Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Sk Một số biện pháp nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS thông qua HĐNGLL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 28 trang )

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài:..........................................................................................1
2. Mục đích , nhiệm vụ của giải pháp................................................................3
2.1. Mục tiêu...................................................................................................3
2.2 Nhiệm vụ của đề tài:.................................................................................3
3. Phạm vi đối tượng nghiên cứu:......................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu:..............................................................................3
II. PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................3
1.Cơ sở lí luận:...................................................................................................3
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu........................................................................4
2.1. Thuận lợi, khó khăn................................................................................5
2.1.1. Thuận lợi:..........................................................................................5
2.1.2. Khó khăn:..........................................................................................5
3. Nội dung sáng kiến :..........................................................................................8
3.1. Bản chất của giải pháp mới..................................................................8
3.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến........................................................22
3.3. Đánh giá hiệu quả mang lạikhi áp dụng giải pháp.............................22
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.............................................................23
1. Kết luận:.......................................................................................................23
2. Kiến nghị:.....................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng về giáo dục và đào tạo đã đưa
ra những quan điểm, định hướng lớn về phát triển giáo dục và đào tạo của nước
ta đó là : “ Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu


cầu phát triển của xã hội”.
Các quan điểm trên không chỉ thể hiện sự phát triển về tư duy, nhận thức, kế
thừa chủ trương nhất quán của Đảng ta qua các giai đoạn lịch sử, coi trọng sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, vừa là vấn đề mang tính chiến lược xuyên suốt, bám
sát xu thế phát triển của nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn đặt ra
yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Mục tiêu chung của giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay là nhằm
phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức cơng dân; có lịng
u nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. 
Để thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện nhân cách con người địi hỏi ngành
giáo dục nói chung, giáo dục THCS nói riêng phải quan tâm trang bị tri thức, kỹ
năng, thái độ cho người học, đảm bảo tính cân đối giữa dạy chữ và dạy người,
đặc biệt là giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp học sinh biến tri thức thành
hành động, thái độ thành hành vi, kỹ năng để sống an toàn, khỏe mạnh, thành
công và hiệu quả.
Thực tế cho thấy, xã hội ngày càng phát triển ,càng văn minh, hiện đại, đời
sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng được nâng cao trong thời đại
Công nghệ -Thông tin, tất cả lĩnh vực đều phát triển như vũ bão, các em được
học tập và sinh hoạt trong các môi trường khá đầy đủ và tiện nghi nên học sinh
có những hiểu biết khá phong phú, ngồi ra thơng qua các kênh thông tin, đặc
biệt là nhờ truy cập Internet. Tuy nhiên, vấn đề mà giáo dục và xã hội quan tâm
trong thời gian qua đó là văn hố ứng xử, khả năng giao tiếp, kĩ năng sống trong
cuộc sống của giới trẻ - trong đó có học sinh - còn nhiều hạn chế. Các em nhận
thức chưa đúng về kỹ năng sống.
Hầu hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các tình
huống thường gặp trong cuộc sống, trong giao tiếp. Đặc biệt kỹ năng tự bảo vệ



2
trước những vấn đề xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn cuộc
sống như: kỹ năng nhận diện một vấn đề, biết cách xác định tình huống, biết
cách từ chối, kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, tự chăm sóc sức
khỏe bản thân ... cịn gặp nhiều khó khăn. Khi gặp tình huống thì ứng phó
khơng lành mạnh, dễ mắc các tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vơ tâm, khép mình…..
Có rất nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng này, thế nhưng một trong những
ngun nhân chính phải chăng đó là học sinh ngày nay rất thiếu về các kỹ năng
sống cần thiết?
Vậy làm thế nào để giúp thế hệ trẻ có được đầy đủ kỹ năng sống cần thiết?
Từ đó giúp các em đứng trước thềm hội nhập quốc tế phải tự tin; năng động và
sáng tạo; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một số kỹ năng:
sống khoẻ, sống lành mạnh, sống có ích, giỏi lập trình, giỏi Tiếng Anh…?
Trước đây, trong bối cảnh xã hội truyền thống, con trẻ học cách đối nhân xử
thế thơng qua đại gia đình, làng xã, văn hóa dân gian, các chương trình giáo dục
chính quy và khơng chính quy, … Nhưng dưới những chuyển biến kinh tế xã hội
diễn ra quá nhanh chóng đã hạn chế phần nào chức năng của giáo dục gia đình .
Ngày nay đại đa số gia đình đều mong muốn con mình học thật giỏi nên suốt
ngày phụ huynh học sinh bắt các em phải học từ sáng đến tối không có thời gian
vui chơi sinh hoạt giải trí …Hơn thế nữa những ảnh hưởng từ dịch bệnh Covit
19 ,biến động kinh tế xã hội do q trình hiện đại hóa cũng đem lại cho các em
lứa tuổi thiếu niên quá nhiều thử thách.
Để giải quyết vấn đề này đã có rất nhiều trung tâm đào tạo kỹ năng sống ra
đời, nhằm giúp các em học sinh trung học cơ sở tập trải nghiệm trong những
tình huống giả định, nhằm hình thành một số kỹ năng cần thiết để tự tổ chức
cuộc sống của cá nhân trở nên hiệu quả hơn. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng
đã và đang có những định hướng tích cực để đưa kỹ năng sống vào giảng dạy tại
các bậc học nhằm góp phần nâng cao định hướng giá trị và tạo lập hành vi phù

hợp ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhưng có lẽ do đây là một lĩnh vực khoa học
còn khá mới mẻ và với nhiều nguyên nhân khác nhau nên việc giảng dạy, huấn
luyện kỹ năng sống vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng
mức. Vấn đề kỹ năng sống dưới góc độ tâm lý là lĩnh vực chưa được nghiên cứu
nhiều.
Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện thì cần thiết phải giáo
dục KNS cho học sinh. Là một giáo viên chủ nhiệm với thiên chức như một
người mẹ hiền thứ hai của các em. Tơi nghĩ mình cần phải có trách nhiệm giáo
dục kỹ năng sống cho các em .Và từ sách vở, báo chí, các nguồn thơng tin bổ
ích đáng tin cậy trên Internet cũng như qua những trải nghiệm trong cuộc sống,


