Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Phân tích tác phẩm nhìn về vốn văn hóa dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.11 KB, 12 trang )

Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân
tộc
Tuyển tập 900 bài văn mẫu 12 hay nhất với các chủ đề đa dạng như phân tích, cảm nhận,
nghị luận. Cùng tham khảo bài Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc để hiểu
hơn về nội dung tác phẩm.

Mục lục nội dung
Dàn ý Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Bài mẫu 1


Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Bài mẫu 2

Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Bài mẫu 3
Dàn ý Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Trần Đình Hượu (những nét chính về cuộc đời, các cơng trình nghiên
cứu,...).
- Giới thiệu về đoạn trích “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” (hồn cảnh ra đời, vị trí đoạn trích, khái
quát giá trị nội dung và nghệ thuật…).
II. Thân bài:
1. Một số nhận xét về nền văn hóa dân tộc
- Cách nêu vấn đề ngắn gọn, khiêm tốn, khách quan, khôn khéo của tác giả.
- Đưa ra nhận xét trên một số mặt của vấn đề nghị luận.
2. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam
a. Hạn chế:
- Văn hóa Việt Nam chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có
ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác.
- Hạn chế trên các phương diện:
+ Thần thoại không phong phú.


+ Tôn giáo, triết học khơng phát triển, ít quan tâm đến giáo lí.
+ Khoa học kí thuật khơng phát triển thành truyền thống.


+ Âm nhạc, hội họa, kiến trúc không phát triển đến tuyệt kĩ.
+ Thơ ca chưa tác giả nào có tầm vóc lớn lao.
b. Thế mạnh:
- Thế mạnh của văn hóa Việt Nam: thiết thực, linh hoạt, dung hịa, lành mạnh với những vẻ đẹp
dịu dàng, thanh lịch, con người hiền lành, tình nghĩa.
+ Việt Nam có nhiều tơn giáo nhưng khơng xảy ra xung đột.
+ Con người sống tình nghĩa: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, cái nết đánh chết cái đẹp,….
+ Các cơng trình kiến trúc quy mơ vừa và nhỏ, hài hào với thiên nhiên.
c. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam:
- Về tơn giáo: khơng cuồng tín, cực đoan mà dung hịa các tơn giáo khác nhau tạo nên sự hài hịa,
khơng tìm sự siêu thốt tinh thần bằng tôn giáo, coi trọng cuộc sống trần tục hơn thế giới bên kia.
- Nghệ thuật: sáng tạo những tác phẩm tinh tế nhưng khơng có quy mơ lớn, khơng mang vẻ đẹp
kì vĩ, tráng lệ, phi thường.
- Ứng xử: trọng tình nghĩa nhưng khơng chú ý nhiều đến trí, dũng, chuộng sự khéo léo, khơng kì
thị, cực đoan, thích sự yên ổn.
- Sinh hoạt: thích chừng mực vừa phải, mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn no đủ,
sống thanh nhàn, thong thả, có đơng con, nhiều cháu, khơng mong gì cao xa, khác thường,…
- Quan niệm về cái đẹp: cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo, hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch,
duyên dáng, quy mô vừa phải.
- Kiến trúc: tuy nhỏ nhưng điểm nhấn lại là sự hài hòa, tinh tế với thiên nhiên.
- Lối sống: ghét phơ trương, thích kín đáo, trọng tình nghĩa,….
⇒ Văn hóa của người Việt Nam giàu tính nhân bản, ln hướng đến sự tinh tế, hài hịa trên nhiều
phương diện. Đó chính là bản sắc văn hóa Việt Nam.
3. Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc
- Sự tạo tác của chính dân tộc.
- Khả năng chiếm lĩnh, đồng hóa những giá trị văn hóa bên ngồi.

III. Kết bài:


- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
- Bài học cho bản thân: mỗi người cần ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong việc
giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, cần có những hành động đúng đắn,
phù hợp,…

Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Bài mẫu 1
Nhìn về vốn văn hóa dân tộc là một trích đoạn của tiểu luận Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa
dân tộc được Trần Đình Hượu viết từ năm 1986. Với tiểu luận này, mục đích chính mà tác giả
đặt ra khơng phải là xác định rõ ràng từng điểm một về cái gọi là bản sắc văn hóa dân tộc, mà
gợi mở con đường nghiên cứu về nó trong tư cách một vấn đề thời sự của chiến lược phát triển
đất nước thời kỳ đổi mới. Như vậy, ở đây, “nhìn về” cũng chính là “hướng tới”, và hành động
“nhìn về” truyền thống, “nhìn về” quá khứ trở thành một yếu tố then chốt của hành động “hướng
tới” hiện đại, “hướng tới” tương lai.
Trong tiểu luận, bên cạnh khái niệm vốn văn hoá dân tộc, tác giả cũng dùng một số khái niệm
khác như: đặc sắc văn hóa dân tộc, thiên hướng văn hóa dân tộc, tinh thần chung của văn hóa dân
tộc. Cách diễn đạt của tác giả không cố định, cứng nhắc. Có khi tác giả chỉ viết đơn giản: bản sắc
dân tộc,hoặc nói hơi khác: bản sắc dân tộc của văn hóa. Nhìn chung, theo tinh thần tốt lên từ
tồn bộ tiểu luận, có thể hiểu vốn văn hố dân tộc hay bản sắc văn hóa dân tộc là cái giúp khu
biệt văn hóa của dân tộc này với văn hóa của dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là hiện
tượng kết tinh, là thành quả tổng hợp của một quá trình sáng tạo, tiếp xúc văn hóa, nhào trộn cái
vốn có, riêng có của dân tộc với những cái tiếp thu từ bên ngoài. Bản sắc văn hóa vừa có mặt ổn
định vừa có mặt biến đổi. ổn định không đối lập mà tạo tiền đề cho biến đổi và biến đổi cũng để
đi đến một dạng ổn định mới, cao hơn, phong phú hơn. Khái niệm vốn văn hóa dân tộc mà tác
giả dùng vừa có mặt rộng hơn, vừa có mặt hẹp hơn khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc. Nói rộng
là vì: bản sắc văn hóa làm nên cái vốn văn hóa. Cịn nói hẹp là bởi: vốn văn hóa dường như chỉ
nói được mặt ổn định, cố hữu mà chưa nói được mặt biến đổi của bản sắc văn hóa. Với các khái
niệm thiên hướng văn hóa, tinh thần chung của văn hóa, có lẽ tác giả muốn nói chiều động, chiều

phát triển của bản sắc văn hóa.
Ngồi đoạn mở đầu mang tính chất đặt vấn đề, cả tiểu luận (phần được trích học) tập trung nêu
lên và nhận xét về một số điểm mà theo tác giả là có “liên quan gần gũi” với cái gọi là đặc sắc
văn hóa dân tộc. Cách triển khai lập luận của tác giả khá đặc biệt. Bắt đầu, ơng đã khơng nói về
cái có, mà nói về cái khơng của vốn văn hố dân tộc. Có thể dễ dàng đếm được trong bài có đến
trên vài chục lần từ khơng được lặp lại – từ không với hàm nghĩa chỉ ra những cái mà dân tộc ta
khơng có (so với các dân tộc khác trên thế giới). Bên cạnh từ không, các cụm từ và từ như chưa
bao giờ, ít cũng chở theo một nội dung tương tự. Khó nói rằng tác giả cố tình “độc đáo”, cố tình
gây ấn tượng ở điểm này. Cái gây ấn tượng, nếu có, tốt lên từ cách nhìn trực diện về vấn đề hơn
là cách tung hứng ngôn từ. Vào thời điểm tiểu luận của Trần Đình Hượu ra đời, người ta vốn đã
quen nghe những lời ca tụng về dân tộc mình (Càng nhìn ta, lại càng say – Tố Hữu), bởi vậy, khi
giáp mặt với một cách đặt vấn đề khác, một cảm hứng nghiên cứu khác, nhiều người dễ có cảm
tưởng rằng tác giả đã “nói ngược” hay đã cực đoan trong các nhận định. Kì thực, nếu nắm được


mạch nghiên cứu lịch sử tư tưởng của Trần Đình Hượu, đồng thời chấp nhận nét đặc thù của lối
văn “phát biểu ý kiến”, ít có trích dẫn cũng như ít đưa dẫn chứng (ở cấp độ cụ thể, chi tiết), lại
chủ yếu hướng vào giới chuyên môn vốn am hiểu sâu sắc các vấn đề hữu quan, ta sẽ dễ dàng
chia sẻ, tán đồng với tác giả về hầu hết những luận điểm then chốt mà ông nêu lên.
Khi khẳng định: “Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hóa của ta đồ sộ, có
những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật”, tác giả đã dựa vào khá
nhiều căn cứ: ở Việt Nam, kho tàng thần thoại khơng phong phú (xét theo những gì cịn được
bảo tồn đến bây giờ); tôn giáo, triết học đều không phát triển; khơng có một ngành khoa học, kĩ
thuật nào phát triển đến thành có truyền thống; âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển
đến tuyệt kĩ; thơ ca rất được u thích nhưng các nhà thơ khơng ai nghĩ sự nghiệp của mình là ở
thơ ca;… Dĩ nhiên, đây mới chỉ là những “căn cứ lớn”, mà bản thân chúng có thể và cần phải
được chứng minh bằng hàng loạt dữ kiện cụ thể. Do định hướng riêng của bài viết, tác giả đành
lướt qua vấn đề này. Điều quan trọng hơn đối với ơng là nói rõ tiền đề mà dựa trên đó các “căn
cứ lớn” đã được nêu lên: “ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết
học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội họa,… phát triển rất cao, ảnh hưởng phổ biến và

