Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Bàn về đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.34 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN


ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH

ĐỀ TÀI:
BÀN VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TỐN TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
Sinh viên thực hiện : Trần Thị Minh Trang
MSV

: 11174973

GVHD

: PGS.TS Trần Mạnh Dũng

Hà Nội, năm 2020

i


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA ……………………………………………………………………… I
MỤC LỤC ……………………………………………………...……………………… II
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................................... IV
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, HÌNH.............................................................................V
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................VI
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO KIỂM TỐN TRONG KIỂM TỐN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH...................................................................................................1


1.1. Rủi ro kiểm toán........................................................................................................1
1.2. Đánh giá rủi ro kiểm toán........................................................................................9
1.2.1. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn.............................................................9
1.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng (IR)................................................................................11
1.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm soát (CR)..............................................................................14
1.2.4. Xác định rủi ro phát hiện........................................................................................16
1.2.5. Một số lưu ý khi sử dụng mơ hình đánh giá rủi ro kiểm toán.................................16
PHẦN 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TỐN TRONG KIỂM
TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM.......................................................18
2.1. Đánh giá rủi ro tại công ty TNHH Deloitte Việt Nam …………………….……18
2.1.1. Quy trình đánh giá rủi ro tại Cơng ty TNHH Deloitte Việt Nam............................18
2.1.2. Mơ tả quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán và mối quan hệ với các thủ tục khác
trong kiểm tốn Báo cáo tài chính....................................................................................19
a. Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán...........................................................19
b. Đánh giá rủi ro tiềm tàng.............................................................................................22
c. Đánh giá rủi ro kiểm soát.............................................................................................23
d. Đánh giá rủi ro phát hiện.............................................................................................29
PHẦN 3: NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN ĐÁNH GIÁ RỦI
RO TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM.....................35
3.1. Nhận xét về đánh giá rủi ro kiểm toán tại Việt Nam............................................35

ii


3.1.1. Những ưu điểm đã đạt được …………………………………………………...… 34
3.1.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân……………………………………… 34
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quy trình đánh giá rủi ro.................36
3.2.1. Tăng cường sử dụng phương pháp tiếp cận mơ hình đánh giá rủi ro kiểm tốn theo
rủi ro kinh doanh của khách hàng……………………………………………………..... 35
3.2.2. Xây dựng quy trình đánh giá rủi ro hồn chỉnh đối với tồn bộ các cơng ty kiểm

tốn độc lập………………………………………………………………………….….. 36
3.2.3. Thực hiện đầy đủ các thủ tục đánh giá rủi ro đối với các khách hàng có quy mơ
nhỏ……………………………………………………………………………….……… 36
KẾT LUẬN.....................................................................................................................38
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................39

iii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ST

Ký hiệu viết tắt

Viết đầy đủ tiếng Việt

1

BCTC

Báo cáo tài chính

2

KTV

Kiểm tốn viên

3


GTLV

Giấy tờ làm việc

4

HTKSNB

Hệ thống kiểm sốt nội bộ

5

MTKS

Mơi trường kiểm sốt

6

CSDL

Cơ sở dẫn liệu

7

KSNB

Kiểm soát nội bộ

8


RRKT

Rủi ro kiểm toán

9

RRKS

Rủi ro kiểm soát

ĐGRR

Đánh giá rủi ro

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

AR

Rủi ro kiểm toán

CR

Rủi ro kiểm soát

IR

Rủi ro tiềm tang


DR

Rủi ro phát hiện

ROMM

Rủi ro có sai sót trọng yếu

T

10
11
12
13
14
15
16
17
18

VSA
ISA

Viết đầy đủ tiếng Anh

Audit risk
Control risk
Inherent risk
Detective risk
Risk of Material

Misstatements

Chuẩn mực kiểm toán Việt

Vietnamese Standards on

Nam

Auditing

Chuẩn mực kiểm toán quốc

International Standards on

tế

Auditing

iv


19

Hội kiểm toán viên hành

VACPA

nghề Việt Nam

Vietnamese Association

of Certified Public
Accountants Portal

DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, HÌNH
Danh mục bảng
Bảng số