3
được tận mắt chứng kiến những nghịch cảnh đã xảy ra với các em, … Tôi đã
mạnh dạn đưa những chương trình kỹ năng sống vào giáo dục các em học sinh
lớp chủ nhiệm qua các buổi HĐNGLL, sinh hoạt 15 phút đầu giờ và tiết sinh
hoạt cuối tuần trong năm học vừa qua. Tuy kết quả mang lại bước đầu được
đánh giá là khá tốt song với mong muốn được chia sẻ và lĩnh hội thêm bài học
hay của các bậc phụ huynh, các anh chị, bạn bè đồng nghiệp. Đó cũng chính là
lý do mà tơi muốn chia sẻ: “ Một số biện pháp nhằm giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh THCS thơng qua HĐNGLL”
2. Mục đích, nhiệm vụ của giải pháp
Xã hội hiện đại ln địi hỏi con người cần có những kỹ năng ứng phó trước
những tình huống xảy ra trong cuộc sống nên việc rèn luyện cho học sinh các kỹ
năng mềm là nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục. Điều này giúp trang bị
cho các em những kiến thức có giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp; từ đó hình
thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những
hành vi, thói quen tiêu cực trong cuộc sống; tạo cơ hội cho các em có khả năng
xử lý mọi vấn đề xảy ra trong sinh hoạt hàng ngày.
Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát

triển hài hịa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
+ Phạm vi: Đề tài tập trung giới thiệu và giải quyết những vấn đề về việc tổ
chức các hoạt động giáo dục NGLL nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và rèn kỹ
năng sống cho học sinh tất cả các trường THCS.
+ Đối tượng nghiên cứu: Là khả năng vận dụng kỹ năng sống của học sinh
trường THCS Nguyễn Du - xã Đắk Nuê - huyện Lắk nơi tôi đang công tác hiện
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Tìm hiểu thực tế.
- Nghiên cứu thực nghiệm.
- Tổng hợp tư liệu, tài liệu.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục có một vị trí và vai trị
vơ cùng quan trọng. Người chỉ rõ nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục vì con
người, có vai trị huấn luyện, bồi dưỡng, phát triển tồn diện con người Việt
Nam mới xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của nền giáo dục là “phải phục tùng
đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống
của nhân dân. học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế”. Giáo


4
dục phải góp phần đào tạo ra được những người lao động mới. Đó là những
người có lịng u nước nồng nàn, “trung với nước, hiếu với dân”, có đạo đức
cách mạng trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, khơng quản ngại khó khăn,
gian khổ, hy sinh, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết
kiệm, trong sạch, giản dị, có tri thức và sức khoẻ để trở thành những người chủ
tương lai của đất nước, “những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
hồng, vừa chuyên”.

Với một tầm nhìn thời đại và tư duy tồn cầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Trồng
người ở đây chính là phải tập trung giáo dục kỹ năng sống, trước khi giáo dục
kiến thức cho học sinh. Bác cũng từng nói: “Người có tài mà khơng có đức là
người vơ dụng, người có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó.” Hay bất
kỳ trong một ngơi trường nào chúng ta cũng đều nhìn thấy khẩu hiệu: “Tiên học
lễ, hậu học văn.” Điều này cho thấy giá trị đạo đức, kỹ năng sống của con người
mới chính là yếu tố hàng đầu làm nên sự thành công trong mọi lĩnh vực.
Theo dự thảo chiến lược thì mục tiêu tổng quát đến năm 2030 của giáo dục
Việt Nam là phát triển toàn diện con người Việt Nam, phát huy tối đa tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, làm nền tảng cho mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đất nước phồn vinh và hạnh phúc. Đồng
thời, xây dựng hệ thống giáo dục mở, phục vụ học tập suốt đời, cơng bằng và
bình đẳng, theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội
nhập quốc tế.
Với ngành giáo dục thì chương trình rèn luyện kỹ năng sống cũng triển khai
từ rất lâu theo phương pháp lồng ghép vào các môn học như đạo đức, giáo dục
công dân… Tuy nhiên, chương trình rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được
nhấn mạnh gần đây nhất chính là một trong năm nội dung được Bộ GD-ĐT phát
động thực hiện trong phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”.
Giáo viên chủ nhiệm, người vừa giảng dạy chuyên môn vừa cận kề bên các
em hằng ngày cần phải đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống cho các em trong
các tiết sinh hoạt 15 phút đầu giờ hay sinh hoạt cuối tuần hoặc các buổi
HĐNGLL….đó là cách nhanh nhất nhằm giúp các em có được kĩ năng sống để
phát triển tồn diện, trở thành con ngoan, trị giỏi, có ích cho đất nước.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân
trong quá trình tồn tại và phát triển. Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động
ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung,



