Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Kltn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở huyện munlapamok, tỉnh chăm pa sắc, nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.27 KB, 80 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
HUYỆN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN......................................................7
1.1. Một số khái niệm.......................................................................................7
1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện......................................14
1.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện..............20
Chương 2. CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở
HUYỆN MUNLAPAMOK, TỈNH CHĂM PA SẮC, NƯỚC CỘNG
HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẠT RA........................................................................27
2.1. Khái quát về huyện Munlapamok.tỉnh champasắc và đội ngũ cán bộ chủ
chốt của Huyện................................................................................................27
2.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở huyện Munlapamok,
tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay...............30
2.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra.......................................................47
Chương 3. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở HUYỆN MUNLAPAMOK, TỈNH
CHĂM PA SẮC, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
TRONG THỜI GIAN TỚI...........................................................................52
3.1. Nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng về chất lượng của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện..........................................................................................52
3.2. Cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh cán bộ chủ chốt cấp huyện....................53
3.3. Đổi mới một số khâu trong công tác cán bộ CBCC..................................59
3.4. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ
chủ chốt ở huyện..............................................................................................67
3.5. Từng cán bộ tự giác, chủ động tự học, tự rèn; tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát của tổ chức Đảng, chính quyền và các đồn thể nhân dân.........68
KẾT LUẬN....................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................71



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CBCC

: Cán bộ chủ chốt

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNH- HĐH

: Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa

DCND

: Dân chủ nhân dân

HTCT

: Hệ thống chính trị

NDCM

: Nhân dân cách mạng


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Cơ cấu độ tuổi của cán bộ chủ chốt trong huyện............................32
Bảng 2.2. Cơ cấu dân tộc của cán bộ chủ chốt trong huyện...........................33

Bảng 2.3. Trình độ học vấn của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong huyện..........36
Bảng 2.4. Trình độ năng lực chun mơn, nghiệp vụ của cán bộ lãnh đạo của
huyện...............................................................................................37
Bảng 2.5. Trình độ lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý của huyện 40
Bảng 2.6. Trình độ kiến thức quản lý nhà nước của cán bộ lãnh đạo, quản lý
huyện...............................................................................................41


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu độ tuổi của cán bộ chủ chốt trong huyện........................32
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu dân tộc của cán bộ chủ chốt trong huyện........................33
Biểu đồ 2.3.Trình độ học vấn của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong huyện.......36
Biểu đồ 2.4. Trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ lãnh đạo
của huyện....................................................................................37
Biểu đồ 2.5.Trình độ lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý của huyện
.....................................................................................................40
Biểu đồ 2.6. Trình độ kiến thức quản lý nhà nước của cán bộ lãnh đạo, quản
lý huyện.......................................................................................41


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém (Hồ Chí Minh). Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, đất nước và của
cả dân tộc. Sự nghiệp đổi mới đất nước muốn thành cơng phải tạo sự chuyển
biến tích cực từ cơ sở, mà sự chuyển biến ở cơ sở lại phụ thuộc rất quan

trọng ở chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý chủ
chốt cấp cơ sở.
Ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay cấp huyện được coi
là cấp cơ sở. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện là người thay mặt Đảng,
Nhà nước trực tiếp lãnh đạo, quản lý xã hội đến tận người dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lợi của công dân, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của họ, tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, động viên quần chúng nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Cán bộ chủ chốt cấp huyện là lực lượng truyền dẫn tư tưởng, đường lối,
chính sách của Đảng tới dân, là đầu mối liên hệ giữa Đảng với dân, đồng thời
phản ánh tâm tư nguyện vọng của dân đối với Đảng, góp phần đưa cuộc sống
vào nghị quyết, vào chính sách và pháp luật.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó một địi hỏi cấp bách đặt ra cho cán bộ chủ
chốt (CBCC) cấp huyện là phải không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt,
nhất là trình độ lý luận, trình độ lãnh đạo, quản lý nhà nước ở địa phương, kỹ
năng chỉ đạo, quản lý những công việc cụ thể. Vì vậy, nâng cao chất lượng đội
ngũ CBCC cấp huyện có phẩm chất chính trị, đạo đức, chun mơn nghiệp vụ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ đổi mới là vấn đề cấp bách.
Trong những năm qua, đội ngũ CBCC cấp huyện của huyện
Munlapamok, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào đã có bước trưởng thành

