độ tăng trưởng sản xuất trong
một giai đoạn nhất định. Còn đối với cấp huyện thì các chỉ tiêu GDP hay GNI
được thay bằng chỉ tiêu giá trị sản xuất.
1.1.1.2. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là sự vận động theo chiều hướng tiến lên, bao hàm
trong đó có cả sự thay đổi về lượng lẫn sự chuyển hoá về chất của một sự vật
hiện tượng trong thời gian và không gian cụ thể.
Phát triển kinh tế bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự tăng trưởng là sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập bình quân đầu người.
Thứ hai, sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng thời đại, tiến bộ: tỷ
trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm, tỷ trọng ngành công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng trong tổng sản phẩm quốc dân.
Thứ ba, đời sống nhân dân ngày càng cao về phúc lợi xã hội, tiêu
chuẩn sống, giáo dục, sức khoẻ và sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội.
Nếu như tăng trưởng kinh tế thể hiện chủ yếu sự thay đổi về lượng thì
phát triển kinh tế không chỉ tập trung vào tăng trưởng mà bao gồm cả những
thay đổi về chất: về cơ cấu kinh tế và cuộc sống con người.
99
Nói cách khác “Phát triển kinh tế không chỉ là sự gia tăng quy mô nền
kinh tế, mà còn bao hàm sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và
đảm bảo mọi người đều được bình đẳng về cơ hội để tham gia vào quá trình
phát triển và được sẻ chia, hưởng thụ thành quả của phát triển”
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là hai thuật ngữ khác nhau nhưng
luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng kinh tế là yếu tố cơ bản
nhất của phát triển kinh tế, nếu không có tăng trưởng kinh tế thì sẽ không có
phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế chính bằng tăng trưởng kinh tế cộng với
tiến bộ về cơ cấu kinh tế, xã hội.
1.1.1.4. Phát triển bền vững
Mục tiêu của các quốc gia không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế mà
cơ bản hơn là phát triển kinh tế bền vững. Phát triển kinh tế bền vững được
hiểu là “sự phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm
thương tổn đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Nội dung của phát triển bền vững thông qua sự phát triển hợp lý ở cả
ba mặt: Kinh tế - Xã hội – Môi trường. Phát triển kinh tế phải đảm bảo sự
tăng trưởng, hiệu quả và ổn định; đồng thời phải chú ý đến các vấn đề xã
hội như xóa đói, giảm nghèo nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân
dân; xây dựng thể chế dân chủ, công bằng xã hội và bảo tồn các di sản văn
hóa của dân tộc. Phát triển bền vững còn phải đảm bảo yêu cầu sử dụng có
hiệu quả và bảo vệ nguồn tài nguyên, ngăn chặn ô nhiễm; tái tạo lại các
nguồn năng lượng.
1.1.1.5. Cơ cấu kinh tế
“Cơ cấu nền kinh tế là tổng thể những mối quan hệ về chất lượng và số
lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế trong một thời gian và trong
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định”.
Sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh mức độ thay đổi của phương thức
sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại. Những khu vực có năng suất lao động
1010
cao, giá trị gia tăng lớn, có tốc độ phát triển cao hơn và thay thế dần những
khu vực sản xuất - kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng thấp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giúp cho nền kinh tế phát triển với tốc độ
nhanh, vững chắc và có khả năng hội nhập với khu vực, thế giới. Hội nhập
kinh tế mở ra cơ hội phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tham gia ngày
càng sâu vào phân công lao động quốc tế, đặc biệt là góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý làm cho nền kinh tế năng động và hiệu
quả hơn.
1.1.2. Các nguồn lực ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế
Sự phát triển kinh tế của một lãnh thổ chịu tác động của hàng loạt các
nguồn lực quan trọng như: vị trí địa lý, các điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên, dân số và lao động, vốn đầu tư và thị trường, khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật, đường lối chính sách có khả
năng khai thác để sản xuất hàng hóa hay cung ứng dịch vụ góp phần phát
triển kinh tế.
1.1.2.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý bao gồm vị trí tự nhiên, vị trí kinh tế, giao thông, chính trị.
Những nhân tố này ngày càng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế,
tạo thuận lợi hay khó khăn trong thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển nền
kinh tế mở, tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào đời
sống kinh tế - xã hội của khu vực và thế giới. Trong xu thế hội nhập của nền
kinh tế thế giới, vị trí địa lý là nguồn lực góp phần định hướng có lợi nhất
trong phân công lao động quốc tế.