5
phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên
hiệu quả lồng ghép cịn chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy bản thân tơi thấy kĩ năng sống của học sinh rất nhiều
hạn chế. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Cịn phần lớn
các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử,
cách xưng hơ chuẩn mực, chưa có các kĩ năng thích nghi, thích ứng, hợp tác.
Các em cịn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tịi cịn hạn chế.
2.1. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh:
Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện nội dung phong
trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, bản thân đã gặp
những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1.1 Thuận lợi:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ Trung ương đến địa
phương. Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với
những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh một cách chung nhất
cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện: Rèn
luyện kĩ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ
năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức
khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thơng, đuối nước và các tai nạn thương
tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hịa bình, phịng ngừa
bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học giúp GV thuận lợi cung
cấp cho các em hình ảnh, thông tin thiết thực để tăng cường giáo dục KNS qua
các bài học, mơn học.
Trong q trình theo dõi thực tế sinh hoạt và việc tham gia các hoạt động
của các em học sinh tại trường thông qua quan sát thực tế thì về cơ bản các em

học sinh đều ngoan ngỗn vâng lời thầy cơ, cha mẹ, lắng nghe và tiếp thu khá tốt
những nội dung tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện của giáo viên chủ nhiệm,
tổng phụ trách Đội, nội qui, quy định của nhà trường.
Các em tham gia khá nhiệt tình các hoạt động xã hội, từ thiện, văn hóa, văn
nghệ …Đa số các em biết vui chơi đúng cách không để xảy ra tai nạn thương
tích.
2.1.2. Khó khăn:
Đối với học sinh: Trong thực tế một số em cịn có những hạn chế nhất định
trong việc thực hiện các nội dung, biết lí thuyết nhưng khơng biết, khơng có thói
quen vận dụng thực hành. Cụ thể như hầu hết khi hỏi các em học sinh “ Để giữ


6
gìn trường lớp sạch, đẹp em phải làm gì?” thì các em đều trả lời được là “không
được vứt rác bừa bãi, vẽ bậy lên tường …” tuy nhiên thực tế các em biết nhưng
một số em vẫn không thực hành những nội dung các em đã trả lời.
Một số em ăn quà xong bỏ vỏ ni lông vào bồn hoa thay vì bỏ vào thùng rác,
một số em cịn vẽ bậy lên tường, ăn kẹo cao su nhả bã kẹo bừa bãi…. . tương tự
như vậy trong việc thực hiện Luật giao thông đường bộ, khi hỏi các em là “ Em
hãy cho biết đi bộ tham gia giao thông như thế nào là đúng?”, các em trả lời
đúng hết và rất nhanh tuy nhiên khi ra các đường các em vẫn đi theo hàng hai,
hàng ba, đùa nghịch trên đường…
Một số em đi vệ sinh bỏ giấy không đúng nơi quy định, không xả nước khi
đi vệ sinh xong …
Một số em còn mua những đồ chơi nguy hiểm để chơi mà các em không biết
được sự nguy hiểm khi chơi các trị chơi này ví dụ như súng bắn đạn cao su,
kiếm, gươm… hoặc những loại có thể gây thương tích, mất an tồn khi chơi.
Một số em cịn mua các loại bánh kẹo màu mè, khơng có nhãn mác của
Trung Quốc hoặc của những cơ sở khơng đảm bảo chất lượng. Các em chưa có
khả năng nhận biết để bảo vệ sức khỏe bản thân.

Học sinh phổ thơng nói chung và học sinh THCS nói riêng hiện nay kĩ năng
sống của các em còn rất nhiều hạn chế. Qua tìm hiểu và tiếp xúc trực tiếp với
học sinh bản thân tôi nhận thấy:
Phần lớn học sinh thiếu tự tin, rụt rè trong giao tiếp, có những vấn đề các em
biết nhưng các em không mạnh dạn trình bày ý kiến trước đơng người, có những
điều các em cịn băn khoăn nhưng khơng giám bày tỏ cùng ai.
Nhiều em chưa có kĩ năng giải quyết các vấn đề gặp phải một cách tích cực,
khơng nhận dạng được những tình huống nguy cơ có hành vi tiêu cực, gây rủi
ro.
Chưa có kĩ năng rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng phịng tránh tai nạn
giao thơng, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
Học sinh ngày càng sống thực dụng, ỉ lại và lười hoạt động.
Đối với giáo viên: Đa số giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc
giáo dục KNS cho học sinh, điều này được thể hiện rất đầy đủ trên hồ sơ, giáo án…
Nhưng do chưa được tập huấn, chưa được hướng dẫn cụ thể nên khi thực hành,
phần lớn giáo viên vẫn còn lúng túng trong việc tổ chức hoạt động các bài học có
nội dung giáo dục KNS cho học sinh. Thông qua các hoạt động giáo dục thích hợp,
giáo viên chưa tận dụng hoặc có thực hiện song không mang lại hiệu quả. Một số
giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh,
nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa hiểu đầy đủ rèn kĩ năng sống cho học


7
sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ nên khơng thể tìm ra
được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kĩ năng cho học sinh.
Trong quá trình giáo dục giáo viên phần lớn chỉ quan tâm tới việc dạy chữ
mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy làm người cho học sinh. Vì vậy việc thích
ứng với xã hội, với cuộc sống xung quanh là một vấn đề khó đới với các em.
Một số giáo viên chưa chú trọng đến kĩ năng thực hành, chủ yếu hình thành trên
lí thuyết.