1


2

về mọi mặt. Công tác cán bộ luôn được Huyện uỷ quan tâm chỉ đạo thường
xuyên, việc đánh giá phân tích chất lượng tổ chức đảng hàng năm được duy
trì càng có chất lượng tốt; sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các Đảng

bộ trực thuộc, chất lượng các tổ chức trong HTCT huyện từng bước được
nâng lên.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ này vẫn còn hạn chế, yếu kém, một số cán bộ
dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ về Chủ nghĩa Mác-Lê nin và chủ
nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH; một bộ phận khác tha hoá
biến chất về đạo đức, lối sống, lãng phí của cơng, lợi dụng chức quyền để tham
nhũng, làm giàu bất chính, quan liêu, gia trưởng, độc đoán, cục bộ, kèn cựa địa
vị; ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm kém. Một bộ phận khác chạy theo
những thị hiếu vật chất tầm thường, tha hoá tự đánh mất mình trong cơ chế thị
trường, phát ngơn và làm việc tuỳ tiện gây mất đồn kết nội bộ, làm giảm lòng
tin của quần chúng đối với sự lãng đạo của Đảng. Nhiều cán bộ lãnh đạo trong
đó có CBCC cấp huyện ở huyện Munlapamok khơng nghiêm túc tự phê bình
và tiếp thu phê bình, tính chiến đấu kém, bằng mặt mà khơng bằng lịng, trình
độ kiến thức, năng lực lãnh đạo quản lý còn hạn chế; công tác tuyên truyền,
quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng và công tác vân động quần chúng
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là quản lý kinh tế- xã hội, quản lý đô
thị và đảm bảo an ninh trên địa bàn.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, từ
thực trạng chất lương đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở huyện Munlapamok
và yêu câu nghiên cứu tìm giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp
huyện đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện hiện nay và
những năm tiếp theo thực sự là vấn đề cần thiết và cấp bách, tác giả chọn vấn đề
“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở huyện
Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học chun ngành Chính trị phát triển.

2


3


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Qua khảo sát thực tiễn, tác giả nhận thấy đề tài được đề cập qua các
nghiên cứu dưới những góc tiếp cận như:
* Sách:
- Cao Khoa Bảng (2008), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố (Qua kinh nghiệm của Hà Nội), Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách đề cập các vấn đề lý
luận và thực tiễn trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính
trị, phân tích thực trạng, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra hiện nay đối với
tỉnh Hà Nội. Trên cơ sở đó, tác giả đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
- Bùi Ngọc Thanh, Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ
(2008), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách gồm nhiều bài
viết thể hiện sự kiên định đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta, vạch trần những luận điệu xuyên tạc, chống đối Đảng của các phần tử,
thế lực thù địch. Đồng thời, tác giả đánh giá khái quát việc thực hiện tiêu chuẩn
cán bộ đã được Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII của Đảng xác định cũng như
những việc làm được, những việc phải tiếp tục thực hiện trong việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ theo Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị khoá IX
* Đề tài khoa học
Có nhiều cơng trình
- GS, TS. Nguyễn Phú Trọng (2000), Đề tài cấp Nhà nước: “Luận cứ
khoa học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”. Đề tài nghiên cứu, lý giải, hệ thống
hóa các căn cứ khoa học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; từ đó, đưa ra một hệ thống các
quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.


