Tải bản đầy đủ (.pdf) (194 trang)

Luận văn nghiên cứu văn bản những tác phẩm mang tên nguyễn khắc trạch hiện tàng trữ tại viện nghiên cứu hán nôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 194 trang )

Đại học Quốc Gia Hà Nội
Trờng Đại học Khoa học XÃ hội v Nhân văn

*****

NGUYN TH HOA Lấ

NGHIấN CU VN BẢN NHỮNG TÁC PHẨM MANG
TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH HIỆN TÀNG TRỮ TẠI
VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: HÁN NÔM
MÃ SỐ:

60.22.40

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS . TRẦN NGHĨA

HÀ NỘI - 2007


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài:
Theo sách DSHNVN-TMĐY cho biết, hiện nay ở Viện nghiên cứu Hán
Nơm có tới 9 tác phẩm chữ Hán mang tên tác giả Nguyễn Khắc Trạch, với đủ
các thể loại như thơ, văn, trướng, đối…Ngoài số này ra, tác phẩm của Nguyễn
Khắc Trạch cịn được chép lẫn trong khơng ít sách của người khác.
Trong các tác phẩm đó, thơ chiếm phần chủ yếu. Bản nhiều nhất có đến
422 bài (bản VHv.212), về văn, bản nhiều nhất có 54 bài. Nếu tổng cộng các văn
bản lại, có đến hơn một nghìn bài thơ và mấy trăm bài văn. Số lượng thơ văn


như thế quả là đồ sộ. Nhưng đó mới chỉ là nhìn từ góc độ hình thức. Cịn khi đi
sâu vào nội dung cụ thể từng văn bản ta mới thấy chúng đang hàm chứa nhiều
ẩn số. Các nhà văn bản học Hán Nôm cho biết kho thư tịch Hán Nôm của chúng
ta hiện nay, nhất là các văn bản viết tay, thường có nhiều vấn đề phức tạp, rối
rắm về mặt văn bản. Nào là “thật giả lẫn lộn, sao đi chép lại quá nhiều”; nào là
“khó đọc, khó hiểu”…Các văn bản của nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc
Trạch hiện cịn cũng khơng nằm ngồi tình trạng đó. Khi xem cụ thể nội dung
trong từng tác phẩm, thấy sự tương đồng và dị biệt giữa các tác phẩm rất nhiều.
Ngoài ra, có những bản cịn có chép cả thơ văn của người khác. Bởi vậy, việc
nghiên cứu văn bản nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch là một nhu
cầu khách quan mang tính điển hình về mặt văn bản học đối với di sản Hán
Nơm. Đó là lí do đầu tiên thơi thúc tơi lựa chọn đề tài này.
Lí do thứ hai, nhóm tác phẩm mang tên tác giả Nguyễn Khắc Trạch chủ
yếu ra đời vào thời Nguyễn. Đây là thời kì khoa cử rất phát triển, người đỗ đạt
rất nhiều, vì vậy người trùng tên trùng họ cũng khơng ít. Trong các sách như Cổ
kim trùng tính trùng danh khảo của Mai Phong - Đặng Xuân Khanh, sách Hán ra
đời vào khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, hay Quốc triều Hương khoa lục
của Cao Xuân Dục, hoặc Trạng nguyên Tiến sĩ hương cống Việt Nam, và Những
ông nghè ông cống triều Nguyễn… đều cho biết thời Nguyễn có bốn người trùng
tên họ, đều đỗ Cử nhân tên là Nguyễn Khắc Trạch. Vậy nhóm tác phẩm mang
tên tác giả Nguyễn Khắc Trạch trên là thuộc về ai trong số bốn vị này? Học giả
Trần Văn Giáp trong sách Lược truyện các tác gia Việt Nam Nxb.KHXH, 1971
1


đã cho rằng nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện cịn là của
Nguyễn Khắc Trạch ở làng Bình Hồ, huyện Đông Yên, nay thuộc huyện Châu
Giang, tỉnh Hải Hưng. Gần đây, Nguyễn Khắc Chính, hậu duệ của họ Nguyễn
Khắc ở xã Bình Hồ, huyện Đơng n này đã viết sách Danh nhân Nguyễn Khắc
Trạch thân thế và sự nghiệp, Nxb VHTT 2004. Sách giới thiệu về thân thế và sự

nghiệp của Nguyễn Khắc Trạch ở xã Bình Hồ, huyện Đơng n, và sách này đã
mặc nhiên coi nhóm tác phẩm mang tên tác giả Nguyễn Khắc Trạch là của
Nguyễn Khắc Trạch làng Bình Hồ. Phần Phụ lục trong sách có trích dịch khoảng
80 bài thơ trong nhóm các tác phẩm này. Nhưng điểm mấu chốt khiến cho tôi
băn khoăn trăn trở và dẫn dắt tôi thao thức với mỗi dịng chữ trong các văn bản
của các phẩm, chính là lời của GS Trần Nghĩa người được tác giả Nguyễn Khắc
Chính mời viết “Lời giới thiệu” cho cuốn sách, GS viết rằng: “Nguyễn Khắc
Trạch là quan chức thanh liêm, chính trực, được người đời ngưỡng mộ, q
mến, triều đình trọng dụng. Ơng đồng thời cịn là một nhà văn hóa đa diện, có
những đóng góp nhất định trong các lĩnh vực giáo dục, lịch sử, kiến trúc, xây
dựng và văn hóa. Về sáng tác, sách Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập I, do
Trần Văn Giáp chủ biên, NXB KHXH, 1971, cho biết Nguyễn Khắc Trạch có
các tập thơ văn sau đây: Nhuế Xuyên bạch bút thi tập, Nhuế Xuyên tập, Nhuế
Xuyên thi tập, Nhuế Xuyên văn tập… Nhìn chung, đối với một số tác phẩm Hán
Nơm hiện nay, cịn có điều chưa được rõ ràng, cần tiếp tục được nghiên cứu”.
Ngay soạn giả Nguyễn Khắc Chính trong sách Danh nhân Nguyễn Khắc Trạch
(1797-1884), thân thế và sự nghiệp, trang 50, chú thích (32), sau khi liệt kê các
tác phẩm của Nguyễn Khắc Trạch, cũng cảm thấy băn khoăn: “Danh mục các
tác phẩm trên tập hợp từ nhiều sách, báo, tạp chí. Tuy nhiên vẫn cịn những điều
chưa được xác định rõ ràng, cần nghiên cứu thêm”. Quả thực khi xem hết lượt
các tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện còn, thấy nhận định của học
giả Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam về tác giả của nhóm
tác phẩm trên đã có chỗ khơng đúng. Ơng đã “lấy râu ơng nọ cắm cằm bà kia”.
Bởi vậy tôi quyết định nghiên cứu văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn
Khắc Trạch hiện còn, nhằm làm sáng tỏ ai trong bốn vị Nguyễn Khắc Trạch
cùng đỗ Cử nhân dưới triều Nguyễn là tác giả đích thực của nhóm tác phẩm này.
2. Lịch sử vấn đề:
2



Từ trước đến nay chưa có một chuyên khảo nào về văn bản những tác
phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch. Chỉ có sách Danh nhân Nguyễn Khắc
Trạch – thân thế và sự nghiệp xuất bản năm 2004 của Nguyễn Khắc Chính nói
trên có đề cập đến một số khía cạnh nhỏ về nội dung nhóm tác phẩm mang tên
Nguyễn Khắc Trạch. Như trong phần viết về tình hình văn học của tác giả
Nguyễn Khắc Trạch làng Bình Hồ, Nguyễn Khắc Chính đã giới thiệu tác phẩm
của ơng bao gồm những tác phẩm như LTCTGVN và sách DSHNVN-TMĐY đã
thống kê. Trong phần phụ lục sách này, tác giả Nguyễn Khắc Chính có giới
thiệu bản dịch và chú thích khoảng 80 bài thơ trích trong tác phẩm Nhuế Xuyên
tùy bút thi tập (VHv.212) và Nhuế Xuyên thi tập (A.444). Theo nguyên chú ở
trong sách, phần trích dịch này do GS.Trần Nghĩa và Thọ Nhân dịch. Ngoài ra,
trong sách này tác giả Nguyễn Khắc Chính cịn trích rất nhiều những nhận định,
nhận xét của các sách, các bài báo khác ở tỉnh Hưng Yên viết về sự nghiệp văn
học của Nguyễn Khắc Trạch ở xã Bình Hồ. Chẳng hạn như Nguyễn Phúc trong
sách Danh nhân Hưng Yên (Sở VHTT và Hội VHNT Hưng n, 1997) viết:
“Nói về văn chương Nguyễn Khắc Trạch thì thật là một điều khiến nhiều người
sửng sốt, ông để lại trên một chục tác phẩm với hàng nghìn bài thơ, vài trăm bài
văn…”. Còn Hai trăm năm nhớ về một con người (Báo Hưng Yên ngày 06- 121997) Thế Hải viết: “Ân Thi xưa sau Nguyễn Trung Ngạn (1298 - 1370) có tài
học rộng, văn thơ hay phải kể đến Nguyễn Khắc Trạch (1797- 1884), ông đã để
lại hàng nghìn bài thơ và hàng trăm bài văn”.
Tóm lại, cũng như Nguyễn Khắc Chính, các sách báo khác ở Hưng Yên
khi viết về Nguyễn Khắc Trạch ở xã Bình Hồ đều cho biết ơng có những tác
phẩm như Trần Văn Giáp đã cho biết trong LTCTGVN và DSHNVN-TMĐY đã
lên thư mục. Những nhận định, đánh giá về những tác phẩm của Nguyễn Khắc
Trạch còn dừng lại ở mức chung chung, chưa thật cụ thể. Bởi vậy, luận văn của
tôi sẽ là cố gắng đầu tiên đi vào nghiên cứu văn bản những tác phẩm mang tên
Nguyễn Khắc Trạch hiện còn được lưu trữ ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Văn bản nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc

Trạch được viết bằng chữ Hán, hiện lưu giữ ở thư viện Viện nghiên cứu Hán
3


Nơm. Ngồi ra, những tài liệu liên quan đến các nhân vật mang tên Nguyễn
Khắc Trạch sống dưới triều Nguyễn cũng là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong điều kiện tư liệu hiện có, và với điều kiện khả
năng cho phép tiến hành việc khảo sát, so sánh, đối chiếu và làm thư mục của 7
tác phẩm bao gồm cả thơ lẫn văn.
4. Phương pháp tiến hành:
4.1. Phương pháp văn bản học:
Do yêu cầu nghiên cứu văn bản, luận văn sẽ vận dụng các phương pháp của
văn bản học, bắt đầu là việc thu thập đầy đủ văn bản nhóm tác phẩm mang tên
Nguyễn Khắc Trạch mà cuốn DSHNVN-TMĐY đã nêu trong thư mục. Thứ đến,
tiến hành mô tả vật lý, đọc văn bản, xử lí các nội dung chứa trong văn bản, làm
thư mục các bài thơ bài văn để so sánh đối chiếu nhằm tìm ra bản tiêu biểu nhất,
đáng tin cậy nhất. Ngồi ra cịn tìm hiểu về q trình truyền bản, chữ kiêng húy
để xác định niên đại của văn bản.
4.2. Phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu, phân tích chứng minh.
Luận văn thống kê những cứ liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp của
các vị Cử nhân Nguyễn Khắc Trạch trong và ngoài tác phẩm (nội chứng, bàng
chứng) để từ đó tiến hành so sánh đối chiếu, từ đó chứng minh ai là tác giả đích
thực của nhóm văn bản này.
5. Đóng góp mới của luận văn.
Thứ nhất, trên cơ sở thu thập văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn
Khắc Trạch hiện còn, tiến hành nghiên cứu văn bản tìm ra bản đáng tin cậy nhất,
đây là điều trước đây chưa ai làm. Đồng thời, lập thư mục số lượng các bài trong
các dị bản, tiến hành so sánh đối chiếu sự tương đồng và dị biệt để đi đến xác
định số lượng các bài thơ, bài văn đích thực của tác giả là bao nhiêu.
Thứ hai, từ các nội chứng trong tác phẩm, kết hợp với những bàng chứng

về thân thế và sự nghiệp của tác giả, luận văn đã chứng minh được ai là tác giả
đích thực của nhóm tác phẩm này, nhằm đem lại quyền tác giả cho tác phẩm.
Tránh tình trạng từ một ngộ nhận của một học giả đi trước mà kéo theo bao nhận
định sai lầm khác của các thế hệ kế sau.
6. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn có 3 chương như sau:
4


Chương 1: Về văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch
hiện cịn.
Chương 2: Ai là tác giả đích thực của nhóm tác phẩm trên.
Chương 3: Sơ bộ tìm hiều giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm.
Cuối luận văn là phần Phụ lục (phần trích dịch những bài mà trong luận văn
đã đề cập đến trong Chương 2 và Chương 3)

5


Chương 1
VỀ VĂN BẢN NHỮNG TÁC PHẨM MANG TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH
HIỆN CỊN
1.1. Tình trạng văn bản.
Sách Di sản Hán Nôm Việt Nam-Thư mục đề yếu (DSHNVN-TMĐY)
cho biết văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch tại thư viện
Viện nghiên cứu Hán Nơm cịn có 9 bản. Tên gọi các tác phẩm phần lớn có hai
từ chung đứng đầu là “Nhuế Xuyên”, cũng có bản viết là “Nhuế Giang” hay
“Thuấn Nhuế”. Theo nội dung bài thơ “Tân định danh hiệu trình Vĩnh Lăng nhị
thú đài” trong tác phẩm Nhuế Xuyên tùy bút thi tập, thì “Nhuế Xuyên” là tên
hiệu của Nguyễn Khắc Trạch tự đặt cho mình. Vậy có thể tên gọi các tác phẩm

như thế là do tác giả tự ghi, cũng có thể do người sưu tầm sao chép số thơ này tự
ý ghi vào. Tên cụ thể của các văn bản là:
(1) Nhuế Xuyên thi tập. Kí hiệu A.444
(2) Nhuế Xuyên thi tập. Kí hiệu VHv.213
(3) Nhuế Xuyên tùy bút thi tập. Kí hiệu VHv.212.
(4) Nhuế Xuyên bạch bút thi tập. Kí hiệu A.517.
(5) Nhuế Xuyên văn tập. Kí hiệu A.2169
(6) Nhuế Xuyên thặng bút văn tập. Kí hiệu VHv.214
(7) Nhuế Xuyên trướng tập. Kí hiệu VHv.215
(8) Thuấn Nhuế thi văn tập. Kí hiệu A.2538
(9) Thọ tịch châu cơ. Kí hiệu VHv.608
(10) Ngồi ra, thơ, phú của Nguyễn Khắc Trạch cịn có chép trong nhiều
tác phẩm của người khác. Như thơ của Nguyễn Khắc Trạch có chép trong Minh
đơ thi tuyển. Kí hiệu A.2171; Vi giang hiệu tần tập. Kí hiệu VHv.216; Vũ trung
tùy bút. Kí hiệu A.2312. Phú có chép trong Tam đăng Hồng Giáp trường phú.
Kí hiệu VHv.321.
Ở đây chúng tơi chủ yếu chỉ đi vào mơ tả tình trạng văn bản và đi sâu tìm
hiểu các văn bản độc lập của Nguyễn Khắc Trạch, cịn thơ văn trướng phú của
ơng chép ở tác phẩm của người khác thì chỉ tìm hiểu về phần của Nguyễn Khắc
Trạch ở trong đó mà thơi. Sau đây là tình trạng của từng loại văn bản.
1.1.1. Tình trạng các văn bản thơ.
6


1. Bản Nhuế Xuyên tùy bút thi tập. Kí hiệu VHv.212.
Khổ 15 x 26 cm, viết tay trên giấy dó mỏng đã ố vàng. Bìa có hai tờ: tờ bìa
chính ở ngồi làm bằng giấy các-tơng, được qt sơn đen; tờ bìa phụ ở trong
bằng giấy dó, qt sơn màu vàng đất. Trên tờ bìa phụ thứ hai có tem của “Thư
viện khoa học Trung ương”. Sau hai tờ bìa chính và phụ, đến tờ ghi tên tác
phẩm. Tên tác phẩm viết dọc bằng bút lông mực tàu đen, cỡ chữ lớn hơn phần

chính văn. Sau tờ này, cịn có hai tờ giấy để trống, rồi mới đến phần chính văn.
Mặt a tờ thứ nhất (trong hai tờ giấy để trống) có dịng chữ Hán “Sơn Tây n
Sơn Thuấn Nhuế nhân, Tự Đức tứ thập niên Tân Dậu khoa Cử nhân, quan sử
quán biên tu”. Dòng chữ này viết bằng bút mực xanh của thời nay, nên đây là
chữ của người thời nay mới viết vào. Tiếp đến là phần chính văn. Dịng đầu tiên
của phần chính văn “Nhuế Xun tùy bút thi tập quyển chi nhất”. Sau dịng này,
có một đoạn đề bạt (khoảng ba dòng), tiếp đến thơ.
Phần gáy ở hai đầu quét sơn đỏ, để trống một khoảng để viết tên tác phẩm
“Nhuế Xuyên tùy bút thi tập”. Bản này khơng thấy đánh số trang. Phần chính
văn tổng cộng 189 trang, mỗi trang văn bản được chép 8 dịng, mỗi dịng có
khoảng 23 đến 24 chữ. Cả bản đều chép thơ, tổng cộng 422 bài. Tên các bài thơ
đều viết án xuống nên rất dễ nhận ra. Thơ vừa có tứ tuyệt vừa có thất ngơn bát
cú, cũng có lẫn vài bài ngũ ngơn và thất ngơn trường thiên. Riêng trong “Nhuế
Xuyên tùy bút quyển chi nhất” đều làm theo thể thất ngơn tứ tuyệt; cịn các
quyển sau thì chủ yếu là thơ thất ngơn bát cú. Trong thơ có rất nhiều phụ chú và
cước chú, gần như bài nào cũng có. Cước chú và phụ chú, cỡ chữ nhỏ hơn chính
văn.
Dấu tích đọc duyệt văn bản được thể hiện qua màu mực đỏ gạch, viết bằng
bút lông, dùng trong các trường hợp như ngắt câu, bổ sung chữ thiếu, xóa chữ
viết sai, đồng thời viết chữ đúng theo cách nhìn của người đọc duyệt văn bản.
Nét bút duyệt này ở q1và q4 chỉ dùng để ngắt câu, khơng thấy có sửa chữa hay
thêm bớt gì. Ở q2 và q3 việc thêm chữ, thêm câu chú, gạch bỏ sửa lại xuất hiện
tương đối nhiều. Tính ra có đến khoảng 45 chỗ. Có những chỗ thêm cả câu chú
vào văn bản, như ở trên cùng d8 t77 thêm vào mấy chữ “Lê thần dĩ hạ”; bên
phải d6 t80 thêm vào mấy chữ “Thiên cổ trung nhất can bút họa xuất”; bên phải
d6 t104 thêm vào mấy chữ “Thiếu bảo Bùi Tuấn dã” vv. Ngoài ra, dấu bút duyệt
7