Chưa lồng ghép việc giáo dục kĩ năng sống vào các bài học, các môn học
một cách triệt để.
Giáo viên TPT Đội có tổ chức các hoạt động ngoại khóa tuy nhiên việc tổ
chức các hoạt động này còn ít, trong đó việc xác định mục tiêu rèn luyện kĩ năng
sống chưa được chú trọng đúng mức.
Một số giáo viên chủ nhiệm chưa quan tâm đúng mức đến công tác chủ
nhiệm lớp, mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau vì thế
cũng coi nhẹ việc rèn các kĩ năng sống cho học sinh.
Đối với phụ huynh học sinh: Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vội
trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa học bài
hoặc chưa biết làm Tốn thì lo lắng một cách thái q! Ngồi ra, một trở ngại
nữa là phụ huynh trong lớp có một số bố mẹ thì q nng chiều, cung phụng
con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân. Ngược lại, một số phụ
huynh vì bận nhiều cơng việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động
cần thiết… Một số phụ huynh kĩ năng giao tiếp trong gia đình cịn nhiều hạn chế,
xưng hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
Nhiều học sinh phải ở nhà với ơng bà vì bố mẹ đi làm ăn xa, nên thiếu sự
quan tâm dạy dỗ của bố mẹ. Đây chính là điều kiện dễ dẫn đến các tệ nạn xã hội
xâm nhập vào các em nếu các em thiếu đi các kĩ năng sống, thiếu sự quản lí chặt
chẽ của nhà trường - gia đình - xã hội.
Để kiểm chứng thực trên tôi cũng đã tiến hành khảo sát học sinh lớp tôi chủ
nhiệm trong hai năm học.
Thời điểm khảo sát (trước khi áp dụng sáng kiến ) về khả năng vận dụng một
số KNS của học sinh THCS vào thực tế  đã thu được kết quả như sau:


8
Năm học 2017- 2018 và 2018-2019
Kết quả khảo sát về khả năng vận dụng một số kỹ năng
sống của học sinh bậc THCS (%)

 
KN
 
KN kiểm
KN giải
tự nhận
KN bảo vệ
Lớp/ Năm học
quyết vấn
KN hợp tác soát cảm
thức bản
bản thân
xúc
đề
thân
9a ( 2017-2018)
59
45,5
42
51
40
7b (2018-2019)
40
57
48
56
42,5
Trung bình chung
49,5
51,3

45
53,5
41,3
Ngồi các kĩ năng trên thì rất nhiều kĩ năng khác các em cũng còn thể hiện
rất nhiều hạn chế.
Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt ít và số học sinh có kĩ năng
chưa tốt cịn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là vấn
đề cần quan tâm.
Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn
nêu trên, trên cơ sở khảo sát nắm bắt tình hình thực tế của nhà trường trong việc
thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tôi đưa ra một số biện
pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy, phát huy hết các ưu điểm mà nhà trường đã đạt
được và khắc phục các tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện nội dung này.
2.1.2. Nguyên nhân của những thực trạng nói trên:
Hiện tượng trẻ em chưa linh hoạt khi phải xử lí những tình huống của cuộc
sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu
sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định
rằng, trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ
chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường.
Qua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận tôi thấy học sinh
chưa biết giao tiếp, chưa biết ứng xử, chưa có các kĩ năng thích nghi, thích ứng,
hợp tác, chưa biết ứng phó tự bảo vệ mình khi có tình huống xảy ra… là do sự
giáo dục của gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên
nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử lí với tình huống thực của
cuộc sống. Giáo viên và người lớn chưa thật coi trọng việc GD KNS cho các
em.
Việc rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui
chơi còn chưa được chú trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ thực
hiện giáo dục KNS cho các em chưa nhiều.
Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn

nêu trên, bản thân đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho


9
học sinh thơng qua các hoạt động ngồi giờ lên lớp nhằm đem lại hiệu quả cao
trong công tác giáo dục.
3. Nội dung Sáng kiến
3.1 .Bản chất của giải pháp mới
Trên thực tế chương trình giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập từ lâu,đã
được lồng ghép trong nhiều bộ mơn và cũng đã có nhiều chun đề, sáng kiến
nghiên cứu về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên, cho đến thời điểm
hiện nay, những đề tài nghiên cứu về việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
thơng qua HĐGDNGLL cịn ít. nên tơi đã lựa chọn nghiên cứu và đưa ra một số
biện pháp nhằm “ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THCS thơng qua hoạt
động GDNGLL” với mong muốn:
Tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu qua HĐNGLL góp phần nâng cao
sự hình thành, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, để từ đó học sinh ý thức
được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, hiểu biết về thể chất, tinh
thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và
chấp hành pháp luật… và có đủ khả năng tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết
công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những
kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
Đề tài còn mong muốn đem lại cho học sinh vốn tự tin, giúp các em có
được các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ
năng tự chăm sóc, kĩ năng phịng chống dịch bệnh Covid , kĩ năng tự bảo vệ và tự
phục vụ; kĩ năng giao tiếp; kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin…; góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục tồn diện cho học sinh nói riêng và nâng cao chất lượng
cuộc sống nói chung
3.1.1 .Nội dung biện pháp thực hiện:
a. Kỹ năng sống là gì?