3


4

- Đề tài khoa học cấp bộ, năm 2001, do Nguyễn Văn Sáu làm chủ
nhiệm: “Nâng cao tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở phía Bắc nước ta trong tình hình hiện nay”; Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh
- Cơng trình nghiên cứu “Quan điểm và giải pháp để củng cố và tăng

cường hệ thống chính trị ở cơ sở”, GS, TS Hồng Chí Bảo, Tạp chí Dân vận, số
1+2-2002. Tác giả trình bày hai phần lớn: quan điểm chỉ đạo nhằm củng cố,
tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở; những giải pháp cấp bách tập trung chủ
yếu vào lĩnh vực chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn). Tác giả coi đây là
lĩnh vực có nhiều tình huống phức tạp hơn cả và là khâu đột phá.
- Nguyễn văn Huyên (2005), Đề tài khoa học “Phẩm chất, năng lực
người lãnh đạo theo yêu cầu của CNH, HĐH”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh. Trên cơ sở yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ mới, tác giả đề tài đã chỉ ra
những phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực trình độ cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
* Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
- Luận án tiến sĩ của Phạm Công Khâm (2002), Xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sơng Cửu Long (ĐBSCL) hiện
nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Mậu Dựng (1996) “Xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay", Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Bích Hường (2006): "Chất lượng

đào tạo cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở trường
Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay"
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu đã đề cập khá toàn diện các vấn đề
liên quan đến chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị. Tuy
nhiên, chưa có cơng trình nào trực tiếp bàn về nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện ở huyện Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng

4


5

hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay. Do vậy, đề tài khóa luận có tính mới và độc
lập. Những cơng trình nghiên cứu trên đây sẽ là nguồn tham khảo q cho tác giả
trong q trình hồn thiện khóa luận.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện, khảo sát, đánh giá thực tiễn chất lượng cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở huyện Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc hiện nay, tác giả đề xuất một
số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
ở huyện Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ sau:
- Khái quát một số vấn đề lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
ở cấp huyện.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt ở huyện Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào hiện nay

- Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở huyện Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc , nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào trong thời gian tới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở huyện
Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về không gian: ở huyện Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào
- Về thời gian: Từ 2012- 2018

5


6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay
Xỏn Phôm Vi Hản và quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào về cán bộ và chất lượng đội ngũ cán bộ.
- Đề tài cũng sử dụng các kiến thức lý luận của các chuyên ngành chính trị
học, văn hóa học, giáo dục học, đạo đức học, tâm lý quản lý lãnh đạo; các tài liệu,
cơng trình khoa học của những người đi trước có liên quan cán bộ, công tác cán bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Đề tài sử dụng phương pháp luận của duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử
- Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như:
phương pháp phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, thống kê - so sánh,

điều tra xã hội học, khái quát hóa v,v...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các
đảng bộ huyện trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, đồng thời
cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy và
học tập môn Xây dựng Đảng, chính trị học tại Trường Chính trị tỉnh hoặc các
Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị cấp huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đánh giá thực chất, khách quan về chất lượng của đội ngũ CBCC
cấp huyện ở huyện Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc.
Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ CBCC cấp huyện ở huyện Munlapamok, tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời gian tới
7. Kết cấu khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.

6


7

Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.

Một số khái niệm


1.1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
1.1.1.1. Cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng” [912, tr.269]. Ở đây, Hồ Chí Minh khơng đơn
thuần nói về người có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước và đoàn thể mà
nêu lên những nét căn bản nhất về nhân cách người cán bộ. Ở đây, Người chỉ
rõ: cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng.
Trong “Từ điển tiếng Việt” cán bộ được hiểu ở hai nghĩa: Người làm
việc, công tác trong cơ quan nhà nước với các công việc chuyên môn được
đào tạo; Người làm trong cơ quan nhà nước, có chức vụ ở một cơ quan, một
tổ chức. Cán bộ theo nghĩa này nhằm để phân biệt với người khơng có chức
vụ, nhân viên. Theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là những người
thoát ly, làm việc trong bộ máy Đảng, Chính quyền, Đồn thể và Lực lượng
vũ trang. Ở góc độ hành chính, cán bộ được coi là những người có mức lương
từ cán sự (theo bậc ngạch cũ) trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức
lương thấp hơn.
Ở nước CHDCND Lào, trước đây thuật ngữ “cán bộ” được hiểu là tất
cả những người làm việc trong biên chế Nhà nước đều là cán bộ. Khi có quan
niệm công chức Nhà nước, những năm gần đây, trong các văn bản của Đảng,
Nhà nước xuất hiện thuật ngữ “cán bộ, công chức” để phân biệt chức năng,
nhiệm vụ và vị trí cơng tác của từng loại. Quan niệm cán bộ và công chức

