Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực trạng phát triển khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.24 KB, 16 trang )

Khoa học và công nghệ
I. Thực trạng phát triển khoa học và công nghệ
Cùng với những chuyển biến và phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM theo đường lối
"đổi mới", đặc biệt là từ sau Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về "Khoa học và công nghệ
trong sự nghiệp đổi mới" và Nghị quyết VII Ban chấp hành TW về CNH và HĐH đất
nước, hoạt động khoa học và công nghệ (KH - CgN) đã có những đóng góp thiết thực
trong việc đạt được những thành tựu tăng trưởng của các ngành kinh tế - xã hội thời gian
qua, cũng như tạo được một số tiền đề khoa học và công nghệ cho sự phát triển kinh tế - xã
hội trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, những kết quả đạt được mới chỉ là những chuyển biến
bước đầu. Nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội trong các giai đoạn kế tiếp
đã và đang đặt ra hàng loạt các nhu cầu cấp bách và ngày càng gay gắt đối với sự phát triển
của KH và CgN. Vì thế, những đánh giá tổng quát dưới đây xuất phát từ hai giác độ: một
là, những nhu cầu của CNH và HĐH trong giai đoạn quy hoạch và hai là, các khả năng và
nỗ lực có thể huy động được trong điều kiện của nền kinh tế mở, nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
1. Hiện trạng trình độ công nghệ và tình hình đổi mới công nghệ thuộc các ngành sản xuất
- dịch vụ chủ yếu
1.1. Theo đánh giá của các ngành hữu quan, nhìn chung, trình độ công nghệ của hầu hết
các cơ sở sản xuất, dịch vụ của TP cho tới nay vẫn còn ở mức lạc hậu (hữu hình và vô
hình). Kết quả điều tra tại gần 900 cơ sở cho thấy tỷ lệ các máy móc thiết bị chính đang sử
dụng có trình độ công nghệ trung bình và lạc hậu chiếm tới trên 91% (ngay tại 19 xí nghiệp
liên doanh với nước ngoài được điều tra, chỉ tiêu này cũng ở mức trên 55%).
Trong khu vực ngoài quốc doanh, việc đầu tư mua sắm thiết bị máy móc và dây chuyền
sản xuất có chất lượng và mức độ tiên tiến hơn, phần lớn còn mới, tỷ lệ còn lại của tài sản
cố định khoảng 90% (công ty cổ phần 87%, công ty TNHH 90%, DNTN 91,5%). Trong
các cơ sở TTCN, máy móc thiết bị hầu như không được đổi mới bao nhiêu, thường dùng
máy cũ mua lại hoặc máy tự trang tự chế.
- CN dệt - sợi: khâu công nghệ kéo sợi, dệt thoi dệt kim, dệt khăn bông đạt mức trung bình
khá của thế giới (70 - 75%). Riêng công nghệ dệt len, dệt chăn, dệt vải màn còn ở mức
thấp của thế giới (50 - 55%). Về thiết bị, đa phần sử dụng thiết bị cũ đã lạc hậu (số cọc sợi
hoạt động trên 25 năm chiếm 30%, thiết bị dệt thoi 95% thuộc loại thế hệ I, II).