lâu dài đến tồn bộ văn hóa, thành đặc sắc văn hóa của dân tộc đó, thành thiên hướng văn hóa
của dân tộc đó”. Theo lơ gích vấn đề, ở cuối đoạn 2, tác giả cịn cắt nghĩa lí do của các “kiểu lựa
chọn văn hóa” vừa được chính ơng trình bày để ta thấy rõ tính quy luật của nó: “Thực tế đó cho
ta biết khuynh hướng, hứng thú, sự ưa thích, nhưng hơn thế, còn cho ta biết sự hạn chế của trình
độ sản xuất, của đời sống xã hội. Đó là văn hố của cư dân nơng nghiệp định cư, khơng có nhu
cầu lưu chuyển, trao đổi, khơng có sự kích thích của đơ thị”. Bằng cách lật đi lật lại vấn đề như
thế, tác giả đã thực sự làm tăng sức thuyết phục cho luận điểm của mình.
Dễ dàng nhận thấy rằng, với tiểu luận này, tác giả đã thoát khỏi thái độ hoặc ca ngợi, hoặc chê
bai đơn giản thường thấy khi tiếp cận vấn đề. Tinh thần chung của bài viết là tiến hành một sự
phân tích, đánh giá khoa học đối với những đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam. Thực ra,
khen hay chê vốn là một phản ứng tình cảm bình thường, hồn tồn có đủ lí do để có mặt trong
một bài nghiên cứu. Nhưng điều quan trọng là nếu người viết khơng vượt lên được vịng trói
buộc của sự khen – chê chủ quan thì mọi kiến nghị, đề xuất sau đó sẽ ít tính thuyết phục. Trần
Đình Hượu hẳn ý thức sâu sắc về điều đó nên đã sử dụng một giọng văn điềm tĩnh, khách quan
để trình bày các luận điểm. Người đọc chỉ có thể nhận ra được nguồn cảm hứng thật sự của tác
giả nếu hiểu cái đích xa mà ơng hướng đến: góp phần xây dựng một chiến lược phát triển mới
cho đất nước, đưa đất nước thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển hiện thời.
Sau khi đã nêu một loạt điểm “khơng đặc sắc” của văn hóa Việt Nam, tác giả lại khẳng định:
“người Việt Nam có nền văn hóa của mình”. Nếu việc làm trước khơng đồng nghĩa với cái gọi là
“chê” thì việc làm sau khơng phải là biểu hiện cụ thể của cái gọi là “khen”. Khơng có gì mâu
thuẫn ở đây cả, bởi, thứ nhất, theo tác giả quan niệm, việc đi tìm cái riêng của văn hóa Việt Nam
khơng nhất thiết phải gắn liền với việc cố chứng minh dân tộc Việt Nam không thua kém các dân
tộc khác ở những điểm mà thế giới đã thừa nhận là rất nổi bật ở họ (ví dụ như sự phát triển của
hệ thống thần thoại, tôn giáo, triết học, các ngành nghệ thuật, kiến trúc,….). Nỗ lực chứng minh
như thế là một nỗ lực vô vọng. Tác giả chỉ ra những điểm “không đặc sắc” của văn hóa Việt
Nam là trên tinh thần ấy. Việc làm của tác giả rõ ràng hàm chứa một gợi ý về phương pháp luận
nghiên cứu vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc: đi tìm đặc sắc văn hóa Việt Nam phải có cái nhìn sát
với thực tế Việt Nam, khơng thể vận dụng những mơ hình cố định; điều quan trọng khác là phải