1.1.2.2. Nguồn lực tự nhiên
Nguồn lực tự nhiên bao gồm đất đai, địa hình, khí hậu, nguồn nước, sinh
vật, khoáng sản Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì các danh mục tài
nguyên càng được mở rộng. Đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, tài
nguyên thiên nhiên là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Tài nguyên thiên nhiên
1111
thực sự trở thành sức mạnh kinh tế khi được con người khai thác và sử dụng
một cách hợp lý và hiệu quả.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là tài sản quốc gia, là nhân
tố không thể thiếu được trong quá trình sản xuất, tạo ra của cải cho xã hội.
Điều đó cho thấy tài nguyên thiên nhiên thực sự là nguồn lực quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2.3. Nguồn lực kinh tế - xã hội
a. Dân cư và nguồn lao động
Dân cư và nguồn lao động có vai trò quyết định với việc phát triển
kinh tế - xã hội. Nguồn lao động không chỉ tạo ra của cải vật chất nuôi sống
nhân loại mà còn sáng tạo ra công nghệ, thiết bị và sử dụng chúng vào quá
trình sản xuất. Mặt khác con người cũng chính là thị trường tiêu thụ các sản
phẩm và các dịch vụ xã hội. Dân số càng đông, mức sống và nhu cầu càng
cao càng có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các ngành kinh tế.
Lực lượng lao động là một bộ phận của dân cư và là yếu tố quyết định
đến việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Chất lượng và số lượng lao
động cũng là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, nguồn
lao động có chất lượng, trình độ chuyên môn và kĩ thuật càng cao thì sự phát
triển của nền kinh tế càng nhanh, càng bền vững.
Nguồn lao động ảnh hưởng tới quy mô khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên và tái sản xuất của lãnh thổ. Số lượng lao động và tỉ lệ lao động
trong tổng số dân có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất, mức thu nhập
bình quân của dân cư và mức độ tích lũy đầu tư.
Chất lượng lao động quyết định trình độ sản xuất, quy mô khai thác và
phát triển lãnh thổ theo chiều sâu. Trình độ phát triển và chất lượng lao động
sẽ góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực khác.
b. Khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình
sản xuất và phát triển của nền kinh tế. Các ứng dụng tiến bộ khoa học tạo điều
1212
kiện mở rộng khả năng phát hiện, khai thác và nâng cao hiệu quả đưa vào sử
dụng các nguồn lực. Khoa học và công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm có
chất lượng cao, số lượng lớn và giá thành thấp, do đó có sức cạnh tranh mạnh
trên thị trường. Kết quả là biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu thay
thế nhập khẩu, hội nhập kinh tế - xã hội với khu vực và thế giới.
Trên thế giới hiện nay, hầu hết các nước có xu hướng khai thác và sử
dụng các nguồn lực của mình dựa trên khoa học và công nghệ. Vì vậy năng
suất cao hơn song cũng tiết kiệm hơn, sử dụng hợp lý hơn đồng thời tránh
được ô nhiễm môi trường. Các nước có nền kinh tế phát triển đã rất thành
công khi dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ tiên tiến để phát triển nền
công nghiệp của mình. Những thành công đó đã làm thay đổi lớn nền kinh tế
của những nước này và có xu hướng tăng dần những ngành có giá trị kinh tế
và hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Đối với các nước nghèo, các nước đang
phát triển, việc tiếp nhận và chuyển giao công nghệ góp phần nâng cao hiệu
quả các nguồn lực trong nước, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển
kinh tế, góp phần thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
c. Vốn đầu tư và thị trường
- Vốn đầu tư: Là yếu tố đầu vào cần thiết cho một quá trình sản xuất.
Để đảm bảo cho quá trình phát triển ổn định nền kinh tế phải đầu tư kết cấu
hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật, máy móc, trang thiết bị, công nghệ, mua các
sáng chế, đào tạo nguồn nhân lực và các dịch vụ khác. Vì thế, việc gia tăng
nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích lũy nội bộ của nền kinh tế. Trong cơ
cấu vốn, nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định chính trong phát triển
kinh tế, đặc biệt với các nước đang phát triển và các nước kém phát triển.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, nguồn vốn từ nước ngoài được sử dụng để
đầu tư cho phát triển, tạo điều kiện để khai thác hiệu quả tiềm năng của đất
nước, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước.