- CN giấy: công nghệ sản xuất giấy chỉ đạt ở mức trung bình của thế giới (60 - 65%).
Riêng công nghệ sản xuất giấy bao bì, giấy trắng phấn, đạt ở mức thấp (50%) so với thế
giới.
- CN may: hệ thống thiết bị của ngành may hầu hết là của Nhật và Đức thuộc thế hệ thứ II.
- CN da giày: chủ yếu là thiết bị của Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ chỉ ở mức trung bình của
thế giới (50%).
- CN nhựa: chủ yếu là gia công, nguyên liệu nhựa nhập 100%. Trong những năm gần đây
thiết bị đổi mới, chủ yếu là thiết bị của Cộng hòa Liên bang Đức, Ý, Nhật, Đài Loan, Hàn
Quốc... thuộc thế hệ II và đầu thế hệ III. Chất lượng sản phẩm tương đương 70 - 80% so
với thế giới.
- CN sữa - bánh kẹo: tuổi thọ trung bình của thiết bị trên 20 năm, thuộc thế hệ I và II. Chất
lượng sản phẩm đạt 70 - 80% so với các nước trong khu vực.
- CN chế biến lương thực - thực phẩm, máy móc thiết bị khá cũ, đã thay thế nhiều lần nên
rất chắp vá. Tuổi thọ trung bình của thiết bị gần 12 năm. Nhiều thiết bị đã lâu không được
thay thế.
- CN cơ khí: dù có một số sản phẩm xuất khẩu, nhưng yếu kém lâu nay của CN cơ khí TP
vẫn tồn tại nguyên vẹn. Đó là trình độ nhiệt luyện yếu kém, máy móc cũ kỹ lạc hậu, công
nghệ tạo phôi lạc hậu.
- CN in: tốc độ đầu tư thiết bị mới tăng nhanh từ năm 1990 đến nay và đã tạo được bước
tiến bộ mới. Hầu hết các xí nghiệp đều đã trang bị hệ thống chế bản điện tử. Thiết bị mới
đầu tư đều thuộc loại tương đối hiện đại nên hiện nay ngành in TP có thể nhận các hợp
đồng in xuất khẩu.
- CN kỹ thuật điện - điện tử: đã có những tiến bộ đáng kể trong đổi mới công nghệ và thiết
bị nên sản phẩm được người tiêu dùng tín nhiệm như dây cáp điện, ti vi, quạt điện...
- Xây dựng: đã có nhiều tiến bộ trong công nghệ khảo sát, thiết kế, thi công, nhưng trình
độ trang bị vẫn còn ở mức trung bình 65,2%, quá lạc hậu 33%.
- Vận tải - bưu điện: là những ngành được quan tâm đầu tư, trang bị, đổi mới công nghệ.
Tuy vậy, trình độ trang, thiết bị hiện nay cũng mới chỉ đạt mức: 8% hiện đại, 54% trung
bình, 32% lạc hậu.
1.2. Trong điều kiện của cơ chế thị trường, nhiều cơ sở sản xuất - dịch vụ đã quan tâm và

đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị, sản xuất mặt hàng mới, tăng năng lực sản xuất các
mặt hàng có chất lượng đáp ứng nhu cầu cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất
khẩu. Tỷ trọng hàng CN xuất khẩu tăng từ 20,4% năm 1991 lên trên 48,4% năm 1995.
Nhiều sản phẩm CN đã thay thế hàng ngoại nhập, được thị trường tín nhiệm (dệt, nhựa,
điện tử, may mặc, chế biến lương thực - thực phẩm, in...). Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã
chuyển đổi từng bước theo hướng sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao (sữa bò, thịt,
trứng, gia cầm, rau quả tươi, thủy sản nuôi tại các thủy vực...).
Tuy nhiên, mức độ đổi mới công nghệ vẫn còn ở mức 10%/năm (chưa đáp ứng được yêu
cầu tăng trưởng và phát triển). Trong 40 mặt hàng chủ yếu của CN TP, hầu hết vẫn là hàng
tiêu dùng. Trên 80% nguyên liệu của các cơ sở sản xuất vẫn còn phải nhập khẩu.
Trong các ngành CN, có khoảng 70% số cơ sở tiến hành đổi mới công nghệ (chủ yếu đổi
mới từng bộ phận, từng khâu công nghệ), với mức đầu tư trung bình 3 tỷ đồng cho một cơ
sở (thấp nhất 1,5 - 2,0 tỷ đồng trong ngành nhựa, cao su, hóa dược; cao nhất 5 -10 tỷ đồng
trong ngành dệt - nhuộm, điện - điện tử, thuốc lá...).
Trong các ngành xây dựng, vận tải - bưu điện, nông - lâm - ngư nghiệp, dịch vụ... có
khoảng 60% số cơ sở tiến hành đổi mới trang thiết bị, với mức đầu tư trung bình cho một
cơ sở: nông - lâm - ngư nghiệp: 600 triệu đồng, xây dựng: 1 tỷ đồng, vận tải - bưu điện: 10
tỷ đồng...
1.3. Trước nhu cầu đổi mới cơ chế kinh tế, nhu cầu của sản xuất và đời sống, hoạt động
nghiên cứu - triển khai KH - CgN trên địa bàn TP cũng đã có những chuyển biến và thành
tựu bước đầu đáng quan tâm.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã tập trung điều tra, nghiên cứu nhiều vấn đề,
hiện tượng kinh tế - xã hội của TP, xây dựng các cơ sở, luận cứ khoa học và thực tiễn cho
việc xây dựng chiến lược quy hoạch và kế hoạch tăng trưởng và phát triển ổn định, cho
việc đổi mới cơ chế và tổ chức quản lý kinh tế, quản lý xã hội nhằm thực hiện đường lối
đổi mới, các chủ trương của lãnh đạo TP ngày càng có hiệu quả.
Trong lĩnh vực sản xuất CN, đã nghiên cứu đổi mới, nắm vững và cải tiến, thích ứng công
nghệ, thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo sản phẩm mới cho nhiều ngành, góp
phần thiết thực vào việc tăng cường năng lực sản xuất, giảm tiêu hao nguyên - nhiên - vật
liệu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa trên thị trường trong nước và