còn đánh dấu các danh từ riêng, địa danh, nhân danh, niên hiệu và khuyên tròn

bên cạnh một số câu chữ nào đó.
Về chữ húy, chữ “thời” trong tồn văn bản đều nhất qn viết kiêng húy
thành chữ “thìn” ví dụ ở d5 t20, d8 t167, d5 t167, d7 t171, d1 t174 …..
Văn bản khơng có mục lục, nhưng xem hết lượt thấy cả bản chia làm bốn
quyển cộng với một phần cuối chia tác phẩm theo thời gian sáng tác. Thứ tự các
quyển và phần phụ thêm cụ thể như sau:
- “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi nhất” từ t1 đến d7 t41.
- “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi tứ” từ d8 t41 đến hết t76.
- “Nhuế Xuyên thi tập quyển chi nhị” từ t77 đến d1 t147, cộng với một
phần phụ thêm ở cuối quyển 3 từ t165 đến t170, phần phụ thêm chắc do người
chép bổ sung.
- “Dĩ hạ tại đệ tam quyển” từ d2 t147 đến t163. Giữa quyển ba và phần
chép thêm của quyển hai để trống một mặt giấy. Tên quyển ba khơng trình bày
như ba quyển trên, tức tên quyển khơng viết chữ to bằng chính văn và viết giống
quyển 1 và quyển 4 theo kiểu “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi…” mà viết
bằng cỡ chữ nhỏ như phụ chú dưới mục đề của một bài thơ, tức chỉ viết “dĩ hạ
tại đệ tam quyển”, sau bài cuối cùng quyển này còn chú cho rõ thêm “hữu tại đệ
tam quyển”.
- “Nhuế Xuyên thi tập, nc: Đinh Sửu dĩ hạ”, từ t171 đến t189 (đến hết).
Phần này không chia theo quyển mà chia theo trình tự thời gian sáng tác. Năm
sáng tác được ghi chú ngay dưới tên phần thơ đó.
Như vậy bản này vừa chia theo quyển vừa chia theo trình tự thời gian sáng
tác. Các quyển trong văn bản cũng khơng đặt theo trình tự, q4 lại đặt lên trước
q2 và q3, có lẽ khi sưu tập thơ của tác giả, người chép tìm thấy q4 trước.
Trong cả bản, có ba loại chữ khác nhau. Cụ thể là: q1 và q4 (t1 đến t53)
viết cùng một loại chữ, chữ viết theo thể hành, có nhiều chữ viết theo giản thể,
nhưng ít chữ viết ngốy, nét viết hơi tròn. Sang q2 và q3 (t74 đến t170) nét bút
nhìn tổng thể khác với phần trên, cũng viết theo thể hành, có nhiều chữ viết
thảo, đá thảo, nét bút phóng khống hơn, thể hiện rõ nét thanh nét đậm, vuông
thành sắc cạnh hơn phần trước. Phần “Nhuế Xuyên thi tập, Đinh sửu niên dĩ hạ”


8


(t171 đến t189) nét chữ khác với hai phần trên, chữ viết theo thể hành, cũng có
chữ đá thảo. Đơn cử ra đây cách viết chữ “聲 thanh” ở trong 3 loại chữ:
Ở q1 và q4, chữ này được viết theo dạng chữ giản thể của thời hiện đại 声,
các nét rõ ràng như ở d6 t2, d7 t3, d2 t13, d3 t19, d4 t20, d5 t35, d5 t38, d2 t43,
d1 t53, d2 t54, d6 t55, d4 t59, d6 t60, d7 t62, d4 d6 t63…tất cả các chữ “thanh”
trong hai quyển này đều viết theo kiểu giản thể này.
Ở q2 và q3, chữ “thanh” cũng có một số nơi viết theo giản thể nhưng phần
lớn đều viết theo phồn thể và viết thảo, các nét trong chữ gần như viết liền nhau,
như ở: d1 t83, d5 t88, d5 t96, d3 t97, d8 t103, d8 t109, d6 t115, d6 d8 t121, d5
t129, d4 t132, d8 t132, d2 t134, d4 t136, d1 t141, d1 t153, d8 t154, d4 t155, d4
t156, d8 t157, d4 t159, d5 d7 t162…
Ở phần “Nhuế Xuyên thi tập Đinh Sửu niên dĩ hạ”, chữ “thanh” được viết
theo dạng phồn thể, các nét, các bộ phận trong chữ tương đối rõ ràng, chỉ có bộ
“nhĩ” viết tháu giống như con số 3 trong chữ quốc ngữ bây giờ, ví dụ ở: d8t172,
d6t183, d3t185…
Với ba loại chữ khác nhau như thế, cho thấy văn bản này do nhiều người
sao chép.
Trong bản, đầu q1 có một đoạn đề tựa đặt sau dòng “Nhuế Xuyên tùy bút
thi tập quyển chi nhất ” như sau: “Dư nhân bình duyệt bản phủ Thái thú Nguyễn
Phát Khoa, (nc: Thừa Thiên Thành Công) Lịch hoạn thi phổ, mỗi ngộ vị an xứ,
tùy bút cải chính, cựu hủy tân thành, toại vi kỷ tác, hỗn nhập tập trung, chí dư
thi dã. Biệt cư tập thủ, minh phi dư đề dã. Ngự sử cải thụ Thị lang Thuấn Nhuế
Ngoại thôn Nguyễn tiên sinh cẩn thức.” (Ta nhân lúc bình duyệt ‘Lịch hoạn thi
phổ’ của Nguyễn Phát Khoa người xã Thành Công, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên là Thái thú ở phủ ta. Mỗi khi gặp chỗ chưa ổn, tiện tay sửa đổi, bỏ
cũ thay mới, bỗng trở thành tác phẩm của ta, rồi chép chung vào trong tập thơ

của ta. Nhưng số thơ này để riêng ở đầu tập, vì chúng nguyên chẳng phải là thơ
làm theo đề của ta. Ngự sử cải thụ Thị Lang Thuấn Nhuế Ngoại thơn Nguyễn
tiên sinh kính cẩn đề tựa). Theo đoạn đề tựa này, nhất là từ “đầu tập”, ở đây
chưa rõ ý của ông “đầu tập” là của “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi nhất”
hay “đầu tập” là phần đầu của tác phẩm “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập” tức cả văn
9


bản, bởi q1 không thấy chia phần. Q1 không chia ra từng phần, nhưng dựa vào
nội dung các bài thơ trong q1 này, thấy có hai phần:
Phần đầu từ bài 1 đến bài 79, nội dung gồm các bài thơ vịnh về núi sông
phong cảnh nhân tài, tập tục, trường sở, lị quán, hàng phố…ở huyện Quảng
Xương và tỉnh thành Thanh Hóa. Bài đầu tiên của phần này là “Quảng Xương
huyện đường” rồi bài “Quảng Xương học xá” vv. Để sau đây cho tiện gọi xin đặt
cho phần này là “Thanh Hóa thi”
Phần sau, từ bài 80 đến bài 138, nội dung gồm các bài thơ vịnh về núi sông,
cảnh vật, nhân tài, tập tục…ở phủ Quốc Oai. Bài đầu tiên của phần này là “Quốc
Oai phủ thành” rồi bài “Quốc Oai phủ học xá” vv. Để sau đây cho tiện gọi
cũng xin đặt cho phần này là “Quốc Oai thi”.
Dưới tiêu đề bài “Quốc Oai phủ thành” của phần “Quốc Oai thi” có cước
chú: “Tập trung đại thú khẩu vẫn” (trong tập này ta thay cho giọng điệu của thái
thú). Nếu như dựa vào câu nói này thì phần này lại là thơ của Khắc Trạch ư? Ở
bản Nhuế Xun thi tập, Kí hiệu A.444 cũng có phần “Quốc Oai thi”. Phần
“Quốc Oai thi” ở Nhuế Xuyên thi tập được mang tên “Nhuế Xuyên lịch hoạn thi
- Quốc Oai thi thảo”, khơng thấy viết lời tựa nói trên, khơng thấy chép phần đầu
(phần “Thanh Hóa thi”). Như thế tác phẩm Nhuế Xuyên thi tập A.444 đã công
nhận phần “Quốc Oai thi” là của Nguyễn Khắc Trạch.
Nhưng riêng tơi thì không, tôi cho rằng nửa sau của quyển 1 (tức phần
“Quốc Oai thi” <t24b80 đến t41b138> vẫn là thơ của Nguyễn Phát Khoa. Kết
luận này căn cứ vào: thứ nhất như lời của tác giả trong bài tựa đầu quyển 1 đã