Tên bảng

Trang

1.1

Đánh giá rủi ro kiểm sốt theo quy mơ và các bước

9

công việc
1.2

Đánh giá rủi ro phát hiện theo quy mơ và các bước cơng

10

việc
1.3

Đánh giá mức rủi ro có sai phạm trọng yếu

12


1.4

Đánh giá mức rủi ro phát hiện

12

Danh mục sơ đồ
Sơ đồ số

Tên sơ đồ

Trang

1.1

Mối quan hệ giữa các thành phần của rủi ro kiểm tốn

9

2.1

Quy trình đánh giá rủi ro tại công ty TNHH Deloitte

24

Việt Nam

Danh mục hình
Hình số


Tên hình

Trang

2.2

GTLV ĐGRR tiềm tàng – Tổng quan về ĐGRR tiềm

28

v


tàng
2.3

GTLV ĐGRR Kiểm soát – Đánh giá MTKS

34

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thơng tin chính xác kịp thời và tin
cậy. Để đáp ứng yêu cầu này phải có bên thứ ba độc lập khách quan có trình độ chun
mơn cao, được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy cho các bên quan tâm, đó là
Kiểm tốn độc lập.
Ở Việt Nam sự phát triển của kinh tế thị trường đã và đang tạo tiền đề phát triển
cho ngành Kiểm tốn độc lập. Nhiều cơng ty Kiểm toán đã được thành lập trong những
năm gần đây, vừa tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong ngành, nhưng cũng làm cho môi

trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các
công ty ngày phải càng nâng cao chất lượng Kiểm toán, mặt khác, phải đảm bảo giới hạn
về thời gian và chi phí. Để có một cuộc kiểm tốn hữu hiệu và hiệu quả thì cần thiết phải
tiếp cận Kiểm toán trên phương thức rủi ro. Phương pháp kiểm toán dựa trên rủi ro là là
phương pháp mà theo đó việc xác định, đánh giá và thiết kế các thủ tục kiểm toán đều
dựa trên đánh giá rủi ro trong suốt q trình kiểm tốn. Theo phương pháp tiếp cận này
việc tìm hiểu khách hàng, đánh giá rủi ro của hợp đồng, lập kế hoạch kiểm toán là cơ sở
của việc thiết kế các thử nghiệm kiểm toán thực hiện trong q trình kiểm tốn báo cáo
tài chính.
Từ những lý do trên, em đã mạnh dạn chọn đề tài “ Bàn về đánh giá rủi ro kiểm
toán trong kiểm tốn báo cáo tài chính “. Nội dung của đề án gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính

vi


Phần 2: Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm tốn báo cáo tài chính tại
Việt Nam
Phần 3: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện đánh giá rủi ro kiểm tốn trong
kiểm tốn báo cáo tài chính
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo – PGS.TS.Trần Mạnh Dũng đã nhiệt tình
hướng dẫn giúp em hồn thiện đề án này.
Sinh viên: Trần Thị Minh Trang

vii


PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO KIỂM TỐN TRONG KIỂM TỐN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Rủi ro kiểm toán

1.1.1. Khái niệm
Rủi ro kiểm toán là khái niệm cơ bản, quan trọng trong kiểm tốn nói chung, kiểm
tốn tài chính nói riêng. Theo chuẩn mực kiểm tốn Việt Nam (VSA) số 315 về Đánh giá
rủi ro và kiểm soát nội bộ: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro kiểm tốn viên và cơng ty kiểm
tốn đưa ra ý kiến nhận xét khơng thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm tốn cịn
có những sai phạm trọng yếu” và “Kiểm tốn viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để có thể lập kế hoạch kiểm tốn tổng
thể và chương trình kiểm tốn thích hợp, có hiệu quả. Kiểm toán viên phải sử dụng khả
năng xét đốn chun mơn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục
kiểm toán nhằm giảm rủi ro kiểm tốn thấp xuống tới mức có thể chấp nhận được”. Như
vậy, công việc đánh giá rủi ro kiểm tốn khơng chỉ là việc cần thiết trong kiểm tốn tài
chính nói riêng và kiểm tốn nói chung mà đây cịn là quy định, cơng việc bắt buộc phải
thực hiện trong khi lập kế hoạch kiểm toán.
Việc đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ giúp cho kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến một
cách xác đáng về các thơng tin trên các báo cáo tài chính. Sở dĩ rủi ro kiểm toán là vấn đề
mà kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn đều phải đối mặt là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do phạm vi của đối tượng kiểm tốn tài chính rất rộng. Đó là tồn bộ các
yếu tố liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách thể kiểm tốn.Chính vì
thế, phương pháp mà kiểm tốn viên sử dụng chủ yếu để thu thập bằng chứng trong kiểm
toán tài chính là phương pháp chọn mẫu. Q trình này thơng qua việc lựa chọn một số
mẫu và dựa trên kết quả đánh giá những mẫu được chọn đó để đưa ra kết luận cho toàn
bộ tổng thể. Do vậy mà ln có khả năng đưa ra kết luận sai do mẫu được chọn không
phải là mẫu đại diện.
Thứ hai, bất kỳ cuộc kiểm tốn tài chính nào cũng bị giới hạn bởi các yếu tố như
thời gian, chi phí, giới hạn về nguồn lực, quản lý hay giới hạn từ phía khách thể kiểm
tốn. Kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn khơng thể kiểm tra tồn diện trên tất cả các
khoản mục, nghiệp vụ và chu trình liên quan đến đối tượng kiểm toán.