tìm ra cội nguồn của hiện tượng khơng có những điểm đặc sắc nổi bật như của các dân tộc khác
để thấy được cái “đặc sắc” của văn hóa Việt Nam. Vấn đề “có” hay “khơng” nhiều khi chưa quan
trọng bằng vấn đề “tại sao có ?”, “tại sao khơng ?”. Thứ hai, tác giả quan niệm văn hóa là sự tổng
hịa của nhiều yếu tố, trong đó lối sống, quan niệm sống là yếu tố then chốt; mà lối sống, quan
niệm sống ấy cũng lại là một hệ thống, kết quả sự tổng hịa của mn vàn yếu tố khác nhỏ hơn.
Khi quan sát thấy người Việt Nam có lối sống, quan niệm sống riêng, biểu hiện qua việc ta đã tự
tạo ra được cho mình một cái “màng lọc” nhằm gạt bỏ hoặc tiếp thu, lựa chọn những cái gì
khơng cần thiết hoặc cần thiết cho mình, tác giả hồn tồn có cơ sở để khẳng định: người Việt
Nam có nền văn hóa riêng. Hóa ra, “khơng đặc sắc” ở một vài điểm thường hay được người ta
nhắc tới khơng có nghĩa là khơng có gì ! Phải nói rằng, tác giả đã có một quan niệm tồn diện về
văn hóa, và hơn thế, biết triển khai cơng việc nghiên cứu của mình dựa vào việc khảo sát thực tế
khách quan chứ không phải vào các “tri thức tiên nghiệm”, các định đề.
Trong đoạn 3, tác giả có nêu khái quát một đặc điểm của văn hóa Việt Nam:"Cái đẹp vừa ý là
xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hồng, khơng say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu
sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải
khoảng. Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí, áo quần, trang sức, món ăn đều khơng
chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, dun dáng và có quy mơ
vừa phải”. Vào thời điểm tiểu luận ra đời, khái quát nêu trên có thể đã gây được những ngạc
nhiên thú vị, bởi nó giống như kết quả của một cái nhìn đến từ phía bên ngồi hoặc của một nỗ
lực phản tỉnh, cố gắng tách mình ra khỏi mình nhằm tự đánh giá. Thực tế cho thấy: thật khó nhận
diện được nét đặc sắc văn hố của dân tộc mình một khi ta đang hít thở trong bầu khí quyển của
nó, quá quen với nó. Giờ đây, khái quát trong tiểu luận của Trần Đình Hượu gần như đã trở
thành một nhận thức phổ biến, thường được nhắc lại với một ít biến thái trong nhiều tài liệu khác
nhau. Điều này thực ra khá dễ hiểu vì có vơ số dẫn chứng trong đời sống và trong văn học chứng
tỏ sự xác đáng của nó, ví dụ: Việt Nam khơng có những cơng trình kiến trúc đồ sộ như Kim tự
tháp, Vạn lí trường thành, Angkor Wat… Chùa Một cột (chùa Diên Hựu) – một biểu tượng của
văn hóa Việt Nam – có quy mơ rất bé; chiếc áo dài rất được phụ nữ Việt Nam ưa chuộng có vẻ
đẹp nền nã, dịu dàng, thướt tha; nhiều câu tục ngữ, ca dao khi nói về kinh nghiệm sống, ứng xử
rất đề cao sự hợp lý, hợp tình: Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm; ở sao cho vừa lịng người/ ở rộng
người cười, ở hẹp người chê; Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau…

Kết luận quan trọng nhất của tác giả về tinh thần chung của văn hóa Việt Nam nằm ở câu in
nghiêng trong phần cuối đoạn trích: Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh
hoạt, dung hịa. Tồn bộ những từ như tinh nhanh, khơn khéo, dung hợp, sàng lọc, tinh luyện,
tiếp nhận,… được dùng trong đoạn văn cũng có tác dụng “phụ hoạ” cho kết luận đó. Tác giả cịn
chỉ rõ: trên lĩnh vực văn hóa, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam thể hiện tập trung ở sự “đồng hóa”,
“dung hợp” chứ khơng phải ở sự “tạo tác”. Về các khái niệm vừa dẫn, dựa vào văn cảnh chúng
được sử dụng, có thể xác định:
“Tạo tác” là khái niệm có tính chất quy ước, chỉ những sáng tạo lớn của một dân tộc – những
sáng tạo mà các dân tộc khác khơng có hoặc có mà khơng đạt tầm vóc kì vĩ, gây ảnh hưởng
mạnh mẽ đến chung quanh, tạo thành những mẫu mực đáng học tập đến như thế.
Khái niệm “đồng hóa” vừa chỉ vị thế tồn tại nghiêng về phía tiếp nhận những ảnh hưởng từ
bên ngoài, những ảnh hưởng lan đến từ các nền văn minh, văn hóa lớn, vừa chỉ khả năng tiếp thu