Khái niệm kỹ năng sống: Các tổ chức trên thế giới đã đưa ra rất nhiều quan
niệm về kĩ năng sống:
* Theo UNESCO: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ
các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng sống bao gồm
một loạt các kỹ năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người.
Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản bản thân và kỹ năng xã hội cần
thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
*Theo Tổ chức y tế thế giới ( WHO): Kỹ năng sống là các khả năng để có
hành vi thích ứng và tích cực giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các
nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày.


10
*Theo UNICEF: Kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình
thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến
thức, hình thành thái độ và phát triển kỹ năng. Cách tiếp cận này nhấn mạnh
việc luyện tập thường xuyên, lặp đi lặp lại để củng cố.
*Kết luận:
- Kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng
xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống. Một kỹ năng có thể có những tên gọi khác
nhau: Kỹ năng hợp tác cịn gọi là kỹ năng làm việc nhóm; Kỹ năng kiểm sốt
cảm xúc cịn gọi là kỹ năng xử lí cảm xúc, kỹ năng làm chủ cảm xúc, kỹ năng
quản lí cảm xúc; Kỹ năng thương lượng cịn gọi là kỹ năng đàm phán, kỹ năng
thương thuyết…
- Các kỹ năng thường khơng tách rời mà có mối liên quan chặt chẽ với nhau.
Kỹ năng khơng phải tự nhiên có được mà phải được hình thành trong quá trình
học tâp, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành kỹ năng
sớng diễn ra trong và ngồi hệ thống giáo dục. Kỹ năng sớng vừa mang tính chất
cá nhân vừa mang tính xã hội. Kỹ năng sớng mang tính cá nhân vì đó là khả

năng của cá nhân. Kỹ năng sớng mang tính xã hội vì kỹ năng sớng phụ thuộc
vào các giai đoạn phát triển lịch sử xã hội, chịu ảnh hưởng của truyền thống và
văn hóa của giai đình, cộng đồng, dân tộc.
- Nợi dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS hiện nay là những
kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc
sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng
cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kỹ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết
mà chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra
hằng ngày trong cuộc sống.
b. Phân loại kỹ năng sống:
Kỹ năng sống được chia thành 2 loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao.
*Kỹ năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng,
chạy, nhảy v.v…
*Kỹ năng nâng cao: Là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới
một dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: Các kỹ năng tư duy logic, sáng tạo, suy
nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi v.v…
Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS là trang bị cho các em
những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành
cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành
vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng


11
ngày; Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình
và phát triển tồn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Theo đó, chúng
ta cần tập trung rèn luyện cho các em 2 nhóm kỹ năng sống sau đây:
+ Nhóm kỹ năng giao tiếp – hịa nhập cuộc sống.
+ Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động – vui chơi giải trí.
3.1.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh THCS

a. Nhận thức sâu sắc về việc dạy HS kỹ năng sống:
- Kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ
và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây
dựng. Rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp học sinh nhanh chóng hồ nhập và khẳng
định vị trí của mình trong tập thể, mà xa hơn là một cộng đồng, xã hội. Chính vì
vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết. Việc hình thành
các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết định đến quá trình
hình thành và phát triển nhân cách sau này của các em. Khi xảy ra vấn đề nào
đó, nếu khơng được trang bị kỹ năng sống, các em sẽ không đủ kiến thức để xử
lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp học sinh sớm
có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh
cho chính mình cũng như xã hội.
- Hiện nay, do áp lực công việc của giáo viên quá nhiều do: Hồ sơ giáo án,
dự giờ kiểm tra, các phong trào thi đua… chiếm nhiều thời gian công việc q
lớn. Nhưng chúng ta đã khơng vì áp lực cơng việc mà thiếu đi quan tâm giáo dục
chuẩn mực, vì điều đó sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến các em…Vì vậy, bên cạnh
việc dạy kiến thức còn cần phải quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho
các em.
b. Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy cho học sinh THCS:
Học sinh THCS ( từ 12-16 tuổi) là lứa tuổi có nhiều thay đổi mạnh mẽ về thể
chất, sức khỏe và tâm sinh lý. Tuổi dậy thì các em dễ thay đổi tình cảm, hành vi,
chóng vui chóng buồn. Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống cho các em trong giai
đoạn này vô cùng quan trọng và cấp thiết .Việc xác định được các kỹ năng cơ
bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng
tâm để trang bị cho các em những kỹ năng cần thiết nhất trong giai đoạn chuyến
tiếp này.
- Đối với học sinh lớp 6, việc chuyển tiếp từ trường tiểu học lên THCS được
coi là bước ngoặt trong cuộc đời các em. Đây là giai đoạn khó khăn nhất với các
em do thay đổi mơi trường cũng như u cầu học tập. Vì vậy người giáo viên
cần phải quan tâm, động viên và thấu hiểu các em; biết cách tơn trọng tính độc