1



Thứ ba, rủi ro kiểm toán liên quan đến rủi ro kinh doanh. Các doanh nghiệp đều
phải đối mặt với rủi ro kinh doanh. Rủi ro kiểm toán là một rủi ro kinh doanh mà các
cơng ty kiểm tốn phải xem xét đến trong khi thực hiện cung cấp dịch vụkiểm toán.
Như vậy, xuất phát từ những nguyên nhân trên, chúng ta có thể thấy được tầm
quan trọng của cơng tác đánh giá rủi ro kiểm tốn trong q trình kiểm toán. Đánhgiá rủi
ro kiểm toán tốt sẽ giúp cho kiểm toán viên xây dựng được các thủ tục kiểm toán và lập
kế hoạch kiểm toán phù hợp, đảm bảo thu thập được đầy đủ các bằng chứng đáng tin cậy
để đưa ra ý kiến về các bảng khai tài chính.
1.1.2. Các loại rủi ro
Rủi ro kiểm tốn (Audit Risk – AR) có giá trị từ 0 đến 1. Rủi ro kiểm tốn bằng 0
nếu các báo cáo tài chính không tồn tại bất kỳ một sai phạm trọng yếu nào. Ngược lại,
nếu các sai phạm trên các báo cáo tài chính đều là sai phạm trọng yếu, rủi ro kiểm toán sẽ
bằng 1.
Nhưng trên thực tế, rủi ro kiểm toán thường lớn hơn 0 và nhỏ hơn 1. Điều này có
nghĩa là: rủi ro kiểm tốn xuất phát từ cả giới hạn về phía kế tốn và kiểm tốn. Hay nói
một cách khác, ta có thể chia rủi ro kiểm toán thành hai phần: Rủi ro kiểm toán do tồn tại
các sai phạm trọng yếu trên các báo cáo tài chính chưa được kiểm tốn, và rủi ro phát
hiện.
Rủi ro kiểm toán liên quan tới các sai phạm trọng yếu trên các báo cáo tài chính
chưa được kiểm tốn lại được phân chia thành: rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Rủi ro
kiểm toán được cấu thành từ ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát
hiện. Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát tồn tại độc lập với kiểm tốn viên, nó phụ thuộc
vào mơi trường kinh doanh, điều kiện của đơn vị, kiểm tốn viên chỉ có thể đánh giá để
đưa ra kế hoạch kiểm toán hợp lý. Rủi ro phát hiện là rủi ro liên quan tới năng lực, cơng
việc của kiểm tốn viên. Kiểm tốn viên có thể kiểm sốt, thực hiện các thủ tục phù hợp
để giảm rủi ro phát hiện.
Ta có thể hình dung mối quan hệ của rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát
hiện và rủi ro kiểm toán theo sơ đồ như sau:


2


Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các thành phần của rủi ro kiểm toán

Rủi ro tiềm tàng (IR)
Hệ thống Kiểm soát nội
bộ
Rủi ro kiểm soát (CR)

Khả năng phát hiện của KTV
Rủi ro phát hiện (DR)

1.1.2.1. Rủi ro tiềm tàng (IR)
Rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong bản thân đối
tượng kiểm toán khi chưa tính đến tác động của bất kỳ hoạt động kiểm toán nào, kể cả
kiểm soát nội bộ. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA) số 315, rủi ro tiềm tàng là
“Rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài
chính chứa đựng những sai phạm trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mặc dù có
hay khơng hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Rủi ro tiềm tàng được ước lượng cho tồn bộ báo cáo tài chính khi lập kế hoạch kiểm
toán, đồng thời được xác định cho từng khoản mục, nghiệp vụ quan trọng khi lập chương
trình kiểm toán.
1.1.2.2. Rủi ro kiểm soát
Rủi ro kiểm soát là khả năng mà hệ thống kiểm sốt nội bộ khơng phát hiện, ngăn
ngừa và sửa chữa các sai phạm trọng yếu.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA) số 315: “rủi ro kiểm soát là rủi ro do
phát hiện sai, có thể xảy ra với một số dư tài khoản hoặc một loại nghiệp vụ và có thể có
sai phạm nghiêm trọng. Những sai phạm này xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp sai phạm


3


của các số dư, các nghiệp vụ khác mà Hệ thống Kiểm sốt nội bộ khơng ngăn ngừa hết
hoặc khơng phát hiện kịp thời”.
Rủi ro kiểm soát cũng được đánh giá tại các quy mô khác nhau, các bước công
việc khác nhau như sau:
Bảng 1.1: Đánh giá rủi ro kiểm sốt theo quy mơ và các bước cơng việc
Bước cơng việc
Quy mô