chủ động của chủ thể tiếp nhận – cái khả năng cho phép một dân tộc biến những cái ngoại lai
thành cái của mình, trên cơ sở gạn lọc và thu giữ.
Khái niệm “dung hợp” vừa có những mặt gần gũi với khái niệm “đồng hóa” vừa có điểm khác.
Với khái niệm này, hẳn tác giả muốn nhấn mạnh đến khả năng “chung sống hịa bình” của nhiều
yếu tố tiếp thu từ nhiều nguồn khác nhau, có thể hài hịa được với nhau trong một hệ thống, một
tổng thể mới.
Nhìn chung, theo Trần Đình Hượu, văn hóa Việt Nam xa lạ với sự cực đoan, không chấp nhận
sự cực đoan, và riêng việc khơng chấp nhận điều đó đã biểu hiện một bản lĩnh đáng trọng. Như
vậy, khi khái quát bản sắc văn hóa Việt Nam qua các từ như “đồng hóa”, “dung hợp”, tác giả
Trần Đình Hượu khơng hề rơi vào thái độ tự ti hay miệt thị dân tộc.
Cũng cần nói thêm: trên con đường xác định cái gọi là bản sắc văn hố dân tộc, Trần Đình
Hượu đã có những điểm gặp gỡ với nhiều nhà nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, văn học khác. Nhà
Đạo học Cao Xn Huy từng hình dung triết lí Việt Nam là triết lí Nước hay Nhu đạo. Cịn nhà
sử học Trần Quốc Vượng thì viết: “Tơi gọi cái bản lĩnh – bản sắc biết nhu, biết cương, biết công,
biết thủ, biết “trông trời trông đất trông mây…” rồi tùy thời mà làm ăn theo chuẩn mực “nhất thì
nhì thục”… ấy, là khả năng ứng biến của người Việt Nam, của lối sống Việt Nam, của văn hóa

Việt Nam !” v.v…
Trong bối cảnh thời đại ngày nay, việc tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc trở thành một nhu cầu
tự nhiên. Chưa bao giờ dân tộc ta có cơ hội thuận lợi như thế để xác định “chân diện mục” của
mình qua hành động so sánh đối chiếu với “khn mặt” của các dân tộc khác. Giữa hai vấn đề
hiểu mình và hiểu người có mối quan hệ tương hỗ. Tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc rất có ý
nghĩa đối với việc xây dựng một chiến lược phát triển mới cho đất nước, trên tinh thần làm sao
phát huy được tối đa mặt mạnh vốn có, khắc phục được những nhược điểm dần thành cố hữu để
tự tin đi lên. Tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc dĩ nhiên cũng gắn liền với việc quảng bá cái hay,
cái đẹp của dân tộc để “góp mặt” cùng năm châu, thúc đẩy một sự giao lưu lành mạnh, có lợi
chung cho việc xây dựng một thế giới hịa bình, ổn định và phát triển. Đến với tiểu luận Vấn đề
tìm đặc sắc văn hố dân tộc, cụ thể là đến với đoạn trích Nhìn về vốn văn hố dân tộc, chúng ta
cảm nhận được những điều gợi mở quý báu đó từ một nhà nghiên cứu tâm huyết với tiền đồ phát
triển của dân tộc.

Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Bài mẫu 2
Mỗi dân tộc đều biểu hiện một nét đẹp văn hóa riêng, chính vì thế trong tác phẩm này Trần
Đình Hượu đã sáng tạo và bàn về những khía cạnh của văn hóa, nó được biểu hiện về nhiều
phương diện như tôn giáo, nghệ thuật, ứng xử hay cách sinh hoạt của con người.
Trong tác phẩm tác giả đã bàn về các lĩnh vực quen thuộc của mỗi một quốc gia, mỗi dân tộc,
ở đó con người biểu hiện về nét sống, cách sinh hoạt hay giao tiếp trong một cộng đồng người.
Với sự sáng tạo đó tác giả đã thể hiện được những nét đặc trưng thơng qua những ví dụ, dẫn


chứng trong các cơng trình nghiên cứu, ví dụ như Chùa một cột, lăng tẩm…, mỗi một cơng trình
kiến trúc gắn với một sự kiện lịch sử riêng.
Văn hóa khơng chỉ được biểu hiện qua cơng trình nghệ thuật mà nó cịn biểu hiện qua giao
tiếp, văn hóa hay phép ứng xử hàng ngày, trong dân gian có rất nhiều câu tục ngữ hay trong đó
nó nói về lời ăn tiếng nói hàng ngày của con người ví dụ như Chim khơn kêu tiếng rảnh rang/
Người khơn nói tiếng dịu dàng dễ nghe; hay lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa
lịng nhau.