1313
- Thị trường: Là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là yếu tố đảm bảo
khâu tiêu dùng, xuất nhập, giá cả và tạo ra nhu cầu mới, giúp cho quá trình
tái sản xuất diễn ra không ngừng. Thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết
sản xuất cho các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị
trường luôn có sự thay đổi do thị hiếu của người tiêu dùng, do đó biến đổi
nhiệm vụ sản xuất để thích ứng tiêu dùng đã thúc đẩy sự tăng trưởng phát
triển của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy những nước có quan hệ kinh tế rộng, hàng hóa phong
phú và được tiêu thụ ở nhiều quốc gia thì quy mô sản xuất có điều kiện mở
rộng, tạo nhiều việc làm cho người lao động, thông qua đó các giá trị văn hóa
tinh thần của quốc gia này cũng có điều kiện phổ biến ra thế giới. Những quốc
gia có quy mô thị trường lớn, nhu cầu hàng hóa nhiều là một lợi thế trong việc
mở rộng hợp tác, thu hút đầu tư, khoa học công nghệ của các nước trên thế giới.
d. Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật
Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật có vai trò to lớn đối với phát
triển kinh tế - xã hội. Kết cấu hạ tầng đảm bảo điều kiện vật chất thuận lợi
nhất để các cơ sở sản xuất và dịch vụ hoạt động có hiệu quả. Vì vậy trong
phạm vi một nền kinh tế, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật là hệ
thống huyết mạch của nền kinh tế, có nhiệm vụ thực hiện những mối liên hệ
giữa các bộ phận và giữa các vùng của nền kinh tế. Ngoài ra còn tạo điều
kiện thuận lợi cho việc sử dụng tốt nhất các tiềm năng của đất nước, mở rộng
quan hệ quốc tế. Do đó, để phù hợp với quá trình phát triển và hội nhập kinh
tế hiện nay, nhu cầu đối với các dịch vụ hạ tầng trở nên cấp bách. kết cấu hạ
tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật là điều kiện cần thiết để đảm bảo mục tiêu xóa
đói giảm nghèo, hội nhập khu vực trên cơ sở bền vững cả về phương diện
kinh tế, xã hội và môi trường.
Như vậy, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật rất quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của từng đơn vị kinh tế cũng như
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của kết cấu hạ tầng sẽ là một
1414
trong những điều kiện vật chất quan trọng cho sự phát triển kinh tế và phúc
lợi xã hội.
e. Đường lối, chính sách phát triển
Đường lối chính sách là yếu tố mang tính quyết định đến sự thành công
hay không của chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của các nước trên thế
giới bởi nó có khả năng cân đối ngân sách, kiềm chế lạm phát và có tích lũy
nội bộ kinh tế, từng bước tăng tỷ lệ đầu tư cho phát triển. Trên thế giới ở mỗi
quốc gia, mỗi thời điểm đều có đường lối, chính phát triển kinh tế - xã hội
riêng, không giống nhau do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội khác nhau.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế đòi hỏi phải có một thể chế chính trị
xã hội ổn định. Sự ổn định đó được thể hiện bằng đường lối phát triển kinh
tế, xã hội đúng đắn, phù hợp với các quy luật khách quan, có khả năng thu
hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Ngược lại, sự khủng hoảng về chính
trị tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế.
Hiện nay ở nước ta, bước đầu có sự thành công về đường lối chính
sách phát triển kinh tế và đang đẩy mạnh thực hiện quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa để đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào
năm 2020.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế
1.1.3.1. Các chỉ tiêu cấp quốc gia và tỉnh
- Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product viết tắt là GDP)
là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong phạm vi lãnh
thổ quốc gia ở một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
GDP thường được sử dụng để phân tích cơ cấu kinh tế, mối quan hệ
tỷ lệ giữa các ngành trong sản xuất, mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với
phần huy động vào ngân sách. Chỉ tiêu này còn dùng để tính tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế, nghiên cứu sự thay đổi về khối lượng hàng hóa, dịch
vụ sản xuất. Ngoài ra còn dùng để đánh giá trình độ phát triển và mức sống
của con người.
1515
- Tổng thu nhập quốc gia (Gross National Income viết tắt là GNI) là tổng
thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một quốc
gia tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
GNI lớn hay nhỏ hơn GDP tùy thuộc mối quan hệ kinh tế (đầu tư vốn,
lao động…) giữa một nước với nhiều nước khác. Những quốc gia có vốn đầu
tư ra nước ngoài cao thì GNI lớn hơn GDP. Ngược lại, những nước đang tiếp
nhận đầu tư nhiều hơn là đầu tư ra nước ngoài sẽ có GDP lớn hơn GNI.