Chấp nhận

Lập kế hoạch

Thử nghiệm

Thử nghiệm

Đưa ra ý

khách hàng

kiểm tốn

kiểm sốt

cơ bản

kiến


CR1

Khơng áp dụng

Khơng áp

Khơng áp

dụng

dụng

Khơng áp dụng

CR2

CR3

CR4

Báo cáo tài
chính
Số dư khoản
mục

CR5
Khơng áp
dụng


Bản chất rủi ro kiểm sốt liên quan tới sự yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Để đánh giá rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên căn cứ vào sự hiểu biết, đánh giá hệ thống
kiểm soát nội bộ theo các bước:
Bước 1: Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết trên các
giấy tờ làm việc.
Bước 2: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch cho từng khoản
mục.
Bước 3: Thực hiện thử nghiệm kiểm soát.
Bước 4: Lập bảng đánh giá kiểm soát nội bộ và đánh giá lại rủi ro kiểm soát
1.1.2.3. Rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện là khả năng các thủ tục kiểm tốn khơng phát hiện được các sai
phạm trọng yếu. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA) số 315:“rủi ro phát hiện là
rủi ro xảy ra sai phạm, trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong Báo cáo
tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong q trình kiểm tốn, Kiểm tốn viên và
Cơng ty kiểm tốn khơng phát hiện được”. Rủi ro phát hiện có liên quan trực tiếp tới các

4


thủ tục mà kiểm tốn viên tiến hành, ví dụ sử dụng mơ hình phân tích khơng phù hợp,
phân tích sai…
Rủi ro phát hiện được chia thành rủi ro lấy mẫu và rủi ro không do lấy mẫu.
- Rủi ro lấy mẫu: xuất phát từ hạn chế về thời gian và chi phí, kiểm tốn viên
khơng thể thực hiện kiểm tra 100% tất cả các chứng từ, sổ sách liên quan tới mỗi khoản
mục, nghiệp vụ. Kiểm toán viên tiến hành chọn mẫu để kiểm tra, xác minh.Nếu mẫu chọn
không đại diện cho tổng thể, kết luận của kiểm toán viên về mẫu chọn áp dụng cho tổng
thể sẽ bị sai lệch.
- Rủi ro không do lấy mẫu: là rủi ro khi kiểm tốn viên khơng phát hiện được các
sai phạm trọng yếu do áp dụng các thủ tục không phù hợp hoặc phân tích, đánh giá sai.
Rủi ro này vẫn có thể xuất hiện khi kiểm tốn viên kiểm tra tồn bộ tổng thể. Rủi ro

khơng do lấy mẫu có thể giảm bớt thơng qua đào tạo chun mơn, nghiệp vụ cho kiểm
toán viên; lập kế hoạch phù hợp; giám sát chặt chẽ…
Rủi ro phát hiện được đánh giá trong các bước công việc khác nhau, ở quy mô
khác nhau:
Bảng 1.2: Đánh giá rủi ro phát hiện theo quy mô và các bước công việc
Bước công việc
Quy mô

Chấp nhận
khách
hàng

Báo cáo tài
chính
Số dư khoản mục

DR1
Khơng áp
dụng

Lập kế hoạch

Thử nghiệm

Thử nghiệm

Đưa ra ý

kiểm tốn


kiểm sốt

cơ bản

kiến

Khơng áp

Khơng áp

Khơng áp

dụng

dụng

dụng

DR2

DR3

DR4

DR5
Khơng áp
dụng

Rủi ro phát hiện được xác định dựa trên ba yếu tố: rủi ro kiểm toán, rủi ro phát hiện và rủi
ro kiểm sốt theo cơng thức:

DR=AR/(CR*IR)

5


Coi (CR*IR) là rủi ro của sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính, khi đánh giá
rủi ro kiểm soát, rủi ro tiềm tàng theo các mức: thấp, trung bình, cao thì rủi ro của sai
phạm trọng yếu được xác định theo bảng sau đây:

Bảng 1.3: Đánh giá mức rủi ro có sai phạm trọng yếu

Rủi ro kiểm sốt (CR)

Rủi ro tiềm tàng
(IR)

Thấp

Trung bình

cao

Thấp

Thấp

Thấp trung bình

Cao trung bình


Trung bình

Thấp trung bình

Trung bình

Khá cao

cao

Trung bình

Cao trung bình

Cao

Cùng với mức rủi ro kiểm tốn rất thấp, thấp, trung bình, ta xác định mức rủi ro
phát hiện theo bảng sau:
Bảng 1.4: Đánh giá mức rủi ro phát hiện
Rủi ro của sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính
Rủi ro kiểm
tốn

Cao

Trung bình
cao

Trung bình


Thấp trung
bình

Thấp

Rất thấp

Rất thấp

Rất thấp

Thấp

Trung bình

Cao

Thấp

Rất thấp

Thấp

Trung bình

Cao

Rất cao

Trung bình


Thấp

Trung bình

Cao

Rất cao

Rất cao

1.1.3. Mơ hình rủi ro kiểm tốn
Chuẩn mực kiểm toán quy định kiểm toán viên phải xác định mức rủi ro kiểm toán
ở mức hợp lý trước khi đưa ra ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính, tuy nhiên lại khơng

