Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Chất lượng tăng trưởng của VN và Một số nước Đông Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.86 KB, 96 trang )

Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t
Trung t©m th«ng tin vµ dù b¸o kinh tÕ x héi quèc gia– ·

CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG Á
Hà nội, tháng 10/2006
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

2
MỤC LỤC
Trang
• Danh mục bảng và biểu đồ........................................................................3
• Danh mục các từ viết tắt............................................................................5
• Lời nói đầu..................................................................................................7
Chương I
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA VIỆT NAM
I. Chất lượng tăng trưởng xét trên khía cạnh kinh tế........................................9
II. Chất lượng tăng trưởng xét trên khía cạnh môi trường................................28
III. Hiệu lực quản lý của Nhà nước..............................................................41
IV. Tăng trưởng gắn với phúc lợi xã hội, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo
59
Chương II
KINH NGHIỆM CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG Á - BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
I. Chất lượng tăng trưởng của Trung Quốc...............................................80
II. Chất lượng tăng trưởng của Thái Lan..................................................109
III. Chất lượng tăng trưởng của Hàn Quốc................................................117
IV. Chất lượng tăng trưởng của Malaixia..................................................126
V. Bài học cho Việt Nam..........................................................................138
• Kết luận...............................................................................................152
• Tài liệu tham khảo..............................................................................154


Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

3
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Trang
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế giai đoạn 2000 – 2005
...............................................................................................12
Bảng 2: Cơ cấu kinh tế các nước Đông Á năm 1999.........................13
Bảng 3: Tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 1998 –
2005.......................................................................................19
Bảng 4: Tỷ trọng đóng góp của các nhân tố đầu vào đối với tăng
trưởng GDP...........................................................................20
Bảng 5: Xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam....27
Bảng 6: Xếp hạng các chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam.......28
Bảng 7: Giảm diện tích đất canh tác trên đầu người ở Việt Nam.......29
Bảng 8: Tỷ lệ hộ nông thôn không có đất...........................................31
Bảng 9: Tài nguyên nước tái tạo được của một số quốc gia (2002 -
2004).....................................................................................33
Bảng 10: Diễn biến diện tích rừng qua các thời kỳ..............................37
Bảng 11: Tỷ lệ M2/GDP (%) của Việt Nam giai đoạn 1995 – 2005........
Bảng 12: Điểm số CPI của Việt Nam qua các năm..............................52
Bảng 13: Bảng giá trị HDI của Việt Nam và các chỉ số cấu thành.......61
Bảng 14: Số liệu so sánh chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam và các nước
...............................................................................................64
Bảng 15: Loại công việc theo giới (%).................................................73
Bảng 16: Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm tính theo thu nhập bình
quân đầu người .....................................................................76
Bảng 17: Vai trò của TFP trong tăng trưởng của Thái Lan (%).........112
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á


4
Bảng 18: Tốc độ tăng GDP của Hàn Quốc qua các thời kỳ (%)........118
Bảng 19: Vai trò của TFP trong tăng trưởng kinh tế của Malaixia (%)
.............................................................................................130
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1998 – 2005..................10
Biểu đồ 2: Cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam........................................12
Biểu đồ 3: Tỷ trọng tiêu dùng, tích luỹ tài sản trong nước, tiết kiệm nội
địa trong GDP trong giai đoạn 1986 – 2004.........................16
Biểu đồ 4: Bội chi NSNN 1994 – 2004..................................................46
Biểu đồ 5: Biến động lạm phát của Trung Quốc (1990 – 2003).............85
Biểu đồ 6: Biến động lượng tiền mở rộng M2 (1990 – 2003)................92
Biểu đồ 7: Tốc độ tăng trưởng GDP của Malaixia giai đoạn 1997-2006
(%).......................................................................................127
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHXH Bảo hiểm xã hội
BN Ngân hàng Trung ương Malaixia
BOD Mức độ ô xy sinh hóa
CCHC Cải cách Hành chính
CHXHCNVN Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CN Công nghiệp
COD Mức độ ô nhiễm cho phép về oxy hóa học
CPI Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index)
CPI Chỉ số nhận biết tham nhũng (Corruption Perception Index)
CSTK Chính sách tài khoá
CSTT Chính sách tiền tệ

CU Lượng tiền mặt trong lưu thông
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
ĐTPT Đầu tư phát triển
FAO Tổ chức nông lương thế giới
FDI Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GINI Chỉ số về bất bình đẳng thu nhập
GNI Thu nhập quốc dân
HDI Chỉ số phát triển con người
HPI Chỉ số nghèo tổng hợp
HTPT Hỗ trợ phát triển
ICOR Tỷ số gia tăng vốn trên sản lượng cận biên
IMF Quỹ tiền tệ thế giới
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