- GNI và GDP bình quân đầu người: GNI/đầu người và GDP/đầu
người được tính bằng GNI và GDP chia cho tổng số dân ở một thời điểm nhất
định. Chỉ số GNI/người và GDP/người phản ánh trình độ phát triển kinh tế
của các quốc gia và được coi là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh
giá chất lượng cuộc sống.
- Cơ cấu kinh tế: Là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với
vị trí, tỉ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định
hợp thành. Cơ cấu kinh tế có vai trò quyết định tới sự phát triển và tăng
trưởng kinh tế cũng như quyết định đến sự phát triển xã hội.
+ Góc độ ngành: Ở góc độ ngành được chia thành các nhóm ngành:
Nông - lâm - ngư nghiệp (khu vực I); công nghiệp, xây dựng (khu vực
II) và dịch vụ (khu vực III). Cơ cấu kinh tế theo ngành phản ánh số lượng, vị
trí, tỷ trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế.
+ Góc độ lãnh thổ: Cho thấy cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ, phản
ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế - xã hội của các
vùng phục vụ cho mục đích phát triển nền kinh tế. Mỗi cấp lãnh thổ đều có
cơ cấu kinh tế lãnh thổ của nó. Nếu được tổ chức, các mối quan hệ giữa các
cấp phân vị lãnh thổ sẽ tạo nên mối quan hệ ngang rất chặt chẽ đảm bảo cho
toàn bộ các hoạt động trong mỗi lãnh thổ và giữa các lãnh thổ thống nhất, cân
đối hài hoà để phát triển một cách nhịp nhàng, có hiệu quả.
+ Góc độ sở hữu: Có thể hiểu cơ cấu thành phần kinh tế là: tương quan
tỉ lệ giữa các thành phần kinh tế tham gia vào các ngành, lĩnh vực hay các bộ
1616
phận hợp thành nền kinh tế. Phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ chức
sản xuất kinh doanh của mọi thành viên xã hội. Một nền kinh tế thường có
nhiều hình thức sở hữu khác nhau, ở đó có loại hình kinh tế có ý nghĩa quyết
định đối với nền kinh tế và từ đó thể hiện rõ quan điểm, xu hướng phát triển
kinh tế. Trong điều kiện toàn cầu hóa việc phân định các loại hình kinh tế là
rất quan trọng, có tác dụng thúc đẩy, mở rộng sự phát triển kinh tế chung.
1.1.3.2. Các chỉ tiêu cho cấp huyện
Đối với cấp huyện thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
a. Quy mô giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất
- Giá trị sản xuất là kết quả hoạt động của các ngành sản xuất tạo ra
các sản phẩm vật chất trong một thời gian nhất định. GTSX theo ngành kinh
tế bao gồm GTSX nhóm ngành nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ. GTSX theo các ngành kinh tế và theo lãnh thổ.
- Tốc độ tăng trưởng GTSX: Thể hiện mặt định lượng tăng trưởng kinh
tế ở cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, thường được tính
theo giá so sánh (1994) một năm cố định gọi là năm gốc.
b. Cơ cấu giá trị sản xuất:
Cơ cấu GTSX Thể hiện quy mô và tỷ trọng các ngành, thành phần kinh
tế và lãnh thổ trong nền kinh tế cấp huyện và tương tương.
Cơ cấu GTSX theo ngành kinh tế bao gồm giá trị của sản xuất Nông –
Lâm- Thủy Sản, Công nghiệp- Xây dựng, dịch vụ GTSX theo các ngành kinh
tế là một trong các chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của một nền kinh tế.
Cơ cấu GTSX theo lãnh thổ (tiểu vùng) biểu thị tương quan tỉ lệ giữa
các tiểu vùng trong huyện, thị được sắp xếp một cách tự phát hay tự giác có
chủ định. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá, so sánh sự phát triển kinh tế giữa
các tiểu vùng, từ đó xác định được các sản phẩm đặc trưng, hướng chuyên
môn hóa của từng khu vực. Mặt khác, cơ cấu lãnh thổ theo từng ngành kinh
tế: Nông nghiệp, công nghiệp còn cho phép khai thác tối đa những lợi thế so
sánh của các nguồn lực trong lãnh thổ.