12
lập và quyền bình đẳng của các em, cần gương mẫu, khéo léo trong mọi vấn đề.
Thầy cô cần nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống
cho các em và phải xác định được những kỹ năng sống cần thiết để giáo dục trẻ
trong giai đoạn này và những năm phát triển tiếp theo.
c. Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy
cho học sinh THCS:
Học sinh THCS các em làm quen với môi trường học tập . Nhưng với ý thức
muốn làm người lớn, muốn khẳng định mình, tơi ln động viên, dìu dắt quan
tâm giúp đỡ các em, giáo dục các em những kỹ năng sống cần trang bị cho lứa
tuổi thiếu niên. Vào đầu năm học, tôi hướng dẫn cho các em việc học tập ở nhà
như thế nào, trao đổi phụ huynh nên theo dõi, động viên các em vì nội dung học
ở trung học cơ sở ngày càng khó. Cha mẹ nên quan tâm tới con trong việc học
tập, tránh tối đa việc xỉ vả, mắng nhiếc khi con khơng hồn thành u cầu của
thầy cơ và của bố mẹ vì ở tuổi này, các em rất dễ tự ái.
+ Gắn với các hoạt động học tập như: Những người yêu thích văn học, tham
gia các chun đề như An tồn giao thông, em yêu biển đảo Việt Nam , thi tìm
hiểu theo chủ đề ,….
+ Gắn với các hoạt động giáo dục thể chất như: Bóng đá, kéo co , nhảy bao
bố, đá cầu ,cầu lơng, trị chơi dân gian,…
+ Gắn với các hoạt động giáo dục thẩm mĩ như: hát múa, hát ,vẽ theo chủ đề,
kịch, báo tường, làm lồng đèn …..
Thứ nhất : Giáo dục kỹ năng sống hiệu quả qua các buổi sinh hoạt 15
phút đầu giờ.
Để rèn kỹ năng sống có hiệu quả cịn vận dụng thơng qua các hoạt động
giáo dục ngồi giờ lên lớp như: Tiết chào cờ đầu tuần, sinh hoạt tập thể; hoạt
động giáo dục theo chủ điểm, tham quan, du lịch…Qua các buổi ngoại khóa của
trường, lớp, giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng

ngày của các em. Vì đối với học sinh THCS trị chơi có một vai trị rất quan
trọng trong việc rèn kỹ năng sống cho các em. Các em lớn lên, học hành và
khám phá thơng qua trị chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ,
giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng.
Lồng ghép chương trình giáo dục kỹ năng sống trong những buổi sinh
hoạt 15 phút đầu giờ. Đây là giải pháp quan trọng. Trong suốt năm học, GVCN
là người thường xuyên bám lớp trong những giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Vì
vậy việc lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh là việc làm bổ ích, tránh được


13
những buổi sinh hoạt nhàm chán, lặp đi , lặp lại, mà lại gây được hứng thú cho
HS trong những buổi sinh hoạt 15 phút, đồng thời, giáo dục được KNS cho HS.
Trong buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ thời gian ít. Vì thế, GVCN có thể áp dụng
các phương pháp giáo dục KNS như; động não, nghiên cứu tình huống, hoặc tổ
chức những trị chơi (có thời gian ngắn.)
+ Phương pháp hoạt động nhóm:
Tổ chức tốt phương pháp này, GVCN sẽ tạo cơ hội cho HS tự tin, thoải mái
chia sẻ sự hiểu biết của mình với người khác. Đồng thời, tiếp nhận sự phê phán,
góp ý của bạn, giúp cho sự hiểu biết của HS trở nên sâu sắc hơn, toàn diện hơn
giúp cho buổi sinh hoạt trở nên sôi nổi, hứng thú. Tuy nhiên phương pháp này sẽ
gây ra sự ồn ào, mất trật tự cho các lớp bên cạnh, đặc biệt dễ gây sự nhàm chán
cho một số HS. Do đó yêu cầu, GVCN phải làm tốt những việc sau:
- Phải tạo ra một không khí thảo luận cởi mở, tơn trọng lẫn nhau giữa HS với
nhau.
- Vấn đề được đưa ra để HS thảo luận phải phù hợp với lứa tuổi, phải khơi
gợi được khả năng tư duy phê phán, khả năng sáng tạo của HS.
Ví dụ1:
Khi giáo dục kỹ năng “tự nhận thức giá trị bản thân”. GVCN cho HS tiến
hành các hoạt động nhóm trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ

Hoạt động : Chia sẻ về tự nhận thức bản thân GV phát các tờ rơi in sẵn câu
hỏi:
- Sở thích của em là gì ?(đọc báo, xem TV, xem bóng đá )
- Cuốn truyện/ sách, chương trình TV mà em thích nhất ?
- Điểm mạnh và năng khiếu của em là gì ?
- Ai là người bạn thân nhất của mình ? Người đó như thế nào ?Có đặc điểm
gì nổi bật ?
- Em muốn làm nghề gì trong tương lai ?
GV chia lớp thành những nhóm nhỏ gồm có 4 người mỗi em tự suy nghĩ và
điền vào tờ rơi trong vịng 5 phút, sau đó chia sẻ với những bạn trong nhóm
mình. Tiếp theo GVCN cho đại diện các nhóm trình bày những quan điểm
chung của các thành viên trong nhóm mình, chia sẻ với các nhóm khác ?
Ví dụ 2: Khi giáo dục kỹ năng kiên định, kĩ năng phòng chống dịch bệnh
trong các buổi sinh hoạt cuối tuần GVCN cho HS tiến hành hoạt động: Tranh
luận đơi bên. GVCN chia lớp thành hai nhóm:


14
Nội dung tranh luận : Hiện nay đại dịch Covid đã và đang diễn biến hết sức
phức tạp đã có hàng chục ngàn người tử vong vì Covid. Trước tình hình đó
Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực hết sức trong việc ngoại giao Vaccine với mong
muốn bao phủ Vaccine tạo miễn dịch cộng đồng, hạn chế tối đa số người tử
vong vì Covid. Thế nhưng có một bộ phận không nhỏ người dân không chịu
tiêm Vaccine dù đã được tuyên truyền vận động nhất là một số người dân địa
phương nghe lời của mục sư không đi Test nhanh phát hiện khi có triệu chứng
và sợ tiêm Vaccine khơng an tồn …
Vậy theo các em chúng ta có nên tiêm Vaccine phịng Covid 19 khơng? Vì
sao?
Học sinh phân thành hai nhóm ý kiến phản biện: Nhóm ủng hộ tiêm Vaccine
và nhóm vẫn bảo vệ lí lẽ khơng tiêm Vaccine vì sợ biến chứng …..