6
KHHĐ Kế hoạch hành động
M
1
Cung tiền hẹp
M
2
Tổng phương tiện thanh toán
MEI Chỉ số môi trường vĩ mô
NDT Nhân dân tệ
NHI Hệ thống bảo hiểm quốc gia Hàn Quốc
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
NSNN Ngân sách Nhà nước

ODA Nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức
P II Chỉ số thể chế công
PDS Thị trường chứng khoán nợ tư nhân
PPP Sức mua tương đương
R&D Nghiên cứu và triển khai
REER Tỷ giá thực đa phương
SEPA Công ty bảo vệ môi trường Xcôt-len
TFP Năng suất nhân tố tổng hợp
TI Chỉ số công nghệ (Technology Index)
TI Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparerency International)
UNDP Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
WB Ngân hàng thế giới
WEF Diễn đàn kinh tế thế giới
XDCB Xây dựng cơ bản
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

7
LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn phát triển vừa qua, Việt Nam đã đạt được kết quả tương đối cao về
tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình từ năm 1990 đến nay là 7%, đặc
biệt liên tục tăng cao trong mấy năm gần đây, đạt 7,6% năm 2004; 8,4% năm 2005, đưa
Việt Nam đứng vị trí thứ 39 trên thế giới về chỉ số xếp hạng GDP, đứng thứ 2 trong khu
vực Đông Á về tốc độ tăng trưởng. Nhờ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam được cải thiện đáng kể, tăng từ 140 USD năm 1990 lên 640 USD
năm 2005, mức sống của người dân được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58,1% năm
1993 xuống còn 24,2% năm 2004.
Theo đánh giá của một số học giả, chất lượng tăng trưởng của Việt Nam còn thấp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, Khóa IX đã nhận định “tăng trưởng kinh tế khá …
nhưng chưa tương xứng với mức đầu tư, với tiềm năng của nền kinh tế”
1

. Vì vậy, nâng
cao chất lượng tăng trưởng trở thành mục tiêu quan trọng của chính sách phát triển kinh
tế trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở những nhận định trên, Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế – xã hội
Quốc gia đã tiến hành nghiên cứu, tổng hợp và biên soạn đặc san chuyên đề “Chất lượng
tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á”. Nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu, phân
tích chất lượng tăng trưởng của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đồng thời nghiên cứu chất
lượng tăng trưởng của một số nước Đông Á, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam nhằm
hướng tới mục tiêu tăng trưởng đảm bảo chất lượng trong giai đoạn tới. Kết cấu của
chuyên đề gồm hai chương:
Chương I: Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam
Chương II: Kinh nghiệm chất lượng tăng trưởng của một số nước Đông Á – Bài học
cho Việt Nam
Hy vọng nghiên cứu này sẽ cung cấp cho người đọc những thông tin bổ ích khi tìm
hiểu về vấn đề chất lượng tăng trưởng.
1
Báo Nhân dân ngày 5/4/2004
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

8
Xin trân trọng giới thiệu.
TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ DỰ BÁO
KINH TẾ - XÃ HỘI QUỐC GIA
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

9
Chương I
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA VIỆT NAM
I. CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG XÉT TRÊN KHÍA CẠNH KINH TẾ
1. Kết quả sản xuất và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế

Trong hai thập niên qua (1986 - 2006), kể từ khi áp dụng những chính sách cải cách kinh tế toàn diện
với nội dung cốt lõi là sự kết hợp của tự do hóa, ổn định hóa, thay đổi thế chế, cải cách cơ cấu và mở cửa ra
nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế đáng ghi nhận.
1.1. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Năm 1986 đánh dấu quá trình đổi mới kinh tế, từ chỗ hầu như không có tăng trưởng trong giai đoạn
1976 – 1985, bước sang giai đoạn 1986 – 1990, nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi và phát triển, tuy tốc
độ chưa cao. Từ năm 1990 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng cao, trung bình hàng năm
đạt 7%. Tính chung từ 1986 - 2005, tốc độ tăng GDP trung bình hàng năm là 6,98%, tăng gấp 3,6 lần so với
đầu giai đoạn. Chỉ số xếp hạng GDP của Việt Nam cũng được cải thiện rõ rệt, từ vị trí thứ 124 thế giới năm
2002 tăng lên thứ 39 vào năm 2005.
Năm 1999, do ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, tốc độ tăng trưởng
GDP của Việt Nam đã giảm xuống còn 4, 8%. Tăng trưởng giảm sút thể hiện ở hầu hết các ngành kinh tế
chủ chốt như công nghiệp, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, đến năm 2000, nền kinh tế đã có sự hồi
phục nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã đạt ở mức 6,8% và liên tiếp tăng trong các năm tiếp theo
đạt 7,0% (năm 2002); 7,3% (năm 2003); 7,6% (năm 2004); 8,4% (năm 2005).
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1998 - 2005
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
%
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á