nói: “Nhưng số thơ này để riêng ở đầu tập, vì chúng nguyên chẳng phải là thơ
làm theo đề của ta”. “Đầu tập” trong câu này chắc là đầu của “Nhuế Xuyên tùy
bút thi tập” tức đầu tác phẩm. Thứ hai, ở trong phần này dưới nhiều bài thơ có
các cước chú ở cuối bài thơ kiểu như: “Nam kì nhân hữu bất tri loa giả, cựu
thường vấn dư, dư thư thử dĩ đáp chi” (Người ở Nam Kì không biết loa như thế
nào, trước đây hay hỏi ta, ta viết bài này để trả lời họ) b116>; “Nam Kì vơ thử thuế cố Thái thú dị nhi mệnh vi đề” (Nam Kì khơng có
loại thuế này cho nên thái thú thấy lạ mà làm bài này) t40b132>; “Nam vô đê bất tri tác pháp dị nhi mệnh chi” (Trong Nam khơng có
đê, nên không biết cách làm, thấy lạ nên làm bài này) <Đê tâm gia chử,
10


t41b138>…>. Nguyễn Phát Khoa là bạn thân với Nguyễn Khắc Trạch. Sách
NƠNƠCTN cho biết: “Nguyễn Phát Khoa trước có tên là Nguyễn Đôn Khiêm
người xã Thành Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Thi Hương
khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1967) tại trường Thừa Thiên. Làm đến chức
Án sát”. Theo bài văn “Tứ Quốc Oai phủ nha hạ bản quan trướng tự” (Trướng
trần bày cấp trên ban cho sở quan phủ Quốc Oai chúc mừng quan của bản phủ)
<VHv.214, t126b48>, Phát Khoa sau khi thi đỗ Cử Nhân chức giữ chức đầu tiên
là Án sát tỉnh Thanh Hóa, một thời gian làm Tri huyện huyện Hịa Vinh, phủ
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Sau đó lại cải bổ Thái thú phủ Quốc Oai. Không
những Nguyễn Khắc Trạch duyệt bình, nhuận sắc thơ của Nguyễn Phát Khoa
mà cịn làm rất nhiều thơ tặng tiễn, chúc mừng ông, chẳng hạn như chùm thơ
“Tập Đường thập thủ tống song linh tân doãn Nguyễn Phát Khoa chi quan”
<A.515, t43>… Thứ ba, cũng theo bài văn “Tứ Quốc Oai phủ nha hạ bản quan
trướng tự” có những đoạn viết: “Tân thú doanh phủ Nguyễn công lai, nhi phụ
mẫu ngã, thất nguyệt dĩ cập kim hĩ. Mệnh thủy hạ, mạc hữu thức kì tường giả.
Chất chư Ngự sử Nhuế Xuyên Nguyễn đài, đài viết ‘ngô hữu dã, ngô tri chi,
quốc sơ Thành Công tổng trấn quan’… Nhuế Xuyên thường tập Đường thi dĩ

tiễn công khứ…Phục văn công hữu ‘Lịch hoạn thi phổ’, cận lai ngã phủ sơn
xuyên, cảnh vật, nhân tài, phong tục, đương dĩ nhập vịnh.” (Thái thú mới ông
Nguyễn lớn lao thay đã đến, ông là quan phụ mẫu của bọn ta từ tháng 7 đến nay.
Khi mới có lệnh ơng đến phủ ta, khơng có ai biết tí gì về ơng cả, bèn đến hỏi
Ngự sử Nhuế Xuyên Nguyễn đài, ông trả lời rằng ‘là bạn của ta, ta quen ông ấy,
ông là quan ở tổng trấn Thành Công từ đầu thời Tự Đức…’. Ông Nhuế Xuyên
thường làm thơ tập Đường để tiễn ơng đi…Cịn nghe ơng có ‘Lịch hoạn thi
phổ’ phong tục, nhân tài, cảnh vật, núi sông của phủ ta gần đây đã được
ông vịnh vào trong thi phổ). Thứ tư, trong phần này có nhiều cước chú có khi
dưới câu thơ, có khi dưới tiêu đề: “nguyên, nhuận, tân” (để nguyên, sửa đổi, làm
mới) bằng bút mực đen cùng màu với chính văn, nên có lẽ đó là lời chú của
Khắc Trạch khi nhuận sắc phần thơ này. Qua đây chúng ta có thể khẳng định
rằng q1 (từ bài“Quốc Oai phủ thành”<b80t25> trở đi) do Nguyễn Phát Khoa
làm, nhưng chắc phần này được Nguyễn Khắc Trạch khi bình duyệt đã sửa đổi
nhiều, có những chỗ sửa chữa nhiều quá, trở thành như thơ của Khắc Trạch.
11


2. Nhuế Xuyên thi tập. Kí hiệu A.444.
Khổ 23 x 32, sách chép tay trên giấy dó dày, giấy cịn khá mới. Bìa bằng
màu hồng, giống bìa vở học sinh thời nay. Sau tờ bìa chính có tờ bìa phụ bằng
giấy dó, trên đó viết: “Nhuế Xuyên thi tập - Tốn Trai thi tập hợp đính”. Dịng
này được viết bằng bút mực xanh của thời nay, nên đây là do người sau này mới
viết. Sau tờ này đến tác phẩm Nhuế Xuyên thi tập. Đây là bản hợp đính nên có
hai tác phẩm, tác phẩm Nhuế Xuyên thi tập có kí hiệu A.444 ở nửa đầu văn bản,
nửa sau là Tốn Trai thi tập kí hiệu A.445. Phần gáy quét sơn đỏ, trên đó viết tên
của tác phẩm nhưng do mối mọt ăn nên đã mất một số chữ chỉ còn “Xuyên thi
tập - Tốn Trai thi”. Như vậy đã mất đi chữ “Nhuế” và “tập hợp đính”.
Ở mỗi trang, mép bên ngồi đều ghi Nhuế Xun thi tập, phía dưới ghi số
thứ tự tờ. Phần chính văn tổng cộng 246 trang, viết trên hai mặt giấy, mỗi trang

văn bản có 9 dịng, mỗi dịng có khoảng 19 chữ. Dịng đầu tiên tờ 1 phần chính
văn là “Nhuế Xuyên cử nhân Nguyễn Khắc Trạch thi tập”, ở đây chữ “Trạch”
tên tác giả được viết bằng chữ (澤), nhưng ở các bản khác đều viết chữ (宅), cỡ
chữ dòng này bằng chính văn. Từ đầu tác phẩm đến cuối tác phẩm được viết
cùng một loại chữ, chữ chân phương, rõ ràng, dễ đọc. Các cước chú, phụ chú
khá nhiều, nhưng viết khơng nhất qn, có chỗ viết chữ nhỏ hơn phần chính văn
(ví dụ: d4 t39; d1 t39; d2 t41), có chỗ lại viết chữ to bằng phần chính văn (d7,8
t38; cả trang 49). Tiêu đề các bài thơ viết không đài lên hay án xuống nên rất
khó nhận ra.
Dấu tích đọc duyệt văn bản được thể hiện qua màu mực đỏ hồng, bằng bút
lông, dùng trong các trường hợp như ngắt câu, đánh dấu bên địa danh, nhưng
không thấy sửa chữa, gạch xóa hay thêm bớt. Cả bản đều nhất qn viết kiêng
húy chữ “thời” thành chữ “thìn”.
Văn bản khơng có bạt tựa gì, tên tác phẩm là “thi tập”, nhưng trong đó chép
lẫn cả thơ, văn, phú và câu đối. Cả bản tổng cộng có 331 bài thơ, 19 bài văn,
hơn 100 cặp câu đối, câu đối chép xen lẫn trong phần văn. Từ trang đầu đến
trang 159 chép thơ, sau trang 159 đến hết chép văn và câu đối.
Mặc dầu khơng chia quyển nhưng có các phần đặt theo trình tự như sau:
- “Nhuế Xuyên Cử nhân Nguyễn Khắc Trạch thi tập” từ t1 đến t92,
12