1717
Giá trị sản xuất/người: Là chỉ số phản ánh sự phát triển kinh tế nói
chung và việc nâng cao mức sống của người dân nói riêng. Ngoài ra, giá trị
sản xuất/người còn là chỉ tiêu để so sánh mức sống dân cư giữa các địa
phương với nhau. Giá trị sản xuất/người được tính bằng giá trị sản xuất chia
tổng số dân địa phương trong cùng một thời gian (1 năm).
c. Năng suất lao động và mức gia tăng năng suất lao động
Năng suất lao động được đo bằng GTSX trên tổng số lao động đang
làm việc và giá trị của từng nhóm ngành trên tổng số lao động làm việc theo
từng nhóm ngành.
Năng suất lao động thể hiện kết quả hoạt động sản xuất có ích của con
người trong một đơn vị thời gian nhất định. Năng suất lao động phản ánh
hiệu quả sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất và được biểu hiện
bằng số lượng sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian lao động hoặc
bằng lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Quan niệm
truyền thống về năng suất chủ yếu là hướng đầu vào như lao động, vốn. Vì
vậy ở nhiều nước nhiều khi người ta đồng nhất năng suất với năng suất lao
động. Năng suất được hiểu rộng hơn, như một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh
hiệu quả kinh tế- xã hội. Tăng năng suất lao động là sự thay đổi trong cách
thức lao động, một sự thay đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra hàng hóa, sao cho số lượng lao động ít hơn mà lại có
được sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Khái quát về phát triển kinh tế vùng Bắc Trung Bộ
1.2.1.1. Khái quát chung
Bắc Trung Bộ có diện tích 51.524,6 km
2
chiếm 15,6% diện tích cả
nước, dân số 10.145,6 nghìn người chiếm 11,6 % dân số cả nước (năm 2011).
Bắc Trung Bộ gồm 6 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế).
1818
Địa hình của vùng tương đối phức tạp với trên 60% diện tích là đồi núi
và có sự đa dạng của các kiểu địa hình. Từ tây sang đông dọc theo lãnh thổ
các tỉnh có các dạng địa hình núi, trung du, đồng bằng ven biển và hải đảo.
- Đồi núi thấp có độ cao dưới 1000m chiếm phần lớn diện tích của
vùng. Địa hình thoải, ít dốc với những bán bình nguyên tương đối phẳng, đất
đai khá màu mỡ, một số nơi có đất đỏ badan rất thích hợp để trồng nhiều cây
công nghiệp và cây ăn quả.
- Dải đồng bằng nhỏ, hẹp ngang kéo dài từ Bắc xuống Nam (trừ đồng
bằng Thanh - Nghệ Tĩnh) độ phì của đất không cao, chất dinh dưỡng bị rửa
trôi nhiều gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Bắc Trung Bộ ven biển
với các dạng địa hình khúc khuỷu, nhiều vũng vịnh và bán đảo, nhiều cồn
cát, đầm phá, Ngoài ra còn có hệ thống các đảo ven bờ có ý nghĩa về mặt
kinh tế cũng như an ninh quốc phòng. Dạng địa hình ven biển cho phép Bắc
Trung Bộ phát triển tổng hợp các ngành kinh tế biển. Với các dạng địa hình
đa dạng và phong phú cho phép các tỉnh trong vùng phát triển ngành nông -
lâm - ngư nghiệp một cách toàn diện. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với chế
độ nhiệt ẩm dồi dào, có sự phân hóa theo chiều Bắc - Nam, Tây - Đông và
theo độ cao. Về cơ bản, khí hậu của vùng thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt.
Tuy nhiên so với cả nước, đây là vùng có khí hậu khắc nghiệt nhất. Vì vậy
cần phải có những chủ động và biện pháp hữu hiệu để hạn chế những tác
động xấu của khí hậu đối với sản xuất và sinh hoạt.
1.2.1.2. Quy mô và tốc độ tăng trưởng
Hiện nay, Bắc Trung Bộ là một trong các vùng có sự đóng góp quan
trọng cho sự phát triển chung của cả nước. Hàng năm vùng đã đóng góp
khoảng 6,9% GDP cả nước. Mặc dù GDP của vùng tăng lên khá nhanh, từ
17,8 nghìn tỷ đồng năm 1995 lên 179 nghìn tỷ đồng năm 2011 (giá thực tế),
song so với cả nước thì còn thấp, đứng vị trí thứ 5 trong 7 vùng kinh tế của
cả nước.