10
Trong những năm gần đây, so với các nước trong khu vực ASEAN, tăng trưởng GDP của Việt Nam vào
loại cao nhất trong khu vực, còn so với các nước Đông Á, tăng trưởng GDP của Việt Nam đứng thứ 2 sau
Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế của ta còn nhỏ bé, nên dù tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng
thực lực nền kinh tế của ta còn yếu và hạn chế.
1.2. GDP bình quân đầu người
Tăng trưởng kinh tế cao kéo theo thu nhập bình quân đầu người cũng được cải thiện đáng kể, tăng từ 140
USD năm 1990 lên 483 USD năm 2003, đạt 545 USD năm 2004 và 640 USD năm 2005 (tăng gấp 2,65 lần so
với năm 1986). Tính bình quân trong giai đoạn 1986 – 2005, tốc độ GDP đầu người tăng trung bình là 5,28%.
Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp, vẫn còn chênh lệch khá lớn so các nước
trong khu vực. Năm 2005, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 638 USD trong khi Thái Lan đã đạt 2.
740 USD; Trung Quốc đạt 1.740 USD và Malaixia là 9.700 USD. Theo dữ liệu triển vọng kinh tế thế giới
2006 của IMF, nếu tính theo sức mua tương đương PPP năm 2005 thì thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam tăng lên là 3.025 USD, trong khi Trung Quốc là 7.204 USD, cao gấp 2,38 lần; Thái Lan là 8.319 USD,
cao gấp 2,75 lần; Hàn Quốc là 20.590 USD, gấp 6,8 lần và Nhật Bản là 30.615 USD, cao gấp 10,1 lần Việt
Nam. Như vậy, kể cả Thái Lan là nước có cùng trình độ phát triển với Việt Nam vào thập kỷ 70 của thế kỷ
XX thì chỉ sau 2 thập kỷ thu nhập bình quân đầu người của nước này đã cao gấp 2 lần Việt Nam.
1.3. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành
1.3.1. Cơ cấu ngành kinh tế nhìn ở phía tổng cung
Sự tăng trưởng kinh tế nhanh đạt được trong thời gian qua là kết quả của những thay đổi quan trọng
trong cơ cấu nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp
và dịch vụ, giảm dần của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Từ một nước có nền công nghiệp kém phát
triển, đến nay Việt Nam đang từng bước xây dựng một nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Tỷ trọng
công nghiệp liên tục tăng, từ 22,67% (năm 1990) lên 41,04% (năm 2005); tỷ trọng đóng góp của ngành
nông – lâm - ngư nghiệp giảm, từ 38,74% (năm 1990) xuống 20,89% (năm 2005); tỷ trọng ngành dịch vụ
tăng lên cao trong giai đoạn 1993 –1995, từ 38,59% (năm 1990) lên 44,06% (năm 1995), nhưng sau đó lại
giảm dần và chỉ chiếm 38,07% (năm 2005).
Tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế cũng liên tục tăng trong các năm. Cụ thể, tăng nhẹ trong
ngành nông – lâm - thủy sản, mặc dù trong năm 2001 có sự sụt giảm đáng kể so với năm 2000 nhưng trong
những năm tiếp theo đã có sự tăng trở lại; tăng cao nhất trong ngành công nghiệp và xây dựng, luôn giữ tốc

độ tăng trưởng trên 10%/năm cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn nền kinh tế, riêng trong ngành dịch vụ có sự
gia tăng đều đặn hàng năm tuy tốc độ không cao, duy trì ở mức 6-7%/năm, đặc biệt trong năm 2005, đạt
8,48%..
Biểu đồ 2: Cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

11
15
20
25
30
35
40
45
50
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004