thế giới.
Trong lĩnh vực sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp đã đạt nhiều thành tựu trong nghiên cứu,
tổ chức áp dụng qui mô lớn những giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, các giải
pháp thâm canh trên cơ sở kỹ thuật mới và công nghệ sinh học, tạo được các tiền đề khoa
học và công nghệ làm cơ sở cho việc thay đổi cơ bản cơ cấu cây trồng vật nuôi cho thời
gian tới.
Trong một số lĩnh vực khoa học - công nghệ hiện đại có ý nghĩa quyết định tới sự phát
triển trong đầu thế kỷ 21 như công nghệ tin học, chế tạo và sử dụng vật liệu mới, sử dụng
các nguồn năng lượng mới, lực lượng khoa học và kỹ thuật của TP đã chứng tỏ có khả
năng nhanh chóng tiếp thu làm chủ một số công nghệ ngoại nhập trong điều kiện thực tiễn,
đáng lưu ý là việc áp dụng tin học và điện tử trong bưu chính - viễn thông, trong sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ; nghiên cứu triển khai việc áp dụng vật liệu compozite tạo ra hàng
trăm loại sản phẩm có khả năng áp dụng rộng rãi trong vận tải thủy, trong các công trình
thủy lợi, xây dựng và quốc phòng; việc áp dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió cũng
đạt được các kết quả thiết thực bước đầu ở quy mô nhỏ...
2. Thực trạng xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học trên địa bàn TP và quản lý khoa
học và công nghệ
2.1. Về cán bộ KH - CgN:
Hiện nay tại TP có khoảng 100.000 cán bộ có trình độ đại học trở lên (chiếm 14,3% tổng
số cả nước), trong đó số cán bộ có trình độ tiến sĩ, phó tiến sĩ và thạc sĩ khoảng trên 800
người (chiếm 10% tổng số cả nước). Trong đó, số cán bộ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên
- 20%, khoa học kỹ thuật - 22%, y dược - 9%, khoa học xã hội - 44%. Số cán bộ do TP
quản lý chiếm khoảng 60% (chủ yếu là cán bộ có trình độ đại học, số có trình độ trên đại
học - TP chỉ quản lý khoảng 5%). Số cán bộ trình độ trung học chuyên nghiệp gần 90.000
người, công nhân kỹ thuật khoảng 150.000 người.
Trong 5 năm từ 1990 đến 1994, CN trên địa bàn TP thu hút khoảng 100.000 - 110.000 lao
động (bình quân 22.000 - 23.000 lao động/năm). Riêng ngành may, 5 năm qua đã thu hút
24.545 người (chiếm khoảng 22 - 23% số lao động CN tăng thêm). Điều đáng lưu ý là
nhiều công nhân trong ngành may từ các nơi khác đến TP làm việc. Số lao động ở các
ngành khác tăng lên không đáng kể, thậm chí lao động ở một số ngành còn giảm (dệt, sản