7


8

khơng hồn tồn đồng nghĩa với nhau; nhưng cũng khó phân biệt rạch rịi đâu

là cán bộ, đâu là cơng chức. Vì vậy, trong các văn bản thường gọi chung là
“cán bộ, công chức”
Như vậy, dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, ở lĩnh vực cụ
thể có khác nhau, nhưng về cơ bản có thể thấy những đặc trưng cơ bản của
cán bộ như sau: Có thể hiểu một cách chung nhất, cán bộ là khái niệm chỉ
những người có chức trách, vai trị nịng cốt trong một tổ chức, cơ quan, đơn
vị; có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của
tổ chức và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008: “Cán bộ là công
dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, huyện , thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước”. Từ đó, có thể định nghĩa một cách chung nhất: “Cán bộ là những
người có vai trò, giữ chức vụ và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác
động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ lãnh đạo, quản lý,
chỉ huy, điều hành, định hướng sự phát triển của tổ chức”.
1.1.1.2. Cán bộ chủ chốt
Khi bàn về từng loại cán bộ cụ thể và cán bộ chủ chốt vẫn còn nhiều
cách hiểu khác nhau trong các cụm từ này. Một số ý kiến cho rằng tất cả
đảng viên Đảng NDCM Lào làm việc trong cơ quan của tỉnh, huyện là cán
bộ chủ chốt. Nhiều người cho rằng, tất cả những người có cương vị trong cơ
quan, đơn vị đều là cán bộ chủ chốt, cũng có ý kiến cho rằng, chỉ những
người có cương vị và làm cơng tác Đảng mới là cán bộ chủ chốt. Loại thứ

8



9

ba, coi tất cả những lãnh đạo và quản lý của cấp uỷ và lãnh đạo đầu ngành là
cán bộ chủ chốt.
Sự tồn tại những loại ý kiến khác nhau nêu trên bộc lộ sự lúng túng và
chưa thống nhất trong nhận thức khái niệm cán bộ chủ chốt. Cán bộ chủ chốt
gồm cán bộ quản lý chủ chốt và cán bộ lãnh đạo quản lý, đó là các cán bộ
lãnh đạo trong tỉnh ủy, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, các ban và các sở
cấp tỉnh, cấp huyện.
Cán bộ chủ chốt là những người giữ vị trí đứng đầu quan trọng nhất,
giữ chức vụ và trách nhiệm cao nhất trong một tổ chức, một cơ quan, có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức, của bộ máy; có vai trị tham gia định
hướng, điều khiển hoạt động của bộ máy; được giao đảm đương các nhiệm vụ
quan trọng trong bộ máy lãnh đạo, quản lý để điều hành và tổ chức thực thi
các nhiệm vụ được giao.
Cán bộ chủ chốt trước hết là những người cán bộ lãnh đạo, nhưng là
người cán bộ lãnh đạo quan trọng nhất trong các người lãnh đạo. Đó là những
người trực tiếp xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách do
cấp trên giao phó và thực hiện chiến lược, kế hoạch cấp mình đề ra trong từng
thời kỳ. Đó là những người chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động cấp uỷ
hoặc tổ chức cơ quan mà họ đứng đầu.
Việc xác định cán bộ chủ chốt hay không chủ chốt là căn cứ vào chức
trách cụ thể của mỗi cán bộ và đặt nó trong mối quan hệ tồn bộ hệ thống tổ
chức. Có cán bộ ở cương vị này, trong tổ chức này là chủ chốt, nhưng trong
mối quan hệ khác, vị trí khác thì lại không phải là chủ chốt.
Qua các văn kiện, tài liệu Đảng, Nhà nước Lào khái niệm “cán bộ chủ
chốt” có thể được hiểu là những người:
- Giữ các vị trí Trưởng, Phó trong cơ quan thường trực của Đảng, chính
quyền, đồn thể nhân dân ở các ngành, các địa phương.