6


đưa ra hướng dẫn cụ thể đâu là mức rủi ro chấp nhận được.Việc quyết định mức rủi ro
kiểm toán hồn tồn phụ thuộc vào đánh giá của kiểm tốn viên. Để xác định rủi ro kiểm
toán, kiểm toán viên sử dụng mơ hình rủi ro kiểm tốn: rủi ro kiểm toán được cấu thành
từ ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Mơ hình rủi ro kiểm tốn có thể được áp dụng trong tồn bộ báo cáo tài chính hoặc
cho từng số dư khoản mục, nghiệp vụ.
Mơ hình rủi ro kiểm tốn: AR=IR * CR * DR
Trong đó:

AR: Rủi ro kiểm toán
IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát

DR: Rủi ro phát hiện

Kiểm tốn viên có thể sử dụng mơ hình kiểm tốn theo hai cách như sau:
- Cách thứ nhất, dùng để đánh giá tính hợp lý của kế hoạch kiểm toán: Kiểm toán
viên xác định mức rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện thì sẽ tính ra được
mức rủi ro cho tồn cuộc kiểm tốn. Ví dụ khi bắt đầu cuộc kiểm tốn, kiểm tốn viên
ước tính mức rủi ro tiềm tàng 30%; rủi ro kiểm soát 20%; rủi ro phát hiện 25% thì rủi ro
kiểm tốn AR=0,3*0,2*0,25=0,015. Kế hoạch là hợp lý nếu mức rủi ro thích hợp với hợp
đồng kiểm tốn khơng thấp hơn 1,5%.
- Cách thứ hai, dùng để xác định mức rủi ro phát hiện (như đã nói ở trên)
DR = AR/(IR*CR)
Khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên xác định mức rủi ro mong muốn
cho cuộc kiểm toán (VD 1,5%). Qua lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên xác định
mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát (VD 30% và 20%). Để đảm bảo mức rủi ro kiểm
toán ở mức ban đầu, theo cơng thức trên, kiểm tốn viên tính ra mức rủi ro phát hiện
tương ứng 25%. Theo đó, kiểm tốn viên xác định số lượng bằng chứng cần thu thập để
đảm bảo mức rủi ro phát hiện là 25%.
Hạn chế của việc sử dụng mơ hình rủi ro kiểm tốn

7


Có hai hạn chế trong việc sử dụng mơ hình đánh giá rủi ro kiểm toán:
- Một là, dù kiểm tốn viên có nỗ lực cao nhất trong việc lập kế hoạch, những
đánh giá về rủi ro kiểm toán mong muốn và rủi ro kiểm sốt vẫn có tính chủ quan cao và
chỉ xấp xỉ bằng thực tế nhất. Ví dụ, giả sử kiểm tốn viên đánh giá q trình kiểm soát
nội bộ và các rủi ro cố hữu thấp hơn mức đáng lẽ phải có nếu tất cả các sai phạm đều
được biết, rủi ro phát hiện do đó sẽ phải cao mức có thể chấp nhận được và số bằng
chứng dự kiến sẽ thấp hơn. Để giải quyết vấn đề này, hầu hết kiểm toán viên đều bảo thủ
trong cách đánh giá của họ hoặc sử dụng mức đánh giá khái quát và chủ quan như mức

rủi ro “thấp”, “trung bình” hoặc “cao”.
- Hai là, mơ hình rủi ro kiểm tốn là mơ hình rủi ro kế hoạch, do đó nó bị hạn chế
trong việc sử dụng để đánh giá các kết quả kiểm toán. Một khi các mức rủi ro đã được
đánh giá và theo đó kế hoạch kiểm toán được xây dựng, các thành phần của kế hoạch đối
với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt sẽ khơng được thay thế dựa trên các bằng chứng
kiểm toán đã thu thập. Nếu các bằng chứng kiểm toán chỉ rõ các sai phạm mà cao hơn
mức có thể chấp nhận được khơng tồn tại, thì số lượng sai phạm vượt quá đó được chấp
nhận. Tuy vậy, nếu bằng chứng kiểm tốn chỉ rõ có sự hiện diện của các sai phạm cao
hơn mức có thể chấp nhận được, mơ hình rủi ro kiểm tốn có thể bị phá vỡ và các thủ tục
khác sẽ cần thực hiện để có thể phát hiện và nhận diện các sai phạm đó, để đảm bảo có ý
kiến chắc chắn hơn.
Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và trọng yếu
Trọng yếu là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ
bản có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm tốn
trong việc sử dụng thơng tin đã đánh giá để đưa ra kết luận. Theo Chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam (VSA) số 320: “Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của
thơng tin (một số liệu kế tốn) trong báo cáo tài chính. Thơng tin được coi là trọng yếu
có nghĩa là nếu thiếu thơng tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thơng tin đó sẽ ảnh
hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ thuộc
vào tầm quan trọng và tính chất của thơng tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn
cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung
của thơng tin cần phải có. Tính trọng yếu của thơng tin phải xem xét cả trên phương diện