xuất hóa chất, vật liệu xây dựng, sản xuất kim loại...). Chất lượng lao động trong các cơ sở
CN ngày càng được nâng cao. Do được đầu tư trang bị mới nên nhiều công nhân đã sử
dụng thành thạo các máy móc hiện đại. Trình độ cán bộ quản lý cũng được nâng lên một
bước. Theo số liệu điều tra gần đây của Bộ Công nghiệp nhẹ, tỷ trọng cán bộ, công nhân
được đào tạo đã tăng lên rõ rệt, tuy vậy số công nhân lành nghề (4/7) được đào tạo cũng
chỉ mới chiếm trung bình khoảng 30%.
Khảo sát một số đơn vị ngoài quốc doanh cho thấy 58,9% lao động chưa qua đào tạo,
khoảng 27% là công nhân kỹ thuật và 6,5% có trình độ đại học. Hầu hết giám đốc các cơ
sở CN ngoài quốc doanh ở độ tuổi 50, số dưới 40 tuổi chiếm 52,8%, dưới 31 tuổi chiếm
12,3%. Còn 32% giám đốc các cơ sở CN ngoài quốc doanh chưa có bằng cấp chuyên môn,
nghiệp vụ. Phần lớn giám đốc các công ty TNHH, DNTN chưa được huấn luyện về quản
trị kinh doanh. Đây là một trong những vấn đề cần lưu tâm.
Tuy điều kiện làm việc còn gặp nhiều khó khăn, nhưng đội ngũ này đã có nhiều đóng góp
tích cực trong các hoạt động KH - CgN phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
TP.
Trước các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong quy hoạch, điều có thể nhận thấy là sự bất cập về
số lượng cũng như cơ cấu, chất lượng của đội ngũ này (TP mới có khoảng 20.000 cán bộ
đại học/1 triệu dân, trong khi Hàn Quốc - 53.000, Nhật 71.000...). Một điều đáng lưu ý là
tỷ lệ cán bộ khoa học kỹ thuật làm việc trong các ngành sản xuất CN chỉ chiếm 18,7%,
trong nghiên cứu triển khai chiếm 12%. Mặt khác, số cán bộ có độ tuổi trên 50 có trình độ
đại học và trên đại học chiếm khá cao: 63% tiến sĩ, 32% phó tiến sĩ và 20% đại học.
2.2. Các cơ quan nghiên cứu - triển khai:
Trên địa bàn TP có 35 cơ quan nghiên cứu - triển khai KH - CgN (các Viện, Trung tâm),
trong đó trên 30 cơ quan trực thuộc các Bộ, ngành TW (trong tổng số 200 cơ quan của cả
nước, số các cơ quan trên địa bàn Hà Nội là 160). Cùng với các cơ quan này, các trường
đại học và đào tạo chuyên nghiệp (25 trường và phân hiệu), các trung tâm phân tích, thực
nghiệm, các cơ sở y tế cũng tham gia các hoạt động nghiên cứu, triển khai thúc đẩy áp
dụng kỹ thuật tiến bộ và có đóng góp đáng lưu ý. Mức độ đầu tư bình quân cho 1 cán bộ
nghiên cứu (bao gồm đầu tư trang thiết bị và chi phí cho đề tài nghiên cứu - triển khai),
theo đánh giá của Bộ Khoa học - Công nghệ - Môi trường là quá thấp so với các yêu cầu

của những nhiệm vụ được đặt ra.
2.3. Các hoạt động thông tin KH - CgN, quản lý tiêu chuẩn đo lường và kiểm định chất
lượng sản phẩm hàng hóa, sở hữu CN tuy còn nhiều hạn chế, nhưng đã hình thành các hệ
thống hoạt động, đã có những chuyển biến và đóng góp nhất định nhằm đáp ứng những
yêu cầu mới đối với từng lĩnh vực tương ứng trong nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần.
II. Dự báo xu thế phát triển khoa học và công nghệ theo Các định hướng phát triển
kinh tế - xã hội của TP.HCM
Thời kỳ 1996 - 2010 là khoảng thời gian trong đó nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của
KH - CgN. Trong vài năm gần đây với việc hàng năm có hàng loạt các sản phẩm hàng hóa
thế hệ công nghệ mới được đưa vào sản xuất và tiêu thụ rộng rãi trên thị trường thế giới,
kèm theo đó là việc thay đổi và loại thải hàng loạt các công nghệ cũ, đã và đang chứng tỏ
những chuyển biến cách mạng trong KH - CgN diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Những
chuyển biến này, một mặt là kết quả của sự phát triển KH - CgN trong 20 - 30 năm vừa
qua, mặt khác, đáp ứng được những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và xã hội trong một
thời đại văn minh mới - nền văn minh hậu CN: năng suất lao động, hiệu quả kinh tế cao,
tiết kiệm nguyên - nhiên - vật liệu (công nghệ ít hoặc không phế thải), sử dụng các nguồn
tài nguyên tái tạo và bảo vệ, cải thiện môi trường sống, thỏa mãn các nhu cầu cao cả về vật
chất lẫn tinh thần của con người.
Những định hướng phát triển chủ yếu có thể nhìn thấy là:
Công nghệ thông tin liên kết giữa tin học và viễn thông dựa trên nền tảng của vi điện tử với
việc tạo ra xa lộ thông tin toàn cầu và các hệ thống đối thoại người - máy; vi điện tử và các
hệ thống máy tính thế hệ thứ 5 sẽ là nền tảng của công nghệ tự động hóa đưa năng suất và
đặc biệt là chất lượng sản phẩm, chất lượng của nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, lên một
bước phát triển mới.
Công nghệ sinh học trên nền tảng của kỹ thuật gen, tế bào, không những tạo nên những
tiềm năng mới đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm toàn cầu, mà còn mở ra những khả
năng to lớn trong cải thiện, bảo vệ môi trường sinh thái, trong bảo vệ và nâng cao sức khỏe
cho con người.
Công nghệ sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới với những phát kiến liên tục trong các