9


10

- Những người có trách nhiệm chính trong việc triển khai tổ chức thực
hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, của cấp trên
tại địa phương, đơn vị mình.
- Giữ vai trị quyết định trong việc đề ra các quyết định, chỉ thị, nghị
quyết và tổ chức thực hiện trong phạm vị địa phương, đơn vị.
Theo từ điển tiếng Việt, chủ chốt thuộc loại từ tính từ có nghĩa là “quan
trọng nhất, có tác dụng làm nịng cốt” [27, tr.174]. Như vậy, nói đến chủ chốt
là nói đến mối quan hệ trong một tập hợp nhất định có nhiều phần tử, nhiều đối
tượng và vị trí, tính chất của những phần tử, đối tượng tập hợp ấy.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về cán bộ chủ chốt. Tuy nhiên,
nội hàm khái niệm này có thể thống nhất ở mấy điểm sau:
- Là người có chức năng lãnh đạo, được giao đảm đương các nhiệm vụ
quan trọng nhất để lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chịu
trách nhiệm trước tập thể và cấp trên về nhiệm vụ được phân công.
- Là người có trách nhiệm tiếp cận các chủ trương, chính sách về một
lĩnh vực nào đó từ cấp trên.
- Là người có vai trị quan trọng nhất trong việc cụ thể hóa, hiện thực
hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước vào điều kiện ở cơ sở.
- Có thầm quyền giải quyết các mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội… trong phạm vi phụ trách bằng những hình thức khác nhau.
Từ những nội dung trình bày nêu trên, chúng ta có thể hiểu CBCC
là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng
cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người
được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều
hành bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm

trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực công tác được giao. Cán bộ chủ
chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trị quyết định trong việc xác
định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các quyết định

10


11

và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao.
Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc;
bổ sung, điều chỉnh kịp thời gian những giải pháp mới khi cần thiết; đúc
rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hồn chỉnh lý luận. Đồng
thời, CBCC cịn là người giữ vai trị đồn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh
của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội
bộ tổ chức vững mạnh. Cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ
chức, một tập thể... chủ yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ
trọng yếu trong cơ quan Đảng, Chính quyền ( cấp trưởng , cấp phó); trưởng
các đồn thể và là những người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp
mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn vị hoặc lĩnh vực công tác
được đảm nhận.
Từ đây có thể hiểu: Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người đứng đầu,
giữ vị trí trọng yếu trong hệ thống chính trị, có ảnh hưởng mang tính quyết
định đến việc chấp hành chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước thông qua việc trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên địa bàn.
1.1.2. Chất lượng cán bộ chủ chốt cấp huyện
Trong đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên cho rằng:
“chất lượng” là: cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật: chất
lượng hàng hóa, cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật

kia, phân biệt với số lượng [2730, tr. 321].
Từ điển Bách khoa Việt Nam chỉ rõ: Chất lượng là phạm trù triết học
biểu hiện những thuộc tính, bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn
định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác [20, tr. 419]. Chất
lượng hiểu ở nghĩa chung nhất là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con
người, của một sự vật, sự việc.
1.1.2.1. Cấp huyện