8


định lượng và định tính.”. Như vậy, muốn xác định được khả năng xảy ra những sai
phạm mang tính chất trọng yếu, kiểm toán viên phải đánh giá được mức trọng yếu. Mối
quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro được thể hiện rất rõ trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán nhằm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và xác định những vùng kiểm toán

trọng yếu, xác định mức trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm tốn, khả năng có những sai
phạm cho từng khoản mục.
Trong một cuộc kiểm tốn tài chính, mức trọng yếu và rủi ro kiểm tốn có quan hệ
tỷ lệ nghịch. Việc đánh giá rủi ro kiểm tốn vì thế có quan hệ chặt chẽ trong việc xác
định mức trọng yếu. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm tốn càng thấp và ngược lại,
mức trọng yếu càng thấp thì rủi ro kiểm tốn càng cao. Trên cơ sở đó, kiểm tốn viên sẽ
xác định được nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm tốn thích hợp nhằm
đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn.
1.2. Đánh giá rủi ro kiểm toán
Khi xác định phương pháp tiếp cận kiểm toán, KTV phải quan tâm đến những
đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát để xác định mức độ rủi ro phát hiện
có thể chấp nhận được cho cơ sở dẫn liệu của Báo cáo tài chính và xác định nội dung,
lịch trình, phạm vi của các thủ tục cơ bản cho cơ sở dẫn liệu đó”. Như vậy, mục đích của
việc đánh giá rủi ro kiểm toán là để xác định mức rủi ro phát hiện làm cơ sở cho lập kế
hoạch các thử nghiệm kiểm toán sẽ áp dụng.
1.2.1. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định ngay trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm tốn, nó được xác định một cách chủ quan và phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản:
 Một là, mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngồi tin vào Báo cáo tài chính.
Trong cơ chế thị trường, có rất nhiều người quan tâm đến tình hình tài chính và sự phản
ánh của nó trong tài liệu kế toán mà trực tiếp là Báo cáo tài chính. Những người quan tâm
này có thể là: các cơ quan Nhà nước (cần có thơng tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền
kinh tế); các nhà đầu tư (cần có thơng tin trung thực để có hướng đầu tư đúng đắn, điều
hành sử dụng vốn đầu tư và ăn chia phân phối kết quả đầu tư); các nhà quản trị doanh
nghiệp và các nhà quản lý khác (cần thơng tin trung thực để có quyết định kinh doanh
đúng đắn); người lao động, khách hàng, nhà cung cấp... Khi nhiều người sử dụng bên

9



ngồi đặt niềm tin vào các Báo cáo tài chính thì những sai lệch trọng yếu trên Báo cáo tài
chính dễ gây tác hại trên phạm vi rộng. Do vậy, trong trường hợp này KTV cần xác định
một mức rủi ro kiểm tốn thấp, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm tốn cần thu thập và
tăng độ chính xác trong các kết luận đưa ra của mình.
Một số yếu tố chỉ ra mức độ mà theo đó các Báo cáo tài chính được người sử dụng
bên ngồi tin tưởng là:
 Thứ nhất, quy mô của đơn vị được kiểm tốn: quy mơ của đơn vị có thể được
đo bằng tổng tài sản, tổng doanh thu, hoặc tổng thu nhập. Quy mơ càng lớn thì BCTC
càng được sử dụng rộng rãi và rủi ro kiểm toán mong muốn cần đánh giá ở mức thấp hơn
 Thứ hai, quyền sở hữu: Nếu quyền sở hữu doanh nghiệp thuộc về nhiều bên
tham gia hơn thì sẽ có nhiều người quan tâm đến Báo cáo tài chính hơn và rủi ro kiểm
tốn mong muốn cũng cần được đánh giá ở mức thấp hơn và ngược lại
 Thứ ba, bản chất và quy mô của công nợ. Các khoản công nợ là những khoản
chắc chắn có liên quan tới một bên thứ ba cho vay, cho nợ. Các chủ nợ hiện tại và tiềm
năng thường quan tâm đến tình hình tài chính của cơng ty đặc biệt là khả năng thanh toán
để xem xét có tiếp tục duy trì và cho doanh nghiệp vay tiếp hay khơng. Vì thế, khi Báo
cáo tài chính bao gồm một số lượng lớn các khoản công nợ hoặc các khoản cơng nợ có
quy mơ lớn thì chúng có khả năng được sử dụng rộng rãi hơn.
 Hai là, khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm
tốn cơng bố. Nếu khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm tốn được
cơng bố thì khả năng KTV sẽ liên quan tới các vụ kiện của các bên do sử dụng Báo cáo
tài chính được kiểm tốn là rất lớn.Chính vì thế, trong trường hợp này, KTV phải thiết
lập ngay từ đầu một mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn để đề phòng các trường
hợp bị các bên có liên quan kiện. Trường hợp này sẽ dẫn đến chi phí kiểm tốn cao hơn
nhưng KTV vẫn phải xác định rủi ro kiểm toán ở mức thấp hợp lý. Việc dự đốn khả
năng thất bại khó khăn của đơn vị được kiểm toán trong tương lai là một vấn đề rất phức
tạp.
Tuy nhiên, KTV có thể dựa vào một số yếu tố sau để dự đoán sự kiện này:
 Thứ nhất, khả năng chuyển đổi thành tiền mặt. Nếu một doanh nghiệp thường
xuyên thiếu tiền và vốn lưu động thi có thể doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh

toán. KTV cần phải đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng để dự đoán khả năng

10


khách hàng sẽ gặp khó khăn trong tương lai và nếu trầm trọng hơn, doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn thì dễ dẫn đến nguy cơ phá sản.
 Thứ hai, các khoản lãi (lỗ) trong các năm trước. Khi một doanh nghiệp giảm
nhanh các khoản lãi hoặc tăng nhanh các khoản lỗ trong một số năm liên tục thì đây là dấu
hiệu về việc kinh doanh đang có chiều hướng xấu. KTV cần đánh giá khả năng khách hàng
sẽ gặp khó khăn về tài chính khi thấy có các dấu hiệu này xuất hiện.
 Thứ ba, các biện pháp nhằm gia tăng quá trình tài trợ. Nếu doanh nghiệp càng
phụ thuộc vào các khoản tài trợ, đặc biệt đang tìm mọi biện pháp để gia tăng khoản tài trợ
này thì chứng tỏ doanh nghiệp khơng tự chủ được về mặt tài chính, do đó khả năng gặp
khó khăn về mặt tài chính sẽ cao.
 Thứ tư, bản chất hoạt động của công ty khách hàng. Trong một số lĩnh vực
hoạt động kinh doanh, khả năng gặp rủi ro dẫn đến phá sản rất cao, chẳng hạn ngành kinh
doanh mơi giới chứng khốn...Khi kiểm tốn những ngành kinh doanh như vậy, KTV nên
đề phòng khả năng khách hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn, rủi ro trong kinh doanh để
xác định mức rủi ro kiểm tốn cho hợp lý.
Việc thu thập thơng tin và tìm hiểu về khách hàng, đặc biệt là hai yếu tố nêu trên
sẽ giúp KTV xác định được mức rủi ro kiểm tốn mong muốn cho tồn bộ BCTC được
kiểm tốn.
Tuy nhiên ,các thủ tục kiểm toán lại được thiết kế riêng cho từng khoản mục, việc
thiết kế các thủ tục này như thế nào lại phụ thuộc một phần rất lớn vào rủi ro kiểm toán
được xác định cho từng khoản mục đó. Chính vì thế, sau khi thiết lập mức rủi ro kiểm
tốn chung cho tồn bộ Báo cáo tài chính, KTV cần dựa vào đó để phân bổ mức rủi ro
kiểm toán cho từng khoản mục. Chẳng hạn, KTV đánh giá mức rủi ro kiểm toán mong
muốn cho tồn bộ Báo cáo tài chính ở mức trung bình thì KTV có thể xác định mức rủi ro
kiểm tốn của từng khoản mục cũng ở mức trung bình. Tuy nhiên, với một số khoản mục

đặc biệt, KTV có thể điều chỉnh mức rủi ro này cho phù hợp hơn. Ngồi ra, khi tồn tại
những khoản mục mà nó có tầm quan trọng đối với người sử dụng kết quả kiểm tốn hơn
thì mức rủi ro cũng cần được xác định thấp hơn.
Sau khi thiết lập được mức rủi ro kiểm toán mong muốn, KTV sẽ đánh giá rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
1.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng (IR)