- “Hoàng triều ngự chế quan chức thi” từ d4 t92 đến hết t126. Trong phần
này, cuối một số bài thơ, cuối một số tiêu đề có những cước chú như: “Giải
nguyên quan soạn” <d6 t94> gồm ba bài, “Hữu Sơn Lộc tú tài đệ họa” t108>; hoặc tiêu đề một số bài thơ kiểu như: “Ngự chế Hoài Như Thanh sứ Phan
Huy Vịnh đẳng tác” <b202 t109>, “Sơn Tây tổng đốc quan soạn chẩm thi nhị
thủ” <b202 t109>, “Ngự chế khấp Nhạc Vũ Mục” <b206 t111>, “Sử cục biên tu
Phạm Vũ Khải phụng họa” <b207 t111>, “Trường Xuân phủ doãn Lê Khắc Cẩn
phụng họa” <b208 t112> vv. Như vậy, theo như tên của phần thơ “Hoàng triều

ngự chế quan chức thi” nên trong phần này có thơ của nhiều khác. Tính ra có 17
bài có chú hoặc tiêu đề dạng như vậy.
-“Nhuế Xuyên lịch hoạn thi - Quốc oai thi thảo” từ t126 đến t146, có 57 bài
thơ, tồn thơ làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt. 57 bài thơ phần này tương đồng
với phần “Quốc Oai thi” ở nửa sau q1 của bản VHv.212 nói trên. Như đã chứng
minh, nhận định trong phần tình trạng bản VHv.212, đó là thơ của Nguyễn Phát
Khoa.
- Cuối t146 sau phần thơ “Nhuế Xun lịch hoạn thi-Quốc Oai thi thảo” có
dịng cước chú “Thượng chư thi Lê triều Trần tiến sĩ cảm tác” (Trên đây là cảm
tác của Tiến sĩ Trần triều Lê). Nếu theo ý câu chú này, phần “Nhuế Xuyên lịch
hoạn thi - Quốc Oai thi thảo” là cảm tác của Tiến sĩ Trần triều Lê. Nhưng theo
bài tựa ở bản VHv.212, đó là thơ của Nguyễn Phát Khoa, được Nguyễn Khắc
Trạch bình duyệt và nhuận sắc. Vậy có lẽ người sao chép đã viết nhầm chăng?
Quả đúng như lời phỏng đốn, bởi sau dịng chú “Thượng chư thi Lê triều Trần
tiến sĩ cảm tác” có 31 bài thơ. Đến cuối bài thứ 26 trong 31 bài này (t157) lại có
dịng cước dưới một bài thơ: “Hữu chư vịnh Lê triều Trần tiến sĩ cảm tác” (Phần
bài vịnh ở trên là cảm tác của Trần tiến sĩ triều Lê). Như vậy chữ “thượng” trong
“Thượng chư thi Lê triều Trần tiến sĩ cảm tác” ở trang 146 phải đổi là “hạ” mới
ăn khớp với chú ở t157, như thế người sao chép đã viết nhầm. Vậy 26 bài trong
phần này là của Tiến sĩ Trần triều Lê.
- Tiếp đó (t158 và t159), cịn có 4 bài thơ, khơng thấy chú thích gì, nên
cũng chưa biết có phải thơ của Nguyễn Khắc Trạch không?
- Từ trang 160 đến hết chép câu đối lẫn văn, phần văn này chép rất tùy
tiện, nhiều bài khơng có tiêu đề. Nói chung phần văn và câu đối trong bản này
13


chủ yếu là của người khác, văn chỉ có bài “Sơn Tây thị độc Nguyễn Khắc Trạch
đại lục bộ vãn hiển điện đại học sĩ tướng công Nguyễn Tri Phương văn” có chú
do Nguyễn Khắc Trạch soạn. Riêng câu đối phần lớn là của người khác phúng

viếng, mừng tặng Nguyễn Khắc Trạch.
3. Nhuế Xuyên bạch bút thi tập. Kí hiệu A.517.
Khổ 22 x 32, viết trên giấy dó dày. Bìa bằng giấy các tơng màu vàng đóng
đơi, phần gáy phía sau đã sờn rách. Khoảng 1/3 nửa trên của gáy phía sau đề tên
tác phẩm “Nhuế giang bạch bút thi”. Văn bản có đánh số trên tất cả các trang ở
mép ngồi.
Trừ tờ bìa chính và tờ bìa phụ, tổng cộng có 142 trang chính văn, chép trên
hai mặt giấy, mỗi trang 9 dòng, mỗi dòng 20 chữ. Cả bản viết cùng một loại chữ,
chữ viết rõ ràng chân phương, dễ đọc, khơng có chữ viết tháu hay thảo. Cả tác
phẩm có 306 bài thơ, chép liền mạch khơng chia quyển hay phần.
Trang đầu, dòng đầu viết “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập”, dòng thứ hai “Ngự
sử An Chi Nguyễn Khắc Trạch”. Trong dòng thứ hai chữ “Trạch” tên tác giả có
hai chữ, chữ trên viết 澤, bên phải chữ này có dấu gạch bỏ, phía dưới viết lại
bằng chữ 宅 .
Trong văn bản khơng có dấu tích đọc duyệt văn bản, rất ít cước chú, phụ
chú. Cỡ chữ của phần phụ chú, cước chú hầu như viết bằng chính văn nên rất
khó phân biệt, ví dụ ở d 7,8,9 t1; d1,2,6,7,8 t4; d4 t6…Về tình hình kiêng húy,
chữ “thời” trong toàn văn bản đều viết kiêng húy thành chữ “thìn”.
4. Nhuế Xun thi tập. Kí hiệu VHv.213.
Khổ 20 x 18, viết tay trên giấy dó dày. Bìa chính bằng giấy xi-măng qt
sơn đen, sau đó có hai tờ bìa phụ bằng giấy dó. Phần gáy ở hai đầu quét sơn đỏ,
có để một khoảng trống viết tên tác phẩm. Sách được kẻ khung bằng mực đỏ
nhạt để viết cho ngay. Mép ngồi giữa hai trang có chữ “Tường Thái tạo”, cũng
bằng mực đỏ. Chứng tỏ giấy này do nhà sách Tường Thái làm. Sách khơng đánh
số trang, tính tổng cộng cả bản gồm 72 trang. Đầu tác phẩm viết “Nhuế Xuyên
thi tập”, nhưng dòng 7 trang 42 chép một tập thơ của người khác tên là “Duệ
Khê thi tập”. Như vậy, từ trang đầu đến d6 t42 thuộc tập thơ “Nhuế Xuyên thi
tập”, từ d7 t42 đến hết thuộc “Duệ Khê thi tập”
14



Trang 1, dòng đầu tiên viết “Nhuế Xuyên thi tập”, tiếp sau đến chính văn.
Tổng cộng 42 trang, mỗi trang văn bản có 11 dịng, mỗi dịng có khoảng 15 chữ,
chữ viết thảo, khó đọc. Cả tác phẩm có tổng cộng 90 bài thơ.
Trong bản khơng có dấu tích đọc duyệt văn bản. Các chữ “thì” trong văn
bản đều được viết kiêng húy thành chữ “thìn”.
5. Thơ của Nguyễn Khắc Trạch chép trong tác phẩm của người khác.
- Phần “Nhuế Xuyên bạch bút thi biên toàn tập quyển chi nhị” trong
tác phẩm Vũ trung tùy bút. Kí hiệu A.2312.
Phần “Nhuế Xuyên tùy bút thi biên toàn tập quyển chi nhị” chép trong tác
phẩm của người khác. Chép bắt đầu từ tờ 32a của tác phẩm Vũ trung tùy bút.
Phần thơ của Nguyễn Khắc Trạch ở tác phẩm này tổng cộng 26 tờ. Tờ đầu, dòng
đầu tiên viết: “Nhuế Xuyên tùy bút thi biên tồn tập quyển chi nhị”. Dưới dịng
này có dịng chữ nhỏ hơn: “Nguyễn Khắc Trạch An Chi cẩn sao thủ bút”. Song
song với dòng chữ nhỏ này có dịng: “Đồng phủ thời dã Cát Đình Hồng thị
phẩm bình”, dịng này viết bằng bút đỏ gạch. Như vậy, phần thơ của Nguyễn
Khắc Trạch trong tác này là thủ bút của chính tác giả, được họ Hồng Cát Đình
phẩm bình. Phần này tổng cộng có 84 bài thơ.
Trong bản, dấu tích đọc duyệt văn bản được thể hiện qua màu mực đỏ gạch
của bút lông, dùng trong các trường hợp như: phẩm bình, ngắt câu, khun trịn
bên các câu chữ nào đó, gạch bên những từ chỉ địa danh…Các chữ “thì” kiêng
húy thời Tự Đức đều được viết bằng chữ “thìn”.
- Phần thơ trong Minh đơ thi tuyển. Kí hiệu A.2171.
Trong tác phẩm này, phần thơ của Nguyễn Khắc Trạch từ tờ 86a. Có tổng
cộng 39 bài. Đây là tác phẩm “thi tuyển” nên phần thơ của Nguyễn Khắc Trạch
trong tác phẩm này được tuyển từ nhiều nguồn, trong đó tuyển cả những bài ở
nửa đầu quyển 1 bản VHv.212 (phần “Thanh Hóa thi” và “Quảng Xương thi”,
tức phần chúng tôi đã nhận định là thơ của Nguyễn Phát Khoa do Khắc Trạch
bình duyệt và nhuận sắc). Nói chung, thơ trong phần ít, nhưng tương đồng
nhiều, chỉ có 5 bài dị biệt.