Để hai nhóm chuẩn bị lý lẽ trong vịng 10 phút. Sau đó cho hai nhóm tranh
luận, chất vấn. Sau khi HS tranh luận xong GVCN hướng dẫn HS đi đến thống
nhất ý kiến Là “nên” hoặc “khơng nên”. Nếu khơng nên thì sẽ dẫn đến hậu quả
gì? GVCN cung cấp cho HS các bước để hình thành kỹ năng kiên định. Tầm
quan trọng của kỹ năng kiên định đối với HS.

Hs lớp 9b tham gia trò chơi ai nhanh hơn
Thứ hai :Giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định
+ Phương pháp phân tích tình huống:
Áp dụng phương pháp này GVCN sẽ huy động khả năng động não, khả năng
tư duy, khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định của HS, lôi kéo các em vào


15
những tình huống có thực và bắt buộc các em phải giải quyết. Tuy nhiên để
thành công khi áp dụng phương pháp này GVCN phải đưa ra những tình huống
sát thực với cuộc sống của các em, đang đựơc các em quan tâm và suy nghĩ, các
em phải quyết định. Tất nhiên đó phải là tình huống giáo dục, để đem lại kết quả
giáo dục.
Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, kỹ năng học
tập và định hướng nghề nghiệp. GVCN ra tình huống cho HS.
Giả sử em học tốt cả hai môn Tiếng Anh và môn Ngữ văn nhưng em rất
muốn tham gia ơn thi HSG mơn Tiếng Anh, cịn bố mẹ muốn em tham gia ôn thi
HSG môn Ngữ văn. Em sẽ xử lí như thế nào? Tại sao em quyết định như vậy?
GVCN chia lớp thành bốn nhóm, cho các em trao đổi, tranh luận với nhau
trong vòng 5 phút. Sau đó, cử đại diện các tổ đưa ra ý kiến tranh luận của mình
trong vịng 10 phút. GVCN tổng kết và đưa ra nhận xét, hướng dẫn HS trong
cách chọn môn thi HSG phải căn cứ vào các yếu tố: Năng lực, sở trường của
mình, nhu cầu và sự phát triển của xã hội.


Hoc sinh lớp 7b trao đổi để tìm ra cách giải quyết tình huống

Thứ ba: Giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân
Kỹ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình,
 như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh


16
 giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,…
của bản thân mình; quan tâm và ln ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận
ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một kỹ năng sống rất cơ bản của con người, là nền tảng
để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để
có thể cảm thơng được với người khác. Ngồi ra, có hiểu đúng về mình, con
người mới có thể cớ những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp
với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại,
đánh giá khơng đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai
lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.Để tự nhận thức
đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với
người khác.
Phương pháp trò chơi :Phương pháp này mang lại cho HS khả năng giao
tiếp, khả năng quyết định lưạ chọn, kỹ năng nhận xét đánh giá .Tạo khơng khí
vui vẻ, sơi động trong buổi sinh hoạt. Tuy nhiên, phương pháp này dễ gây sự
lộn xộn trong lớp, gây ồn ào cho các lớp bên cạnh. Do vậy, GVCN phải chuẩn bị
được những trị chơi có nội dung phù hợp với thời gian ngắn, hấp dẫn, ít gây sự
xáo trộn trong tổ chức lớp.
*Ví dụ: Trị chơi Ai nhanh hơn:
Khi giáo dục kỹ năng tự nhận thức, tôi chia lớp thành 2 đội, chia bảng làm
hai phần: cho HS trình bày ý kiến của mình.
Điều gì trong cuộc sống hiện tại khiến em sợ nhất? Vì sao em lại sợ?

GVCN chọn người đầu tiên lên trình bày, sau đó mang phấn về trao cho
người bạn mà mình u thích. Thời gian hết, học sinh được lên trình bày,có
nhiều ý hay sẽ chiến thắng GVCN và cả lớp tuyên dương. Từ những ý kiến của
học sinh, GVCN nhận xét, góp ý, chấn chỉnh, định hướng để học sinh biết cách
nhận thức đúng đắn.


17

.
HS lớp 9b tham gia trò chơi ai nhanh hơn
Thứ tư : Giáo dục kỹ năng ứng phó với căng thẳng
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng
đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc sống,
là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng
thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng
thẳng.
Chúng ta cũng có thể hạn chế những tình huống căng thẳng bằng cách sống
và làm việc điều dộ, có kế hoạch, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao, sống
vui vẻ, chan hịa, tránh gây mâu thuẫn khơng cần thiết với mọi người xunh
quanh, không đặt ra cho mình những mục tiêu quá cao so với điều kiện và khả
năng của bản thân,…
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng có được nhờ sự kết hợp của các kỹ năng
sống khác như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng xử lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp,
tư duy sáng tạo, kỹ năng tìm kiếm sự giúp đỡ và kỹ năng giải quyết vấn đề.
* Ví dụ: Khi tìm hiểu kĩ năng làm chủ bản thân, GVCN ra vấn đề cần giải
quyết:
Tác hại của căng thẳng tới sức khỏe cũng như chất lượng học tập.
Em làm gì để giảm bớt căng thẳng?
Theo em các việc lành mạnh để thư giãn là việc gì?