1919
Biểu đồ 1.1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP của Bắc Trung Bộ
giai đoạn 1995 - 2011
[Nguồn: 17]
Do kinh tế tăng trưởng khá, trong khi dân số ổn định nên GDP bình
quân đầu người của vùng đã tăng lên từ 1,9 triệu đồng năm 1995 lên 17,6
triệu đồng năm 2011, nhưng mới chỉ bằng 64,8% mức trung bình cả nước.
Tốc độ tăng trưởng của vùng những năm gần đây đạt mức khá cao,
trung bình 10%. Tuy nhiên tốc độ này có sự khác nhau giữa các giai đoạn, từ
năm 2005 đến nay tốc độ tăng trưởng đều đạt ở mức hai con số.
Cơ cấu kinh tế của vùng đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng
CNH - HĐH. Năm 1995 khu vực nông nghiệp - lâm - ngư nghiệp chiếm tới
46,3%, đến năm 2011 giảm xuống còn 22,1%. Tỷ trọng ngành phi nông
nghiệp đã tăng lên từ 53,7% lên 77,9%.
Ngành nông - lâm - ngư nghiệp tuy chiếm tỉ trọng nhỏ dần song vẫn
giữ vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế của vùng Bắc Trung Bộ bởi
đây vẫn là khu vực thu hút phần lớn số lao động và. Giá trị sản xuất của khu
vực luôn tăng nhanh, năm 2000 đạt 10.140,3 tỷ đồng, đến năm 2011 tăng lên
19.012,3 tỷ đồng, gấp 1,9 lần và chiếm 8,3% giá trị sản xuất nông nghiệp -
lâm - ngư nghiệp cả nước.
Biểu đồ 1.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bắc Trung Bộ
giai đoạn 1995 - 2011
[Nguồn: 17]
Trong cơ cấu của ngành đang có sự chuyển chuyển dịch tích cực.
Nông nghiệp vẫn giữ vị trí chủ đạo và chiếm tỉ trọng cao song đang có xu
hướng giảm. Lâm nghiệp là thế mạnh của vùng song tỉ trọng không cao và có
sự biến động thất thường. Ngành ngư nghiệp, tỉ trọng đang tăng mạnh và
vững chắc. Ngay trong bản thân các phân ngành cũng đang có sự chuyển
dịch. Trong nông nghiệp, giảm tỉ trọng ngành trồng trọt từ 72.3% năm 2000
%
Nghìn tỉ đồng
2020
xuống 58,7% năm 2011, tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ nông
nghiệp (25,2% lên 38,1%; 2,5% lên 3,1%).
Ngành công nghiệp của vùng có điều kiện thuận lợi để phát triển như:
vị trí địa lí thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao
động dồi dào, chất lượng nguồn lao động ngày một tăng, cơ sở vật chất kĩ
thuật, cơ sở hạ tầng đang được đầu tư phát triển. Trong những năm gần đây,
công nghiệp đã có những bước phát triển mới, giá trị sản xuất công nghiệp
của vùng liên tục tăng. Tính theo giá so sánh năm 1994, GTSX năm 2000 đạt
7.158,2 nghìn tỷ đồng, đến năm 2011 đạt 33.156,8 tỷ đồng tăng gấp hơn 4,6
lần so với năm 2000, chiếm 43,9% GTSX của toàn vùng Bắc Trung Bộ và
3,4% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.
Cơ cấu ngành công nghiệp cũng đang có sự chuyển dịch phù hợp với
xu hướng chung của cả nước. Công nghiệp chế biến là ngành chiếm tỉ trọng
cao nhất và đang có xu hướng tăng lên đạt trên 75% giá trị sản xuất công
nghiệp, công nghiệp khai thác và sản xuất, phân phối điện, ga, khí đốt đang
có xu hướng giảm tỉ trọng nhưng vẫn còn chậm.
Các hệ thống tổ chức lãnh thổ đa dạng, trong đó phải kể đến các khu
công nghiệp tập trung. Năm 2011 toàn vùng có 19 khu công nghiệp có quyết
định thành lập trong đó đất cho thuê chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng diện tích khu
công nghiệp của cả nước, nhưng tỉ lệ lấp đầy tương đối cao đạt 61,7%. Tuy
nhiên khả năng thu hút các dự án đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp
của vùng Bắc Trung Bộ còn khiêm tốn. Các dự án đầu tư của nước ngoài chỉ
tập trung vào một số ngành công nghiệp nhẹ như: dệt, sợi, may mặc, công
nghiệp thực phẩm.