- Phần thơ trong Vi giang hiệu tần tập. Kí hiệu Vhv.216.
Trong tác phẩm này, phần thơ của Nguyễn Khắc Trạch từ tờ 69a đến tờ
74b, chữ in rõ ràng. Tờ đầu, dòng đầu phần thơ Nguyễn Khắc Trạch có dịng:
15


“Nhuế Xuyên Nguyễn An Chi thi tập, Sơn Tây Thuấn Nhuế nhân, tự Khắc Trạch,
Tân Dậu cử nhân”. Tổng cộng có 37 bài thơ, trong đó có 10 bài dị biệt với các
bản độc lập và các phần ở tác phẩm người khác.
Trong phần này có 1 chữ “thời” ở d2 tờ 73a không viết kiêng húy, chứng tỏ
phần thơ trong tác phẩm này được in sau thời Tự Đức.
Hiện chỉ cịn 4 bản thơ độc lập được mơ tả tỉ mỉ ở trên và 3 phần chép
trong tác phẩm của người khác. Trong q trình mơ tả văn bản, khi đi vào nội
dung của từng phần trong tác phẩm, chúng tôi đã phát hiện trong trong bản
VHv.212 và A.444 có chép khá nhiều thơ của người khác. Bởi vậy, chúng tôi
tổng hợp số lượng thơ của các tác phẩm trước và sau khi đã sàng lọc thơ của
người khác qua bảng I dưới đây.
Bảng I: Bảng tổng hợp số lượng thơ trong các tác phẩm trước và sau
khi khấu trừ những bài được nhận định của người khác.
STT

Tên tác phẩm

Kí hiệu

Số thơ khi chưa

Số thơ xác

Số thơ khi đã


khấu trừ trong

định của

khấu trừ trong

các tác phẩm

người khác

các tác phẩm

1

N.X thi tập

A.444

331

57+26+17=100

231

2

N.X tùy bút thi tập

VH.v212


422

138

284

3

NX thi tập

VHv.213

90

0

90

4

NX bạch bút thi tập

A.517

306

0

306


5

Phần trong Vũ trung tùy bút

A2312

84

0

84

6

Phần trong Minh đô thi tuyển

A.2171

39

0

39

7

Phần trong Vi giang hiệu tần tập

VHv.216


37

0

37

1309

238

1071

Tổng

(Tổng tất cả các bản)

1.1.2. Đối chiếu văn bản và một vài nhận định bước đầu.
So sánh đối chiếu văn bản để chọn ra bản có niên đại tương đối sớm và tốt,
đồng thời tìm ra bản có nội dung khá hồn chỉnh để làm bản nền “để bản”.
Qua bảng I, cho thấy số tổng lượng thơ của Nguyễn Khắc Trạch hiện còn
trong các tác phẩm độc lập và các phần chép trong tác phẩm của người khác là
1071 bài. Song, trong số 1071 bài này tương đồng và dị biệt rất nhiều. Bởi vậy
chúng tôi lập bảng đối chiếu dị bản, để tìm ra số lượng thơ đích thực của tác giả.
Thứ đến, tìm ra “để bản” trong rất nhiều bản và phần nói trên. Nhưng số văn bản
16


nhiều, số lượng thơ trong các bản khơng ít, cộng thêm nhiều tiêu đề bài thơ rất
dài. Nếu làm thư mục so sánh tất cả các bản và các phần trong các tác phẩm của

người khác nữa sẽ gây “đa thư loạn mục”. Thế nên, luận văn chỉ so sánh thơ của
4 bản độc lập: VHv.212, VHv.213, A.444, A.517. Ngoài ra từ bài 131 đến 306
của bản A.517 xét thấy các bài trong phần này khơng có sự tương đồng với bản
hay phần nào, khi so sánh cũng mạn phép trừ ra để giảm bớt sự rắc rối trong khi
so sánh. So sánh xong chúng tôi sẽ tổng hợp lại sau. Phần thơ chép trong tác
phẩm của người khác cũng có sự tương đồng dị biệt, nhưng số lượng thơ ở các
phần này ít, chúng tơi cũng mạn phép so sánh nháp ở ngoài, rồi tổng hợp lại sau.
Sự so sánh về tương đồng và dị biệt các bài thơ được thể hiện trong bảng II. Còn
sau đây là so sánh để tìm ra để bản.
- Bản VHv.212, như tình trạng văn bản đã mơ tả, trong một bản có ba loại
chữ, nên bản này do ba người sao chép. Hiện chỉ còn thủ cảo của tác giả ỏ phần
“Nhuế Xuyên tùy bút thi biên toàn tập quyển chi nhị” chép ở tác phẩm Vũ trung
tùy bút. Chúng tôi đã so sánh nét chữ ở phần này với ba loại chữ trong VHv.212,
khơng có loại chữ nào giống nhau, vậy có thể kết luận bản VHv.212 này khơng
phải thủ cảo của tác giả. Trong bản này cũng có “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập
quyển chi nhị” nhưng số lượng bài nhiều gần gấp đôi phần “Nhuế Xuyên tùy bút
thi biên toàn tập quyển chi nhị” trong tác phẩm Vũ trung tùy bút (VHv.212 có
143 bài, VTTB có 84 bài). Như vậy, qua đây cho thấy q2 của VHv.212 sưu tập
đầy đủ hơn.
Đem VHv.212 so với ba bản độc lập VHv.213, A.444, A.517 có một số
điểm vượt trội như sau: Thứ nhất giấy dó bản này mỏng và cũ hơn các bản. Sách
mang kí hiệu VHv, có dấu triện của Thư viện KHTƯ, theo nhận định về các
phông sách của DSHNVN-TMĐY, sách ở Thư viện KHTƯ, chủ yếu sách sưu
tầm từ các thư viện thời trước, nên bản này là sách sưu tầm. Trong tác phẩm cịn
lưu dấu tích bình duyệt và nhuận sắc, điều mà các bản cịn lại khơng có nên nó
gần với thủ cảo hơn. Thứ hai, tác phẩm chia quyển và phần rõ ràng, trong các
quyển và phần đó thời gian sáng tác hầu như chưa bị xáo trộn trình tự vốn có. Ví
dụ quyển hai chép các bài làm bắt đầu từ năm Tân Dậu (1861), tiếp đến năm
Nhâm Tuất (1862), năm Đinh Mão (1867), rồi Mậu Thìn (1868); quyển 3 gồm
các bài làm trong năm Giáp Tuất (1874); quyển 4 gồm các bài làm năm Ất Hợi

17


(1875) và Bính Tí (1876)… Thứ ba, cước chú và phụ chú trong bản này nhiều
hơn đầy đủ hơn so với các bản khác. Luận văn đã thống kê về cước chú và phụ
chú của 10 bài trong chùm thơ “Thống trung thiềm phát thập thủ” và 10 bài
trong chùm thơ “Nhâm Tuất niên kinh hành khán cố Lê tiết nghĩa truyện…” làm
đại diện. Kết quả được tổng hợp trong bảng sau:
Số lượng cước chú, phụ chú của hai
chùm thơ các trong các bản

Tên chùm thơ
Thống trung thiềm phát thập thủ

VHv 212

A 444

A 517

38

28

1

19

12


10

Nhâm tuất niên kinh hành khán cố Lê
tiết nghĩa truyện, mỗi đáo nhất công
lược vịnh nhất thi dĩ tiện kí ức.
Qua bảng trên, cho thấy bản VHv.212 có số lượng cước chú nhiều nhất.
Khơng những thế, câu chữ trong từng chỗ cước chú ở bản này cũng đầy đủ hơn,
mang khẩu khí bạch thoại hơn các bản khác. Ví dụ có những chỗ bản này chép:
“giả hạn nhị cá nguyệt” (d8t120), “giáo thụ thất niên cửu hĩ” (d7t122), bản
A.444 chép: “hạn nhị cá nguyệt” (d6t70), “thất niên giáo thụ” (d4t72). Thứ tư,
qua so sánh đối chiếu ở bảng II về các bài tương đồng và dị biệt. Bản này có số
lượng bài thơ tương đồng với các bản khác rất nhiều (169 bài) trong tổng số 284,
số lượng dị biệt cũng nhiều (115 bài), chứng tỏ bản này sưu tập được đầy đủ
hơn. Qua đây có thể nhận định bản này gần với thủ cảo nhất, và đầy đủ hơn cả.
Với những ưu thế vượt trội như vậy, trong khi phân tích chứng minh ở chương
II, chúng tôi chủ yếu căn cứ vào bản này, tức sẽ lấy bản này làm “để bản. Nhưng
cũng có những phần bản này khơng có, khi cần chúng tơi sẽ lấy thêm ở bản
khác.
- Về bản A.444, thứ nhất sách này mang kí hiệu A. Theo nhận định về các
kho sách của sách DSHNVN-TMĐY, phơng sách mang kí hiệu A là sách có
nguồn gốc từ Thư viện Trường Viễn đơng bác cổ. Lại theo lời ông Dương Thái
Minh (Viện nghiên cứu Hán Nơm) cho biết về tình hình các kí lục Thư viện
Trường Viễn đông bác cổ như sau: “Theo lời các cụ làm việc hồi đó, Thư Viện
của trường thường có khoảng từ 10 đến 20 nhân viên ký lục suốt năm suốt tháng
18


thực hiện cơng việc sao chép. Do khơng có máy Fotocopi nên để tránh tình
trạng nhầm lẫn giữa các bản gốc và bản sao chép, học viên cũng đưa ra một số
quy định như, khổ sách (thường là khổ sách to, 31 x 21 cm); cách ghi không đầy