Mỗi cơng trình văn hóa đều được biểu hiện những nét riêng của một dân tộc, 1 đất nước, nó
phản ánh sâu sắc đời sống của cộng đồng các dân tộc, đó là sự kì vĩ của những cơng trình kiến
trúc, qua đó con người có thể thể hiện được yếu tố tinh thần của mình. Mỗi dân tộc mỗi quốc gia
đều có đa dạng các nền văn hóa, nó có thể tốt xấu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến truyền thống của
mỗi quốc gia, mỗi vùng miền dân tộc. Mỗi chúng ta cần phải biết tiếp nhận những nền văn hóa
theo khía cạnh riêng, lành mạnh và thể hiện được những nét văn hóa riêng của vùng miền, của
dân tộc.
Tinh thần văn hóa được biểu hiện những nét đẹp văn hóa của vùng miền, tổ chức hay hệ thống
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, chúng ta không ngừng cải thiện, nâng cao cho mình sự sáng tạo
vì một cộng dân tộc, ln tích cực chủ động, sàng lọc nền văn hóa, học hỏi và tiếp thu truyền
thống của cộng đồng dân tộc. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều phải trải qua quá trình bị xâm nhập
văn hóa, nó là nguồn văn hóa mở, tạo nên một nét riêng trong văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi
vùng miền dân tộc.
Mỗi vùng miền biểu hiện một vùng văn hóa riêng, chính vì thế dân tộc của chúng ta cần phải
mở rộng, nâng cao và phát triển văn hóa truyền thống, những giá trị văn hóa cao đẹp, mang lại ý
nghĩa to lớn cho mỗi con người. Giá trị văn hóa truyền thống thể hiện những giây phút lịch sử
hào hùng của dân tộc, mỗi quốc gia dân tộc đều có những nét văn hóa riêng, chính vì thế nó thể
hiện những giá trị truyền thống, văn hóa lịch sử, những di tích lịch sử hào hùng.
Văn hóa biểu hiện cho lối sống của quốc gia, dân tộc đó, chính vì những nét văn hóa điển hình
của mỗi vùng miền mà tựu chung thành nền văn hóa của đất nước, của mỗi dân tộc. Văn hóa
biểu hiện truyền thống, tơn giáo, những cơng trình kiến trúc của dân tộc. Tác giả bàn về văn hóa
trên nhiều phương diện, nó là phương diện lịch sử, đạo đức, lối sống và tinh hoa riêng của mỗi
dân tộc.
Vốn văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc là phong phú, nó biểu hiện những vấn đề của dân
tộc, của thời đại, phát triển chung về lối sống, tư tưởng và đạo đức của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
đối với những vấn đề lịch sử, mọi vấn đề đều được biểu hiện nét riêng, đặc sắc, tinh tế của vùng
miền văn hóa đó.
Mỗi chúng ta đều có thể thấy được, tác giả Trần Đình Hượu đã bàn về lối văn hóa của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc, nó biểu hiện nét riêng trong văn hóa, lối sống, lịch sử của đất nước, truyền
thống, thể hiện cái nhìn mới mẻ về văn hóa của vùng miền, của đất nước.



Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Bài mẫu 3
Trần Đình Hượu là một chuyên gia về các vấn đề văn hóa tư tưởng Việt Nam. Ơng đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về văn hóa tư tưởng có giá trị: "Đến hiện đại từ truyền
thống"(1994), "Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại"(1995). "Nhìn về vốn văn hóa của
dân tộc" là trích đoạn của tiểu luận "Về vấn đề tìm đặc sắc của dân tộc" được Trần Đình Hượu
viết từ năm 1986. Trong tác phẩm tác giả đã thoát khỏi thái độ hoặc ngợi ca hoặc chê bai thường
thấy khi tiếp cận vấn đề, tinh thần chung của bài viết là tiến hành một sự phân tích đánh giá khoa
học đối với những vấn đề nổi bật của văn hóa Việt Nam.
Trước tiên tác giả đã đặt vấn đề về khái niệm của vốn văn hóa. Chúng ta thường nói đến văn
hóa ẩm thực hay văn hóa đọc. Vậy văn hóa là gì? Theo đó văn hóa là tổng thể nói chung những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Đây là một khái
niệm cơ bản của văn hóa trong từ điển tiếng Việt.
Đứng trên khái niệm về văn hóa Trần Đình Hượu đã nêu lên nhận xét khái quát về Văn hóa
Việt Nam "chúng ta khơng thể tự hào nền văn hóa của chúng ta đồ sộ, có những cống hiến lớn
lao cho nhân loại hay có những đặc sắc nổi bật". Tác giả đã phân tích những đặc điểm của vốn
văn hóa Việt Nam thơng qua những phương diện đời sống cụ thể hàng ngày cả về vật chất lẫn
tinh thần. Tác giả đã phân tích đặc điểm vốn văn hóa của dân tộc trên những cơ sở phương diện