Học sinh cùng trao đổi, sau đó mỗi người trong tổ ghi ý kiến ra giấy. Các
tổ trao bài cho nhau để góp ý, chấm điểm.Tổ trưởng trình bày trước lớp phần
nhận xét kết quả trao đổi của tổ khác GV nhận xét, góp ý, tuyên dương và giáo
dục kĩ năng làm chủ bản thân:
- Tác hại của căng thẳng tới sức khỏe cũng như chất lượng học tập: mất cân
bằng cảm xúc,không thể tập trung vào học tập, đau đầu , mệt mỏi, tinh thần kém


18
minh mẫn, chất lượng học tập không cao,hay cáu gắt, khó chịu với người xung
quanh, sức khỏe kém, suy nghĩ tiêu cực, bi quan, khó ngủ..
- Các việc lành mạnh để thư giãn:
Đi bộ
Dành nhiều thời gian tiếp xúc với thiên nhiên
Chơi thể thao
Viết nhật kí
Tắm và ngâm mình trong nước ấm lâu hơn
Chơi với con vật cưng.
Nghe nhạc
Xem một bộ phim hài
Đọc sách
Ngủ đủ giấc
Làm điều mình thích mỗi ngày
Thứ năm: Giáo dục kĩ năng kiểm soát cảm xúc
Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình
trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản
thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện
cảm xúc một các phù hợp. Kỹ năng xử lý cảm xúc cịn có nhiều tên gọi khác
như: Xử lý cảm xúc, kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc.
Một người biết kiểm sốt cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp

giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa
và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn.
Kỹ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng
ứng xử với người khác và kỹ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần
củng cố các kỹ năng này.
*Ví dụ: Trị chơi tiếp sức: Khi giáo dục kĩ năng làm chủ cảm xúc, chia
bảng làm hai phần:
Khi nào bạn cảm thấy tức giận nhất ?Bạn làm gì để bớt tức giận?
Mỗi đội GVCN chọn người đầu tiên lên trình bày, sau đó mang phấn về trao
cho người bạn mà mình yêu thương. Thời gian hết, đội nào có nhiều ý hay sẽ là
đội chiến thắng. GVCN và cả lớp tuyên dương. Từ những ý kiến của học sinh ,
GVCN nhận xét, góp ý, chấn chỉnh, định hướng để học sinh biết cách nhận thức
đúng đắn.
Thứ sáu: Lồng ghép các kĩ năng sống thông qua các hoạt động xã hội,
đền ơn đáp nghĩa.


19
Truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn”,“ Lá lành đùm lá rách” …. Là những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện tốt hoạt động này góp phần giáo
dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, trách nhiệm của các
em trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời hình thành nhân
cách cho các em. Qua đó các em ý thức hơn về vai trò trách nhiệm trong việc
thực hiện các hoạt động xã hội, đồng thời qua hoạt động này rèn luyện cho các
em kỹ năng đồng cảm, chia sẻ.
Phát động phong trào xây dựng quỹ Đội nhằm giáo dục được ý thức tiết
kiệm cho học sinh.: Trước đây xây dựng bằng hình thức nộp tiền nay thay bằng
việc qun góp giấy vụn, vỏ lon bia, lon nước ngọt, ….
Vào những ngày kỷ niệm như thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12,
thương binh liệt sĩ 27/7 …để nhớ ơn công lao của các anh hùng liệt sĩ, những thế

hệ cha anh đi trước tổng phụ trách đội tuyên truyền ý nghĩa các ngày này dưới
cờ, giáo viên chủ nhiệm tuyên truyền trong sinh tiết sinh hoạt ngoài giờ lên lớp
….. Nếu có điều kiện sau khi tun truyền thì trường tổ chức cho một số lớp tới
thăm gia đình thương binh liệt sĩ, mẹ Việt Nam anh hùng trong xã. Qua cách tổ
chức này thì đã phối hợp giữa giáo dục qua tuyên truyền với việc các em có
hành động thực tế để thể hiện lòng biết ơn của mình với các thế hệ cha anh đi
trước.
Để tổ chức tốt hoạt động GDKNS qua các hoạt động xã hội, đền ơn đáp
nghĩa cho học sinh thì phải phối hợp chặt chẽ giữa công tác tuyên truyền vận
động kết hợp với hành động thực tế.
Thứ bảy : Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp, tổ chức hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí nhằm hình thành
kỹ năng sống cho học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh. Đối với trường dạy hai buổi/ngày thì vai trị của
giáo viên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em càng quan trọng hơn vì
phần lớn thời gian trong ngày là các em ở trường, tiếp xúc trực tiếp với giáo viên
chủ nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm sau khi nhận lớp phải tạo sự gần gũi và gắn kết giữa
giáo viên và học sinh. Động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về
những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của tôi với các em. Đây
là hoạt động giúp giáo viên, học sinh hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi
trường học tập thân thiện - Nơi "Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai
của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là
một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học



×