Ngành dịch vụ đang được ưu tiên phát triển, ngày càng có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế của vùng. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành
giai đoạn 2000 - 2011 khoảng 10%. Trong các ngành dịch vụ quan trọng nhất
là ngành giao thông vận tải. Bắc Trung Bộ có lợi thế đế phát triển hệ thống
giao thông vận tải với đầy đủ các loại hình vận tải (đường ô tô, đường sắt,
2121
hàng không, sông, biển). Hệ thống giao thông vận tải của vùng có ý nghĩa
lớn, giúp trao đổi hàng hóa giữa các địa phương trong nước và còn có ý nghĩa
trong việc kết nối với các nước láng giềng phía Tây thông qua các cửa khẩu
biên giới Việt - Lào. Ngành bưu chính, viễn thông đang được đầu tư phát
triển. Hầu hết các tỉnh của vùng có hệ thống bưu chính, viễn thông tương đối
đồng bộ, có đầy đủ loại hình hiện có ở Việt Nam. Sự phát triển mạnh mẽ của
ngành đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về thông tin phục vụ đắc lực cho sự
phát triển kinh tế của vùng. Hoạt động thương mại trong vùng ngày càng phát
triển do nhu cầu tiêu dùng, sản xuất và xuất khẩu. Thị trường trong nước phát
triển mạnh, năm 2011 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ của
vùng tăng gấp 4,2 lần so với năm 2000. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
không ngừng tăng lên, cán cân xuất nhập khẩu mặc dù vẫn còn âm nhưng đã
có chuyển biến tích cực.
Cùng với sự hình thành một số tuyến du lịch, trung tâm du lịch quốc
gia, hoạt động du lịch của vùng Bắc Trung Bộ đã đạt được những thành tựu
khả quan với tốc độ tăng trưởng khá. Số lượng khách du lịch có chiều hướng
tăng lên từ 1,8 triệu lượt khách năm 2000 (trong đó khách du lịch quốc tế
13,7%) tăng lên 9,9 triệu lượt khách năm 2011 (trong đó khách quốc tế chiếm
khoảng 7,9%) và chiếm 10,9% tổng số khách du lịch cả nước (trong đó khách
quốc tế chiếm 5% - năm 2011). Doanh thu du lịch toàn vùng năm 2011 đạt
4087 tỷ đồng, chiếm 3,7% doanh thu du lịch cả nước.
Có thể nói, Bắc Trung Bộ là một vùng giàu tiềm năng để phát triển một
cơ cấu ngành khá đa dạng. Tuy nhiên sự phát triển các ngành kinh tế chưa
tương xứng với tiềm năng của vùng. Vì vậy trong những năm tới vùng đang
có những chính sách huy động các nguồn lực trong và ngoài vùng nhằm đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
1.2.2. Khái quát về phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa
Tỉnh Thanh Hóa nằm ở cực bắc vùng Bắc Trung Bộ với diện tích
11.131,9 km
2
chiếm 3,4% diện tích cả nước và 21,6% diện tích vùng Bắc
2222
Trung Bộ, dân số 3.412,6 nghìn người chiếm 3,9% dân số cả nước và 33,7%
dân số vùng Bắc Trung Bộ (năm 2011). Về mặt tổ chức hành chính, tỉnh
Thanh hóa gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 24 huyện.
Là tỉnh có dân số đứng thứ 3 trong cả nước (sau Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội), với mật độ dân số cao trung bình 307 người/km
2
(năm
2011), Thanh Hóa là tỉnh có nguồn lao động dồi dào chiếm 2,4% dân số cả
nước. Mặc dù chất lượng nguồn lao động đang được tăng lên, nhưng nhìn
chung tỉ trọng lao động qua đào tạo còn thấp chiếm 22% lực lượng lao động.
Về mặt kinh tế, trong những năm gần đây nền kinh tế của tỉnh Thanh
Hóa có tốc độ tăng trưởng khá và bền vững. Năm 2000 GDP toàn tỉnh đạt
10,0 nghìn tỷ đồng (giá thực tế), đến năm 2011 đạt 64,4 nghìn tỷ đồng chiếm
2, 5% GDP của cả nước và chiếm 36,0% của Bắc Trung Bộ. Thu nhập bình
quân trên đầu người của tỉnh đạt 18,9 triệu đồng (năm 2011), gấp 5,0 lần năm
2000, tương đương với vùng Bắc Trung Bộ, song mới chỉ bằng 64% mức
trung bình cả nước.