như tôn giáo nghệ thuật, kiến trúc hội họa và văn học. Về tôn giáo tác giả chỉ rõ người Việt Nam
khơng cuồng tín khơng cực đoan mà dung hịa tạo nên sự hài hịa nhưng khơng tìm sự siêu thốt
siêu Việt về tinh thần bằng tơn giáo. Nước Việt là một nước có truyền thống văn hóa lâu đời,
nhưng ln có sự tiếp thu, có chọn lọc văn hóa từ các nước bạn để làm giàu cho vốn văn hóa của
dân tộc. Chính điều này đã góp phần tạo nên một nước Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Về
khoa học kỹ thuật không một ngành nào phát triển đến thành truyền thống đáng tự hào. Về âm
nhạc hội họa đều không phát triển đến tuyệt kĩ. Chưa bao giờ một nền văn hóa nào của dân tộc
trở thành đài danh dự thu hút quy tụ cả nền văn hóa. Về thơ ca Trần Đình Hượu chỉ rõ "trong các
ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất chính là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, có dịp làm

dăm ba câu thơ ca". Trong kho tàng văn học truyền thống của dân tộc ta thì thơ ca chiếm một
phần khơng nhỏ bởi vì dễ thuộc dễ đi vào lòng người thế nhưng đồng thời tác giả cũng chỉ ra"
những số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì khơng có". Điều này đã gây ra nhiều tranh cãi bởi dân
tộc ta cũng có rất nhiều nhà thơ lớn để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ và là niềm tự hào của
chúng ta đối với thế giới như Nguyễn Du hay Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bỉnh Khiêm…. Như vậy
bên cạnh những điểm mạnh điểm tích cực thì Trần Đình Hượu cũng chỉ ra những mặt cịn yếu
cịn hạn chế của văn hóa Việt. Sở dĩ văn hóa của ta còn nhiều hạn chế là bởi xuất phát từ nền văn
hóa nơng nghiệp "dân nơng nghiệp định cư…nhiều bất trắc" hơn nữa đất nước ta còn nhỏ tài
nguyên lại chưa thật phong phú dẫn đến tâm lý thích cái vừa phải và phần nào đất nước chúng ta
cũng chịu nhiều tổn thất nặng nề từ các cuộc đấu tranh và thường xuyên bị các thế lực nước
ngoài bao vây chống phá. Vì thế mong ước của nhân dân cũng rất đơn giản đó là có cuộc sống
thái bình đời sống vật chất thốt nghèo nàn và khơng có mong ước phát triển mạnh mẽ. Tác giả
đã có một quan niệm vơ cùng tồn diện của mình về văn hóa và triển khai việc nghiên cứu của
mình dựa vào việc khảo sát thực tế khách quan chứ không phải vào các "tri thức tiền nghiệm"
Theo Trần Đình Hượu thì quan niệm sống, quan niệm về cái đẹp là những biểu hiện đặc sắc
của văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong cách ứng xử họ rất trọng tình nghĩa khơng chú ý nhiều đến
trí dũng khéo léo nhưng khơng cầu thị, cực đoan thích yên ổn. Tuy coi trọng đời sống hiện thế
trần tục nhưng không bám lấy hiện thế. Con người ưa chuộng của người Việt là con người hiền
lành, tình nghĩa, coi sự giàu sang chỉ là tạm thời cho nên khơng vì thế mà giành giật cho mình vì
cũng khơng thể hưởng được hết. Trong sinh hoạt họ ưa chừng mực vừa phải, mong ước thái bình
an cư lạc nghiệp làm ăn cho no đủ sống yên ổn thanh nhàn. Quan niệm về cái đẹp trong nhận
thức của người Việt "vừa xinh vừa khéo", không háo hức cái tráng lệ huy hồng khơng say mê
cái huyền ảo kỳ vĩ", về màu sắc "chuộng cái dịu dàng thanh nhã ghét cái ặc sỡ", về quần áo món
ăn đều khơng chuộng sự cầu kì. Và đúng như tác giả đã nhận định chúng ta khơng có cơng trình
kiến trúc nào kể cả của vua chúa nhằm vào sự vĩnh viễn. Thực tế đã chứng minh trong lịch sử
nước Việt Nam chúng ta từ xưa đến nay đều khơng có cơng trình kiến trúc nào vĩnh viễn như
Vạn lý trường thành của Trung Quốc hay lăng mộ ở Ai Cập. Theo tác giả đặc điểm nổi bật trong
sự sáng tạo văn hóa Việt Nam là tạo ra cuộc sống thiết thực bình ổn lành mạnh với những vẻ đẹp
dịu dàng thanh lịch nhưng con người hiền lành sống có tình nghĩa, sống có văn hóa trên một cái
nền nhân bản. Đó chính là chùa Một Cột đơn giản mà uy nghi hay các lăng tẩm của vua chúa

thời Nguyễn, đó chính là lời ăn tiếng nói của nhân dân trong tục ngữ thành ngữ và ca dao.
"Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khơn nói tiếng dịu dàng dễ nghe"