11


12

Theo Hiến pháp của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thì hệ thống
hành chính của đất nước gồm bốn cấp: Cấp cao nhất là cấp trung ương, tiếp
theo là cấp tỉnh, cấp huyện, và cấp bản.
Như vậy cấp huyện là cầu nối giữa cấp tỉnh, trung ương với cấp cơ
sở. Huyện là cấp có nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện và trực tiếp các mặt đời
sống xã hội, đồng thời cấp huyện cũng là cấp quán triệt đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có được thực hiện tốt hay khơng
là do cơ sở quyết định, trong đó sự truyền tải, đơn đốc kiểm tra uốn nắn,
giúp đỡ của cấp huyện là rất quan trọng. Mặt khác, cấp cơ sở thông qua cấp
huyện mới phản ánh được tình hình lên cấp tỉnh và trung ương những vấn
đề nảy sinh trong thực tiễn cần giải quyết hoặc những vấn đề khơng cịn
phù hợp để cấp trên nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung phù hợp với đòi hỏi
khách quan của thực tiễn. Đối với cơ sở, sự giúp đỡ của cấp huyện là rất
quan trọng vì cấp huyện là cấp trên trực tiếp của cơ sở, sâu sát cơ sở nhất.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, sự phát triển về mọi mặt đời sống, kinh tế,
xã hội của một tỉnh đều gắn chặt với huyện. Cơng cuộc đổi mới tồn diện

đất nước đang diễn ra rất mạnh mẽ, đòi hỏi sự vận động chuyển mình của
mọi cấp mọi ngành và địa phương. Để đem lại những thành tựu to lớn cho
đất nước trong tiến trình đổi mới thì vai trị của cấp huyện là yếu tố vô
cùng quan trọng. Hội nghị thứ 6 Ban chấp hành trung ương Khóa VI bàn
về cấp huyện đã chỉ rõ: huyện là đơn vị làm kế hoạch và ngân sách. Tiếp
theo hội nghị trung ương lần thứ 8 khóa VI, Đảng NDCM Lào đã quy định
cụ thể hơn về tổ chức cấp huyện.
Trên cơ sở lý luận, quan điểm của Đảng và thực tiễn công tác, tác giả
thấy rằng tuy cịn có những ý kiến khác nhau về chức năng, nhiệm vụ cụ thể
nhưng đều thống nhất ở những nội dung sau:

12


13

Thứ nhất huyện là một đơn vị trong hệ thống hành chính của nhà
nước. Điều đó đã được xác định trong Hiến pháp. Trong hệ thống đó có thể
thấy, huyện là cơ quan chỉ đạo trực tiếp cấp cơ sở thực hiện các chỉ tiêu phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội đã được tỉnh xác định. Với vai trò này, mọi chỉ
tiêu kế hoạch của tỉnh, theo đó là cả nước có được thực hiện hay khơng cịn
tùy thuộc vào sự cụ thể hóa của tỉnh và năng lực chỉ đạo của huyện.
Cùng với sự chỉ đạo là sự đảm bảo các điều kiện cho cơ sở thực hiện kế
hoạch của cấp trên. Trong lĩnh vực này, cấp huyện là nơi tạo ra và phát huy
năng lực tự có của cơ sở, đồng thời căn cứ vào điều kiện cụ thể để liên kết với
các địa phương khác và đề xuất với tỉnh hỗ trợ các điều kiện đảm bảo cho
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
Thứ hai, huyện là cấp tiếp nhận ngân sách của trung ương thông qua
tỉnh để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đồng thời cũng là cấp tạo ra
ngân sách trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự cân đối ngân sách

ngay từ cấp cơ sở.
Thứ ba, huyện là cấp trực tiếp chỉ đạo các phong trào thi đua, phát hiện
và đề xuất, tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính
sách pháp luật của nhà nước. Đây là cấp sát cơ sở nên nắm vững được tình
hình cụ thể, nắm được tâm lý, tập quán của địa phương, huyện có thể đề ra
được những nội dung, hình thức thi đua phù hợp và chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời.
Chính vì vậy, trên cơ sở định hướng của trung ương và tỉnh, huyện là cấp trực
tiếp chỉ đạo các phong trào thi đua, nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương, nghị
quyết của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước.
Thứ tư, huyện là môi trường để cán bộ rèn luyện phấn đấu trưởng
thành tạo nguồn giới thiệu cho đội ngũ cấp tỉnh và trung ương. Nghiên cứu lý
luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin chúng ta thấy giữa lý luận và thực tiễn có
mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Trong đó thực
tiễn là yếu tố quan trọng. Lý luận chỉ có ý nghĩa một khi bắt nguồn từ thực