lĩnh vực vật liệu bán dẫn, siêu dẫn nhiệt độ cao, quang điện tử, compozit, gốm kỹ thuật...
đã và đang đưa vào áp dụng phổ biến nhiều loại vật liệu, một mặt, thay thế có hiệu quả
những vật liệu truyền thống ngày càng cạn kiệt hoặc phi kinh tế, mặt khác, mở ra nhiều
ứng dụng mới mà loài người từng mong mỏi (công nghệ vũ trụ; khai thác tiềm năng biển
và trong lòng đất; khai thác các nguồn năng lượng tái tạo - mặt trời, gió, địa nhiệt - giảm
tối đa các tổn thất điện năng và nhiệt năng...).
Trên cơ sở phân tích các xu hướng phát triển KH - CgN toàn cầu và trong khu vực (đặc
biệt là các nước mới công nghiệp hóa - NICs), đánh giá nhu cầu và khả năng của đất nước,
Ban chấp hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có Nghị quyết về CNH và HĐH, đồng
thời xác định đây là một trong những nội dung chủ yếu sẽ được thảo luận tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII. Chính phủ cũng đã có các Nghị quyết về các chương trình quốc gia
phát triển dài hạn công nghệ thông tin, công nghệ sinh học (Nghị quyết 49/CP năm 1993
và 18/CP năm 1994), cũng như các chương trình quốc gia 5 năm thực hiện CNH và HĐH
1996 - 2000 thuộc các lĩnh vực quan trọng khác (công nghệ vật liệu và năng lượng mới;
phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm truyền thống và phát triển nông thôn).
III. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TP.HCM
1. Vị trí, vai trò của KH - CgN
KH - CgN (bao gồm các lĩnh vực tự nhiên, kỹ thuật và xã hội) có một vị trí quyết định quá
trình phát triển, đặc biệt đối với quá trình phát triển ổn định và lâu dài. Vai trò động lực
của KH - CgN càng thể hiện rõ trong thời kỳ chuyển biến mang tính đột biến.
Đối với TP.HCM, sau giai đoạn khai thác các nhân tố tăng trưởng và phát triển theo chiều
rộng thời gian qua và trong những năm trước mắt, thời kỳ khai thác các nhân tố theo chiều
sâu (năng suất, chất lượng và hiệu quả) để duy trì mức tăng trưởng cao và ổn định hàng
năm trên 14 - 15%, vai trò của KH - CgN tăng lên gấp bội. Điều này đòi hỏi phải có những
quan điểm, mục tiêu và phương hướng quy hoạch cụ thể và nhất quán trong suốt thời kỳ
1996 - 2010.
Từ các dự báo xu thế phát triển KH - CgN trong điểm II, cần nhận rõ 2 khu vực để có các
định hướng và giải pháp đúng đắn.
Một là các công nghệ tiên tiến, phù hợp được tạo ra trên thế giới và trong nước cần và có

khả năng đưa áp dụng rộng rãi, có hiệu quả tại TP.HCM trong thời gian quy hoạch nhằm
đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được xác định.
Hai là các thành tựu KH - CgN tiên tiến, phù hợp, được tạo ra trên thế giới và trong nước
cần có nghiên cứu, triển khai trong điều kiện cụ thể của TP.HCM mới có thể đưa áp dụng
rộng rãi có hiệu quả. Thông thường, khu vực này liên quan tới các lĩnh vực gắn với các
điều kiện tự nhiên và sinh thái, cũng như xã hội.
Với khu vực thứ nhất, vấn đề mấu chốt là lựa chọn đúng đắn, tạo đủ các điều kiện nhân
lực, vật lực để áp dụng kịp thời và có hiệu quả ở qui mô thích hợp. Với khu vực thứ hai,
cần có tiềm lực khoa học tương xứng để tổ chức nghiên cứu triển khai và đạt các kết quả
cho phép phổ biến, mở rộng qui mô áp dụng.
2. Quan điểm phát triển

×