11


Việc phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa rất quan trọng khi lập kế hoạch
kiểm toán. Mức độ rủi ro tiềm tàng là cơ sở để lựa chọn các thủ pháp kiểm toán, xác định
khối lượng cơng việc, thời gian, nhân sự và chi phí cần thiết cho một cuộc kiểm tốn.
Q trình đánh giá rủi ro tiềm tàng được thực hiện trên cả hai phương diện:
 Một là, đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện Báo cáo tài chính, KTV
thường dựa vào một số yếu tố ảnh hưởng sau:
 Thứ nhất, đặc điểm của Ban Giám đốc:Nếu các quyết định về kinh tế, tài chính
trong đơn vị bị độc quyền bởi một cá nhân trong Ban Giám đốc thì sẽ dễ xảy ra các sai
phạm trọng yếu hơn trường hợp các quyết định này được soát xét và phê duyệt bởi một
hội đồng thành viên Ban Giám đốc.Ngoài ra, sự thiếu liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu
biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ
kế toán dễ dẫn đến việc chỉ đạo, điều hành các hoạt động sai chế độ, quy định pháp
luật...Vì thế dễ có khả năng tồn tại sai phạm đối với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Hơn
nữa khi có nhiều sự thay đổi nhân sự trong Ban Giám đốc, KTV cũng cần xem xét đến
trường hợp có nhiều người trung thực, không chấp nhận những gian lận xảy ra trong
doanh nghiệp nên tự nguyện xin từ chức và khi đó, rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá cao
hơn.
 Thứ hai, trình độ và kinh nghiệm chuyên mơn của kế tốn trưởng, của các nhân
viên kế tốn chủ yếu, của KTV nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ. Trình độ của họ sẽ
có ảnh hưởng tới cơng tác kế tốn của đơn vị, sự ghi chép và kiểm tra kế tốn và tính

chính xác của thơng tin tài chính được ghi chép và trình bày trên Báo cáo tài chính. Nếu
có sự thay đổi nhân sự của các vị trí này thì những người mới có thể chưa có kinh nghiệm
nên dễ dẫn tới sai sót. Trong trường hợp này, KTV nên đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức
cao hơn.
 Thứ ba, những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế tốn
trưởng, nhất là những hồn cảnh thúc đẩy họ phải trình bày Báo cáo tài chính khơng
trung thực. Chằng hạn, doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính
và cần kêu gọi thêm vốn góp của các cổ đơng để bổ sung vốn thì doanh nghiệp rất dễ gian
lận trong việc khai các chỉ tiêu tài chính để làm bức tranh tài chính của doanh nghiệp
sáng sủa hơn như ghi nhận những khoản doanh thu, thu nhập khi thực tế chưa xảy ra,
hoặc không ghi nhận những khoản chi phí...

12


 Thứ tư, đặc điểm hoạt động của đơn vị như: Quy trình cơng nghệ, cơ cấu vốn,
các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ. Chẳng hạn, một doanh
nghiệp nếu có quy trình cơng nghệ lạc hậu thì hàng hóa sản xuất ra rất có khả năng bị lỗi
thời và khó tiêu thụ trên thị trường, có thể ảnh hưởng tới giá trị thuần của hàng tồn kho
được trình bày trên Báo cáo tài chính, một doanh nghiệp có cơ cấu phụ thuộc q nhiều
vào nguồn vốn vay cũng có khả năng có rủi ro tiềm tàng trong việc trình bày các chỉ tiêu
liên quan tới khả năng thanh tốn. Một doanh nghiệp có nhiều đơn vị phụ thuộc sẽ làm
tăng khả năng sai sót ở khâu tổng hợp; Một đơn vị có quy mơ lớn có khả năng sai sót
nhiều hơn một đơn vị có quy mơ nhỏ hơn...
 Thứ năm, các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị như: các
biến động về kinh tế, cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay
đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
 Thứ sáu, hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn. Trong
các hợp đồng kiểm toán lần đầu, KTV thường thiếu hiểu biết và kinh nghiệm về các sai
sót của đơn vị khách hàng nên họ thường đánh giá rủi ro tiềm tàng cao hơn so với hợp

đồng kiểm toán những lần sau.
 Hai là, đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại
nghiệp vụ. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ
phụ thuộc vào các yếu tố: Mức rủi ro tiềm tàng đã đánh giá đối với tồn bộ BCTC, tính
chất của khoản mục, các nhân tố tác động tới rủi ro tiềm tàng trên số dư tài khoản và loại
nghiệp vụ trên cơ sở hiểu biết của KTV, bao gồm các nhân tố sau:
 Thứ nhất, bản chất kinh doanh của khách hàng. Rủi ro tiềm tàng bị tăng lên bởi
những đặc thù của ngành nghề kinh doanh mà nó có thể tạo nên những khó khăn cho
kiểm tốn do tồn tại những khoản không chắc chắn hoặc khả năng tồn tại một cách tiềm
tàng những gian lận hoặc sai sót trên Báo cáo tài chính. Chẳng hạn, khách hàng kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng thường có nhiều rủi ro trong việc quản lý tiền mặt
và các phương tiện thanh tốn, do đó việc kiểm tốn vốn bằng tiền sẽ khó khăn hơn các
doanh nghiệp sản xuất thơng thường; Hoặc đối với các đơn vị kinh doanh thương mại thì
việc kiểm tốn doanh thu sẽ gặp nhiều khó khăn hơn....
 Thứ hai, kết quả các lần kiểm toán trước. Đối với tài khoản được phát hiện có
sai phạm trong các lần kiểm toán của năm trước, rủi ro tiềm tàng được xác định ở mức

13



×