2005
%
nong nghiep CN - XD Dich vu
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế
giai đoạn 2000 – 2005
Đơn vị: %
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
GDP 6,79 6,89 7,08 7,26 7,57 8,43
Nông – lâm – thủy sản 4,63 2,98 4,17 3,25 3,30 4,04
Công nghiệp – xây dựng 10,07 10,39 9,48 10,35 10,25 10,65
Dịch vụ 5,32 6,10 6,54 6,57 7,25 8,48
Nếu xét theo giá trị tăng thêm, tỷ lệ giá trị gia tăng của khu vực nông nghiệp nước ta theo giá thực tế đã
giảm từ 38% năm 1986 xuống còn khoảng 20% năm 2005. Tỷ lệ giá trị gia tăng khu vực công nghiệp đã
tăng lên từ 28,8% năm 1986 lên trên 40% năm 2005. Giá trị gia tăng khu vực dịch vụ cũng tăng lên từ 33%
năm 1986 lên 38,5% năm 2005. Tỷ lệ cơ cấu ngành của Việt Nam năm 2005 gần giống tỷ lệ cơ cấu ngành
của Malaixia những năm 80 và của Thái Lan những năm 70.
Tuy nhiên, khi so sánh với một số nước ở Đông Á thấy rằng, tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế của
Việt Nam vẫn chưa thể đạt đến mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Ví dụ như Nhật Bản tỷ trọng nông
nghiệp chỉ chiếm 2% GDP, ngành dịch vụ chiếm tới 61%; Hàn Quốc tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 6%
GDP, dịch vụ chiếm tới 51%. Ngành công nghiệp chế tác, một phân ngành quan trọng trong thời kỳ công
nghiệp hóa đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế các nước Đông Á. Tỷ trọng của ngành này luôn
chiếm đến 2/3 phần trăm trong tỷ lệ đóng góp của ngành công nghiệp trong GDP. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỷ
lệ này vẫn còn thấp, chiếm chưa đến 50%.
Bảng 2: Cơ cấu kinh tế các nước Đông Á năm 1999
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

12
Đơn vị: %
Nước
Nông

nghiệp
Công nghiệp Dịch vụ
Trung Quốc 18 49 (CN chế tác chiếm 37%) 33
Hàn Quốc 6 43 (CN chế tác chiếm 26%) 51
Malaysia 12 48 (CN chế tác chiếm 34%) 40
Thái Lan 11 40 (CN chế tác chiếm 29%) 49
Việt Nam 25,5 34,5 (CN chế tác chiếm 17,7%) 40
Nhật Bản 2 37 (CN chế tác chiếm 24%) 61
Philipin 17 32 (CN chế tác chiếm 22%) 51
Nhìn chung về cơ cấu ngành, trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng
trưởng cao nhưng bản thân quá trình tăng trưởng vẫn thể hiện chất lượng tăng trưởng còn thấp. Tốc độ tăng
trưởng của giá trị tăng thêm thấp hơn tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất, do chi phí trung gian (chi phí
nguyên vật liệu tăng, chi phí quản lý, chi phí sản xuất) tăng với tốc độ cao cả ba khu vực. Cụ thể, trong nông
nghiệp, tính chung trong thời kỳ 1991 - 2003, tăng trưởng giá trị sản xuất là 6,2%/năm, nhưng tăng trưởng giá
trị tăng thêm chỉ đạt 4,1%, chỉ bằng 2/3 tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất. Trong khu vực công nghiệp -
xây dựng tốc độ của giá trị tăng thêm liên tục thấp hơn giá trị sản xuất trong một thời gian khá dài, tính chung
trong thời kỳ 1991 - 2003, khi tốc độ tăng của giá trị sản xuất lên đến 13,9%/năm, thì giá trị tăng thêm chỉ đạt
11,7%/năm.
Chất lượng tăng trưởng thấp còn thể hiện ngay trong cơ cấu của từng ngành. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu
nông – lâm – ngư nghiệp còn rất chậm chạp, tuy tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp có giảm nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng lớn, tỷ trọng giá trị ngành chăn nuôi, ngành thủy sản vẫn còn thấp. Tỷ trọng chăn nuôi trong
thời gian tới có nguy cơ giảm xuống do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm sẽ khiến cho đầu tư vào ngành
chăn nuôi gia cầm bị hạn chế. Những cạnh tranh, tranh chấp đối với thủy sản Việt Nam gần đây, những đe
dọa của thiên tai bất thường, những khó khăn về giới hạn năng lực sản xuất và diện tích canh tác đối với
ngành thủy sản cũng khiến cho ngành này đang phải đứng trước nguy cơ tỷ trọng sẽ giảm trong thời gian
tới. Ngành lâm nghiệp sử dụng nhiều đất nhất trong tất cả các ngành kinh tế nhưng chỉ đóng góp 1,2% vào
GDP (số liệu năm 1999).
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị dịch vụ là xu thế chủ đạo trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước
phát triển, phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ công nghệ và phát triển nền kinh tế tri thức.
Trong khi đó ở Việt Nam, tỷ trọng giá trị dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế tăng với tốc độ chậm, thậm chí

còn có xu hướng giảm trong một số năm gần đây. Điểm yếu của khu vực dịch vụ nước ta chính là cơ cấu
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