Biểu đồ 1.3: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2000- 2011
[Nguồn: 17]
Cơ cấu kinh tế đa dạng và đang có sự chuyển dịch theo chiều hướng
tích cực. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng nhanh từ 26,6% năm
2000 lên 38,4% năm 2009, đứng đầu trong ba nhóm ngành. Tỷ trọng ngành
nông - lâm - ngư nghiệp giảm từ 39,6% năm 2000 xuống còn 27,3% năm
2009. Tỷ trọng ngành dịch vụ ít biến động. Sự chuyển dịch trên đang đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh.
2323
Biểu đồ 1.4: Cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế của Thanh Hóa
giai đoạn 2000 - 2011
[Nguồn: 17]
Thanh Hóa là trung tâm kinh tế và trung tâm công nghiệp quan trọng
của vùng Bắc Trung Bộ. GTSX công nghiệp của tỉnh ngày càng tăng, năm
2011 đạt 22.165,4 tỷ đồng (giá thực tế) chiếm 40% GTSX công nghiệp của
vùng Bắc Trung Bộ và 0,9% cả nước. Tốc độ tăng trưởng GTSX công nghiệp
- xây dựng luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, trung bình hàng năm
tăng 17%.
Trong cơ cấu ngành công nghiệp, nhóm ngành công nghiệp chế biến
chiếm tỉ trọng cao nhất 93,2% và đang có xu hướng tăng lên; công nghiệp
khai thác chiếm 1,5%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 5,3% và
đang giảm tỉ trọng. Hiện nay những ngành công nghiệp của tỉnh Thanh Hóa
đang phát triển mạnh là: vật liệu xây dựng, dệt - may, da - giày, sản xuất thép,
cơ khí.
Với chính sách phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và
chuyển đổi mô hình quản lý các doanh nghiệp quốc doanh, cơ cấu thành phần
kinh tế của tỉnh đã chuyển dịch phù hợp dần với cơ chế thị trường.
2424
Bảng 1.1: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế của Thanh Hóa
giai đoạn 2006-2011
(Đơn vị: %)
Năm 200
6
200
7
200
8
200
9
201
0
2011
Kinh tế Nhà nước 26,5 24,9 22,6 23,5 25,5 25,4
Kinh tế ngoài Nhà nước 69,7 71,6 73,9 72,8 69,2 68,3
Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài
3,8 3,5 3,5 3,7 5,3 6,3
[Nguồn: 17]
Giai đoạn 2006 - 2011 cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế của Thanh
Hóa có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: khu vực kinh tế Nhà nước giảm
1,1%. khu vực kinh tế ngoài Nhà nước giảm 1,4% nhưng vẫn đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài mới được hình
thành và phát triển nên còn chiếm tỉ trọng thấp và đang có xu hướng tăng lên.
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp của tỉnh Thanh Hóa có nhiều hình thức,
song đem lại hiệu quả kinh tế cao là các khu công nghiệp tập trung như: Khu
công nghiệp Lễ Môn, khu công nghiệp Tây Bắc Ga, khu công nghiệp Bỉm
Sơn. Hiện nay Khu kinh tế Nghi Sơn đang được nhà nước đầu tư, trong tương
lai nó sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế của tỉnh.
Ngành nông - lâm - ngư nghiệp của tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ vị trí quan
trọng trong nền kinh tế. Trong cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp, nông nghiệp
chiếm ưu thế 78,0%, lâm nghiệp 7,5%, thủy sản 14,4% (năm 2011). Hoạt
động nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ
nông nghiệp, trong đó trồng trọt chiếm tỉ trọng cao nhất đạt 70,2%, chăn nuôi
27,1%, dịch vụ 2,7% (năm 2011). Trong nội bộ của ngành trồng trọt đang có
sự chuyển dịch, giảm tỉ trọng cây lương thực, tăng tỉ trọng cây rau đậu, cây
ăn quả, cây công nghiệp hàng năm, cây công nghiệp lâu năm (tương ứng
8,4%; 4,3%; 15,1%; 1,5%). Hiện nay cây lương thực có diện tích 375,4 nghìn
ha, trong đó cây lúa chiếm 82,4% diện tích cây lương thực. Lúa đang được
trồng theo hướng thâm canh, tăng vụ. Năm 2011 năng suất lúa của tỉnh đạt 55,6
2525