đủ: thiếu lạc khoản, có thể thiếu cả Tựa, Bạt; hoặc cách ghi tổng hợp từ nhiều
nguồn do được sao chép về sau…”. Bản này cũng gặp phải các tình trạng như
lời ông Dương Thái Minh nói. Thứ nhất, văn bản mang kí hiệu A. Thứ hai, bản
này giấy dó dày, đang mới, lại có khổ giấy 32 x 23. Vì vậy đây là bản có nguồn
gốc từ Thư viện Trường Viễn đơng bác cổ, có lẽ do các kí lục của trường sao
chép lại.
Khơng những bản này khơng có Tự, Bạt gì mà khi chép cịn rất tùy tiện. Tên
tác phẩm là “thi tập” nhưng trong đó lại chép lẫn cả văn và câu đối, thậm chí
cịn chép rất nhiều văn thơ của người khác vào. Chép thiếu, chép sai, ví dụ: bài
“Ngâm kí Vĩnh Tường phủ thái thú” <t101b185> khơng có câu thơ đầu, nhưng ở
VHv.211 <t72b199> có câu này. Chép sai, chép nhầm cũng rất nhiều, như cước
chú ở bài cuối trong chùm thơ “Tống Song Linh doãn tập Đường thập thủ”, bản
này viết “thập thủ hạo cú hựu thị tương phùng dự vi nhị nhân tác sám ngữ”
(câu đầy hạo khí của 10 bài, dự định làm sấm ngữ cho hai chúng tôi gặp nhau).
Bản VHv.212 viết: “thập đề kết cú hựu thị tương phùng dự vi ngô nhị nhân tác
sám ngữ” (Câu kết của mười bài lại là gặp nhau, vì dự định làm sấm ngữ cho hai
chúng tôi gặp nhau). Câu kết của 10 bài này là Bích sơn như họa hựu phùng
quân (Non xanh như tạc, lại gặp ông). Năm 1874 khi vào kinh, qua huyện Minh
Linh (tỉnh Quảng Trị) lại nghe tin Song Linh Nguyễn Phát Khoa cũng vào kinh
nhận lệnh cải bổ, ông đã vui mừng nhắc lại câu hẹn ước năm xưa trong một bài
tứ tuyệt: Nhất cú tập Đường ưng thị sấm. Bích sơn như họa hựu phùng quân
(Một câu thơ Tập Đường đáng làm lời sấm, Non xanh như tạc, lại gặp ông)
<VHv.212, t158b363>. Như vậy, liên kết với ý của câu thơ cuối ở bài thứ 10,
dùng chữ “kết” mới đúng, có lẽ tự dạng chữ 结 khi viết đá thảo ở bản VHv.212
có tự dạng gần giống chữ 浩 nên bản này đã chép nhầm.
Sau khi so sánh sự tương đồng và dị biệt trong bảng II, kết quả 162 bài
giống với các bản khác, còn lại 69 bài dị biệt. Trong 162 bài giống với các bản
khác có 134 bài giống với bản VHv.212 ở trên. Tiêu đề của 134 bài giống nhau
giữa hai bản chỉ bị sửa đổi khoảng 20 tiêu đề, tức có 114 tiêu đề vẫn để nguyên
19



như VHv.212. Qua đây có thể nhận định rằng có những phần của của bản này
sao lại từ bản VHv.212, hoặc có thể hai bản cùng sao lại từ những phần nào đó
đã mất.
Trong bản này cũng có đến 69 bài dị biệt, vì vậy khi chứng minh ở chương
sau, nếu cần đến chúng tôi cũng phải lấy dẫn chứng trong bản này.
- Về bản A.517, sách mang kí hiệu A nên bản này cũng có nguồn gốc từ
Thư viện Trường Viễn đông bác cổ. Bản này chép cũng rất tùy tiện, cả bản chép
một mạch, không chia quyển, phần, khơng có tựa bạt gì, cước chú phụ chú rất ít.
Chỉ tính riêng 10 bài của chùm thơ “Thống trung thiềm phát thập thủ”, ở bản
VHv.212 có 38 chỗ cước chú mà bản này chỉ có 1 chỗ. Các cước chú cịn viết
tùy tiện, chỗ thì viết cỡ chữ nhỏ hơn chính văn, chỗ thì viết bằng chính văn. Có
những chỗ chép sai. Ví dụ bản này có tiêu đề “Nhâm Tuất xuân đán Quảng
Xương huyện đường thí bút” <t1b1>, nhưng các bản khác đều chép “Giáp Tuất
xuân đán Quảng Xương huyện đường thí bút” <VHv.212, t147b342>, đúng ra
phải là năm Giáp Tuất (1874), vì năm Nhâm Tuất (1862) ơng chưa ra làm quan.
Vậy bản này đã chép sai.
Về tiêu đề bài thơ, bản này soạn lại rất ngắn. Qua so sánh tương đồng và dị
biệt ở bảng II, có 96 bài giống với bản VHv.212, nhưng trong đó chỉ có 16 tiêu
đề giống với bản Vhv.212, cịn lại 80 tiêu đề đều viết gọn lại. Ngoài ra câu chữ
trong thơ ở bản này có nhiều chỗ thay đổi khác với các bản. Vì đây là cơng việc
so sánh tỉ mỉ mất nhiều thời gian nên chúng tôi không lập bảng so sánh hết
được, ở đây so sánh một bài vịnh về Nguyễn Đình Viện trong chùm thơ “Nhâm
Tuất niên kinh hành khán….” để chứng minh:
(Quy tắc trình bày: những từ ngữ được gạch chân thể hiện sự
thay đổi so với các bản khác.)
BảnVHV212
Nguyễn Đình Viện (Nc:


Bản A444
Nguyễn Đình Nghê

Bản A517
Nguyễn Đình Viện

Phần trong VGHTT
Nghệ An Nguyễn

Nghệ An nhân)

(Nc: Nghệ An)

(Nc: Nghệ An

Viện

Tự tu chiến cụ kết

Tự tu chiến cụ kết

nhân)

Tự tu chiến cụ kết

hương binh,

hương binh,

Tự tu chiến cụ kết


hương binh,

Mưu sự an tri sự bất

Mưu sự an tri sự bất

hương binh,

Mưu sự an tri sự

thành.

thành.

Mưu sự an tri sự

bất thành.

Tâm dị nan bằng ngụy

Tâm dị nan bằng

bất thành.

Tâm dị nan bằng

20



Tây tướng,

ngụy Tây tướng,

Tâm dị nan bằng

ngụy Tây tướng,

Thế cô phiên thất Nhật

Thế cô phiên tác

ngụy Tây tướng,

Thế cô phiên thất

Nam thành.

Nhật Nam thành.

Thế cô phiên thất

Nhật Nam thành.

Nhất môn ủy sự trung

Nhất môn ủy mệnh

Nhật Nam thành.


Nhất môn ủy mệnh

kiêm hiếu,

trung kiêm hiếu,

Mai tiên gia chỉ

trung kiêm hiếu,

Thiên cổ lưu phương tử Thiên cổ lưu phương

sinh đào mãng,

Thiên cổ lưu

diệc sinh.

tử diệc sinh.

Hải đảo nhân

phương tử diệc

Huống thị nghĩa cao

Huống thị nghĩa cao

chung tử bào


sinh.

năng đắc sĩ,

năng đắc sĩ,

hoành.

Huống thị nghĩa

(Nc: Xuất Hàn văn)

(Nc: Xuất Hàn văn)

Hảo thiếp hảo nhi

cao năng đắc sĩ.

Đảo trung nhân chỉ

Đảo trung nhân chỉ

hảo đồ bộc

thức Điền Hồnh.

thức Điền Hồnh.

Nhất mơn hiếu


Đảo trung nhân chỉ

nghĩa nhất phương

thức Điền Hồnh.

danh

Nhìn vào bảng trên cho thấy bản này thay đổi nhiều nhất, thay đổi nguyên cả
bốn câu cuối, rồi cước chú, phụ chú cũng bị cắt. Việc thay đổi tiêu đề, viết tiêu
đề cho gọn lại, rồi từ ngữ, thậm chí cả câu thơ trong bài được sửa đổi nhiều như
thế chứng tỏ bản này được soạn lại theo ý đồ của người soạn sách. Thậm chí tên
tác phẩm cũng khơng nhất qn, phần gáy sách viết “Nhuế Giang thi tập”,
nhưng trang đầu dòng đầu phần chính văn lại viết “Nhuế Xuyên bạch bút thi
tập”.
Bản này cịn có số lượng thơ khá nhiều, tổng cộng 306 bài. Có nguyên một
phần từ bài bài 131 đến bài 306 không tương đồng với bản hay phần khác. Các
bài thuộc phần này không thấy xuất hiện thời gian hay sự kiện như phần đầu.
Nội dung phần này chủ yếu vịnh về các nhân vật lịch sử, thần tiên, các điển tích,
điển cố trong sử sách, hoặc lấy các câu thành ngữ, cách ngơn, điển tích, điển cố
làm tiêu đề, chủ đề cho bài thơ. Bởi vậy, phần này cũng là tư liệu đáng quý để
nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật thơ của Nguyễn Khắc Trạch.
- Về bản Vhv.213, số lượng bài thơ ít hơn so với 3 bản trên (90 bài). Bản
này chép cũng rất tùy tiện, tên tác phẩm là “Nhuế Xuyên thi tập” nhưng nửa sau
sách lại có chép tập thơ khác “Duệ Khê thi tập”. Chưa biết Duệ Khê là ai nhưng
đây có lẽ không phải thơ của Nguyễn Khắc Trạch.