Hay:
"Lời chào cao hơn mâm cỗ"
Tác giả cũng chỉ ra những tơn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến con người Việt đó là phật giáo
và nho giáo. Để tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc người Việt Nam đã xác nhận tư tưởng của
các tôn giáo này theo hướng "Phật giáo khơng được tiếp nhận ở khía cạnh trí tuệ cầu giải thốt
mà nho giáo cũng khơng được tiếp nhận ở nghi lễ tủn mủn, giáo điều khắc nghiệt". Người Việt
tiếp thu nho giáo để có một cuộc sống trong sạch lành mạnh hài hòa bao dung nhân nghĩa hướng
thiện cứu khổ cứu nạn. Tư tưởng nhân nghĩa, yên dân được thể hiện rất nhiều trong thơ ca.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Tác giả nhận định "tinh thần chung của văn hóa là thiết thực dung hịa". Nhận định này vừa
nói lên mặt tích cực vừa tiềm ẩn điểm hạn chế của văn hóa Việt. Vì tính thiết thực trong q
trình sáng tạo khiến văn hóa Việt gắn bó sâu sắc với đời sống của cộng đồng. Tính linh hoạt của
văn hóa Việt biểu hiện rõ ở khả năng tiếp thu và biến các giá trị văn hóa sao cho phù hợp với đời
sống bản địa của người Việt như Phật giáo, nho giáo và đạo giáo. Vì dung hịa nên các giá trị văn
hóa Việt khơng thuộc nhiều nguồn khác nhau không loại trừ nhau trong đời sống xã hội của
người Việt, người Việt chọn lọc và kế thừa các giá trị này để tạo nên sự hài hòa bình ổn trong đời
sống văn hóa. Tuy nhiên vì q thiếu sáng tạo nên không đạt đến những giá trị kỳ vĩ vì ln dung
hịa nên khơng có những giá trị đặc sắc nổi bật.
Tác giả cũng khẳng định "Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hóa khơng chơng
cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà cịn trơng cậy vào khả năng chiếm lĩnh khả năng
đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngồi. Về mặt đó lịch sử chứng minh là dân tộc Việt Nam có
bản lĩnh". Dân tộc ta đã trải qua một thời gian dài bị đô hộ và chịu áp bức nặng nề từ thuộc địa
chính vì thế mà dân ta không thể chờ vào sự sáng tạo và sáng tác nữa mà phải "trông cậy vào khả
năng chiếm lĩnh khả năng đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngồi" là điều đúng đắn. Như ta đã

nói ở trên tuy ta chịu ảnh hưởng của phật giáo và nho giáo nhưng ta khơng tiếp thu tồn bộ nó
mà chỉ tiếp thu những đạo lí tốt đẹp, những gì thích hợp với văn hóa Việt Nam. Bên cạnh đó
chúng ta sáng tạo chữ Nôm trên cơ sở chữ Hán tạo nên những tác phẩm mang đậm âm hưởng
Việt, chúng ta sáng tạo các thể thơ dân tộc đi đôi với các thể thơ đường luật của Trung Quốc, thơ
tự do của phương tây. Như vậy chúng ta tiếp thu nhưng khơng bao giờ dập khn máy móc,
người Việt đã cải biến nó theo những ý nghĩa riêng gắn với đặc trưng riêng của dân tộc mình.
Tác phẩm là sự trình bày chặt chẽ biện chứng logic thể hiện các khía cạnh trong văn hóa dân
tộc Việt. Bên cạnh đó là thái độ khách quan, sự khiêm tốn tránh được khuynh hướng cực đoan.
Đoạn trích cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của người dân Việt Nam có được từ
lâu đời, thấy được những hạn chế và tích cực do hồn cảnh để lại, là cơ sở để chúng ta suy nghĩ
tìm ra phương hướng xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Từ đó ta thấy
được trách nhiệm của mỗi thanh niên chúng ta trong việc góp phần giữ gìn văn hóa dân tộc và
phát triển nó sao cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước.


---/--Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc do Top lời giải sưu
tầm được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hồn thiện bài văn của
mình tốt nhất!



×