13


14

tiễn và chỉ đạo thực tiễn. Là cấp trực tiếp chỉ đạo tổ chức và thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, để các
chủ trương đường lối chính sách thành hiện thực cán bộ cấp huyện phải trực
tiếp hịa mình vào các phong trào quần chúng ở địa phương. Đồng thời hoạt
động của xã hội được thể hiện khá đầy đủ ở cấp huyện. Nên việc chỉ đạo tổ
chức các hoạt động ở cấp cơ sở cũng giúp cho cán bộ nhận thức được bản
chất của sự vật, hiểu rõ bản chất của từng phong trào cách mạng và cũng
trong quá trình đó, đội ngũ cán bộ đúc kết được kinh nghiệm, nắm bắt được
những vấn đề quan trọng, điều này giúp cho họ khi hoạt động ở tâm vĩ mơ có
thể khái quát về cơ sở để định ra các chính sách phù hợp. Thực tế hiện nay

cho thấy, hầu hết cán bộ ở tâm vĩ mô đều đã trải qua cơng tác ở cấp huyện có
trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Thứ năm, trong lĩnh vực an ninh quốc phịng, huyện có vị trí là tiền
tiêu, bảo vệ cơ quan lãnh đạo tỉnh và là cơ quan giải quyết ban đầu về việc
bảo vệ tổ quốc và gìn giữ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
1.1.2.2. Chất lượng cán bộ chủ chốt cấp huyện
Để đưa ra quan niệm về chất lượng CBCC cần nghiên cứu các chỉ dẫn
của các nhà kinh điển và của Đảng NDCM Lào, đồng thời tham khảo kết quả
nghiên cứu các cơng trình khoa học. Có thể nói, hầu hết CBCC hiện tại là
những đảng viên và cán bộ của Đảng. Những đảng viên cộng sản là những cán
bộ lãnh đạo cách mạng đã được Các Mác, Ph.Ăngghen đánh giá cao và chỉ ra
đặc trưng bản chất của họ. Trong quá trình chuyển từ thế giới quan duy tâm
sang thế giới quan duy vật, Các Mác, Ph.Ăngghen đã coi những đảng viên
cộng sản là người đi tiên phong, người lãnh đạo, tuyên truyền, giáo dục giai
cấp công nhân và tổ chức giai cấp công nhân đấu tranh chống lại giai cấp tư sản
thực hiện lý tưởng cộng sản. Thực chất những đảng viên đó là những cán bộ
của Đảng. Hai ông cho rằng: “về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ
phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ

14


15

vũ tất cả các bộ phận khác; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp
vơ sản ở chỗ, họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong
trào vơ sản” [57, tr. 732-733].
Đây là những tính chất, những đặc trưng cơ bản nói lên chất lượng của
người đảng viên cộng sản, những cán bộ của Đảng cộng sản của giai cấp cơng
nhân. Những tính chất, đặc trưng ấy khơng phải ngẫu nhiên có được mà phải