21



Trong bản này có nhiều bài thơ tiêu đề được đặt lại khác hẳn các bản khác.
Ví dụ: VHv.212 có tiêu đề “Đinh Sửu chí niên tịnh tự tính thể dương lịch nhị
thiên”, ở bản này chia ra hai tiêu đề cho hai bài, b1: “Chí niên quan mê”(Ghi lại
sự mê muội trong khi làm quan), b2:“Chí niên quan bình sinh” (Ghi lại đời làm
quan). Trong bản tổng cộng có 90 bài, có 57 bài giống với ba bản trên, cịn 33
bài dị biệt, như vậy bản này có số lượng thơ ít nhưng số lượng bài giống với bản
khác tương đối nhiều, chứng tỏ đây không phải là một phần riêng mà tổng hợp
từ nhiều nguồn, và có nguồn các bản trên khơng có.
Qua so sánh về sự tương đồng và dị biệt của bốn bản độc lập trong bảng
II dưới đây, luận văn tính ra được một số kết quả như sau:
11bài (cùng xuất hiện trong 4 bản), nên chỉ tính:

11 bài

95 bài (cùng xuất hiện trong 3 bản), nên chỉ tính: 95 bài
89 bài (cùng xuất hiện trong 2 bản), nên chỉ tính:

89 bài

229 bài (dị biệt, tức xuất hiện trong 1bản) nên tính: 229 bài
Vậy tổng cộng các bài thơ trong bốn tác phẩm khi đã trừ bài tương đồng là:
11 + 95 + 89 + 229 = 423 bài.
Cịn có phần ở bản A.517 (từ bài 131 đến bài 306 ) tức 176 bài không
tương đồng với bản nào, đã xin trừ ra ở trong phần nhận định về bản này, bây
giờ xin tổng hợp lại. Lại còn số bài dị biệt của các phần chép trong tác phẩm
người khác đã được so sánh nháp ngoài bây giờ xin cộng vào: Vi giang hiệu tần
tập có 10 bài dị biệt; Minh đơ thi tuyển có 4 bài dị biệt.
Vậy con số tổng hợp cuối cùng về thơ của tác giả trong tất cả các bản
và các phần khi đã trừ bài tương đồng là:
423 + 176 + 10 + 4 = 613 (bài)

1.2.1. Tình trạng văn bản văn, phú, trướng văn, và bản tổng hợp.
Về văn bản văn, phú, trướng văn và bản tổng hợp nhiều thể loại hiện còn 5
bản và một phần chép trong tác phẩm của nhiều người là VHv.214, Vhv.215,
A.2169, A.2538, VHv.608. Phú trong VHv.321. Sau đây là tình trạng các văn
bản:
1. Nhuế Xuyên thặng bút văn tập. Kí hiệu VHv.214.

22


Khổ 15,5 x 26,5 gồm 147 trang viết tay trên hai mặt, giấy dó mỏng. Bìa
bằng giấy các-tơng dày, mặt ngồi qt sơn đen. Sau tờ bìa chính, có một tờ bìa
phụ bằng giấy dó, trên đó viết tên tác phẩm “Nhuế Xuyên Thặng bút văn tập”, cỡ
chữ của dòng này lớn khoảng 1cm. Phần gáy hai đầu quét sơn đỏ, có để trống
một khoảng viết tên văn bản. Sau tờ bìa phụ, đến phần chính văn. Trang một,
dịng đầu tiên phần chính văn ghi lại tên tác phẩm “Nhuế Xuyên thặng bút văn
tập”, sau đó mới đến tiêu đề bài văn. Cả tác phẩm tổng cộng có 55 bài văn, mỗi
trang văn bản 8 dịng, mỗi dịng có khoảng 25.
Trong văn bản có hai loại chữ, từ đầu đến trang 138 chữ viết rõ ràng, nét bút
thẳng. Phần từ trang 139 đến hết (trang 149) chữ viết theo thể hành, có nhiều bộ
viết theo giản thể. Lấy chữ “hữu: có” ở trong hai phần làm ví dụ. Lối viết chữ
“hữu” phần trang 1 đến trang 138 viết rõ ràng, nét thứ hai của chữ này là nét
phẩy kéo dài ra như ở d2 t51, d5 t51, d3 t53, d3 t55, d1 t60, d1 t64, d1 t67, d1
t69,d2 t99,d1 t113…Còn chữ “hữu” ở trang 139 đến trang 149 có cách viết
ngốy, các nét liền nhau, vì khơng phải dân chun về văn bản nên khi mới gặp
chữ này chưa nhận ra chữ gì, qua mấy lần gặp lại, mới nhận ra. Như ở d8 t139,
d4 t140, d4 d5 t144, d4 t149.
Loại chữ ở phần sau (trang 139 đến trang 149) giống với loại chữ ở phần
“Nhuế Xuyên thi tập. Nc: Đinh Sửu đông dĩ hạ” <t171 đến trang cuối 189> của
bản VHv 212. Như chữ “hữu” ở VHv.212 trong các dòng và các trang: d6 t173,

d3 t176, d5 d6 t177, d8 t182, d5 t187…Qua đây cho thấy phần cuối của bản văn
này và phần cuối của VHv.212 và bản này do một người chép.
Dấu tích đọc duyệt văn bản thể hiện qua màu mực đỏ, dùng trong các trường
hợp như ngắt câu, sửa sai, xóa chữ viết sai, bổ sung chữ thiếu.
Về chữ húy, văn bản nhất quán viết kiêng húy “thời” dưới dạng chữ “thìn”.
Khi đi sâu vào nội dung các bài, có sự tương đồng và dị biệt với bản VHv.215
nên đã lập thư mục so sánh trong bảng III.
2. Nhuế Xuyên trướng tập. Kí hiệu VHv.215.
Khổ 18 x 25, viết tay trên cả hai mặt, tổng cộng 71 trang giấy dó dày. Bìa
bằng giấy xi-măng, phía ngồi quét sơn đen. Hai đầu mép sách viết tên văn bản
“Nhuế Xun trướng tập”. Sau tờ bìa chính có hai tờ bìa phụ bằng giấy dó, trên
mặt a tờ bìa phụ thứ nhất có dấu triện vng của Thư viện khoa học Trung
23


ương. Văn bản được kẻ khung và dòng bằng mực đỏ hồng. Mép ngoài cùng trên
tất cả các tờ của mặt a in chữ “ 祥 泰 造” , như vậy giấy viết của bản này có
nguồn gốc từ hiệu Tường Thái, điều này cũng giống với bản thơ VHv.213.
Mỗi trang viết 6 dịng, mỗi dịng có 16 chữ. Cả bản viết cùng một loại
chữ, nhưng nhiều trang, nhiều chữ viết thảo, rất khó đọc, như từ tờ 1 đến tờ 23
có nhiều chữ viết thảo, sau trang 23 có đỡ hơn. Cả bản có 29 bài văn, khi đi sâu
vào nội dung các bài này, có sự tương đồng dị biệt với bản VHv.214 nên được
lập thư mục so sánh trong bảng III.
Trong bản này, dưới tiêu đề của một số bài có cước chú như “Phạm Chi
Hương soạn” <d3 t47>, “Thượng Hiệp tú tài soạn” <d9 t49>, như vậy trong bản
này có chép cả văn của người khác.
Cả bản khơng có dấu tích duyệt văn bản hay sửa chữa gì, về chữ húy văn
bản nhất quán viết khiêng húy chữ “thời” dưới dạng chữ “thìn”.
3. Nhuế Xuyên văn tập. Kí hiệu A.2169.
Khổ 14 x 26, tổng cộng 74 trang, viết tay trên giấy dó dày. Bìa bằng giấy

xi-măng, mặt ngồi được qt sơn đen, sau tờ bìa chính có 1 tờ bìa phụ, tiếp đến
là tờ viết tên văn bản. Tên văn bản “Nhuế Xuyên văn tập”được viết bằng cỡ chữ
to. Các mép văn bản đều được quét sơn đỏ.
Dấu tích đọc duyệt văn bản thể hiện qua màu mực đỏ của bút lông, dùng
trong các trường hợp chủ yếu như ngắt câu, khun trịn, khơng thấy có dấu sữa
chữa hay gạch xóa. Về chữ húy văn bản nhất quán viết kiêng húy chữ “thời”
dưới dạng chữ “thìn”.
Cả bản có 30 bài văn, mỗi trang văn bản được viết 10
dòng, mỗi dòng 25 chữ, chữ viết hơi đá thảo. Các bài trong bản
này phần lớn là những bài làm thay người khác. Xét thấy khơng
có sự tương đồng với các bản khác nên đưa thư mục tiêu đề các
bài văn vào dưới đây. Sau đây là mục lục các bài văn được sắp
xếp theo A-B-C, cuối tiêu đề, ở trong dấu lớn bé là số trang và
trình tự bài ở trong văn bản:
1.Cố Bình Phú tổng đốc Bùi Công hành trạng. <t54b29>
2.Đông Ngạn tráng liệt phiên tu gia phả tự. <t49b26>
3.Hạ bản triều thỉnh Quảng phúc án sát Nguyễn thọ ông văn. <t36b20>

24


×