trải qua q trình giáo dục, rèn luyện của Đảng cộng sản và qua quá trình
phấn đấu, rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của mỗi đảng viên.
Những cán bộ đó là người trực tiếp tuyên truyền và tổ chức giai cấp công
nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản, bọn phản động, thực hiện mục tiêu, lý
tưởng của Đảng
Hướng dẫn số 01 – HD/BTCTW ngày 14/10/2006 của Ban tổ chức
Trung ương Đảng về đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
cũng gợi mở một số điểm có giá trị để đưa ra quan điểm về chất lượng cán bộ
chủ chốt. Hướng dẫn chỉ rõ: Đánh giá chất lượng đảng viên cần đánh giá về tư
tưởng chính trị; về phẩm chất đạo đức, lối sống; về thực hiện nhiệm vụ được
giao; về tổ chức kỷ luật. Những yếu tố đó tạo nên chất lượng người đảng viên
trong giai đoạn hiện nay.
Từ những quan điểm và phân tích trên về chất lượng cán bộ, đảng viên,
chất lượng CBCC có thể quan niệm như sau: chất lượng CBCC cấp Huyện là
tổng hợp những thuộc tính giá trị đặc trưng của người cán bộ như: phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách và tác phong công tác; năng lực nhận
thức và khả năng tổ chức thực tiễn ở cơ sở; mức độ hồn thành chức trách,
nhiệm vụ được giao, có sức khỏe và độ tuổi hợp lý để công tác.
Chất lượng đội ngũ CBCC được cấu thành bởi số lượng cán bộ, cơ cấu
đội ngũ cán bộ và chất lượng từng cán bộ. Ba yếu tố này đều rất quan trọng tạo
nên chất lượng đội ngũ cán bộ, trong đó chất lượng của từng cán bộ giữ vai trò
quyết định. Điều này rất rõ, bởi nếu có đủ số lượng cán bộ và cơ cấu đội ngũ

15


16

cán bộ hợp lý, nhưng chất lượng từng cán bộ thấp thì chất lượng đội ngũ đó sẽ
khơng cao. Nếu từng cán bộ có chất lượng tốt, đội ngũ cán bộ có cơ cấu hợp lý

nhưng lại khơng đủ số lượng cần thiết để bố trí vào các cương vị quan trọng
trong tổ chức, chất lượng của đội ngũ cán bộ vì thế cũng suy giảm theo. Nếu
đội ngũ CBCC có đủ số lượng, từng cán bộ có chất lượng tốt nhưng đội ngũ
cán bộ có cơ cấu khơng hợp lý thì sẽ thiếu những cán bộ đảm nhiệm ở những
lĩnh vực, địa bàn quan trọng. Và như vậy, chất lượng, hiệu quả hoạt động của
đội ngũ cán bộ sẽ hạn chế nhất định. Tuy nhiên, nếu từng cán bộ có chất lượng
tốt, song số lượng cán bộ và cơ cấu đội ngũ cán bộ chưa thật đảm bảo thì cũng
có thể dần dần khắc phục được. Bởi vậy chất lượng từng cán bộ là yếu tố quan
trọng nhất quyết định đến chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Từ
những phân tích trên ta có thể hiểu: chất lượng đội ngũ CBCC cấp Huyện là sự
thống nhất giữa phẩm chất, năng lực của từng cán bộ với số lượng và cơ cấu
của đội ngũ cán bộ theo quy định, bảo đảm cho đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Trong quá trình cách mạng, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào ln khẳng
định và coi trọng vai trị cán bộ: Cán bộ có vai trị quyết định sự thành bại của
đường lối. Để đáp ứng sự nghiệp đổi mới toàn diện và sâu sắc của cách mạng,
cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ chính trị, vừa vững
vàng về lập trường tư tưởng, vừa đồng bộ, vừa có tính kế cận, vừa đủ về số
lượng và đảm bảo về chất lượng.
Chủ tịch Kaysone Phomvihane khẳng định: Cán bộ là vốn quý nhất của
Đảng; là người lãnh đạo nhân dân, là người phục vụ nhân dân, là cầu nối giữa
Đảng với nhân dân. Đường lối, chính sách của Đảng thành công hay thất bại
đều do cán bộ quyết định.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào nhiều lần khẳng định, cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng Lào, là khâu then chốt của
công tác xây dựng Đảng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế
16




×