13
ngành dịch vụ và tỷ trọng các phân ngành còn có sự chênh lệch lớn. Các ngành dịch vụ cơ bản (khách sạn,
nhà hàng, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc…) có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các phân ngành dịch
vụ khác lại gần như không có sự tăng trưởng. Trong 10 năm (1995 - 2005), tỷ trọng của các ngành dịch vụ
cơ bản chỉ chiếm dao động khoảng 46%, phân ngành khách sạn, nhà hàng trong nhiều năm vẫn giữ ở mức
7,9%, trong khi đó phân ngành thương nghiệp và sửa chữa vật phẩm tiêu dùng tăng nhanh và chiếm tỷ
trọng cao, 40,1%. Ngành vận tải và thông tin liên lạc là hai ngành tác động trực tiếp và không thể thiếu đối
với các ngành sản xuất cũng chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn là 9,2% năm 1995 và tăng lên 9,6% trong năm
2004. Các dịch vụ cao cấp như ngân hàng, tài chính, chuyển giao công nghệ đang trong giai đoạn hình
thành nên năng lực cạnh tranh vẫn còn thấp kém. Tỷ trọng ngành dịch vụ khoa học công nghệ mới chỉ
chiếm 1,4 - 1,5%, ngành bảo hiểm cũng chỉ chiếm 2% GDP (năm 2005), dự báo năm 2006 cũng chỉ tăng
lên 2,5%.
1.3.2. Cơ cấu kinh tế nhìn từ góc độ tổng cầu
Nếu nhìn nhận từ phía tổng cầu, ta thấy mức tăng trưởng cao mà nền kinh tế đạt được trong thời gian
qua là do tỷ lệ tiêu dùng đã giảm, tiết kiệm nội địa tăng dẫn đến đầu tư trong nước tăng lên.
Việt Nam tuân theo quy luật phát triển chung của các nền kinh tế. Theo đó, tỷ lệ tiêu dùng trong GDP
giảm dần và thường giảm nhanh trong giai đoạn đầu của sự phát triển, tiết kiệm dành cho tích lũy đầu tư sẽ
tăng lên. Tỷ lệ tiêu dùng của nước ta từ trên 98% năm 1986 giảm xuống còn 70,1% GDP vào năm 2005; tỷ
lệ tiết kiệm nội địa đã tăng lên từ 1,17% (1986) lên 29,9% (2005); tỷ lệ đầu tư tích lũy tài sản trong GDP
tăng từ 11,96% (1986) lên trên 38% (2005). Tuy nhiên, tốc độ giảm tỷ lệ tiêu dùng của Việt Nam còn
chậm, trung bình dịch chuyển là 1,5% hàng năm, trong khi của Thái Lan là 4,2%; Malaixia là 6,5%. Tỷ lệ
tiêu dùng của Việt Nam vẫn còn cao, chiếm 70,1% (năm 2005), tương đương với tỷ lệ của Thái Lan năm
1987 so với Malaixia thì năm đạt tỷ lệ đó còn lùi lại khá xa.
Biểu đồ 3: Tỷ trọng tiêu dùng, tích luỹ tài sản trong nước, tiết kiệm nội địa trong GDP trong giai đoạn
1986 – 2004
0
20

40
60
80
100
120
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
%GDP
tiªu dïng tÝch lòy tµi s¶n trong n­íc TiÕt kiÖm néi ®Þa
Nguồn: Tạp chí
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á


14
Quản lý Kinh tế số 7 ( tháng 4-2006)
Một đặc trưng trong cơ cấu tổng cầu của Việt Nam đó là tỷ lệ nguồn vốn nước ngoài hay nguồn tiết
kiệm nước ngoài - xác định bằng luồng tiền vào qua cân đối ngoại thương - chiếm một tỷ lệ cao, đặc biệt
trong các năm đầu của thời kỳ Đổi mới. Năm 1986, tỷ lệ vốn nước ngoài bằng 9,85% GDP và chiếm trên
84% tổng vốn đầu tư; năm 1988, tỷ lệ này là 11,06% GDP và chiếm 77% tổng vốn đầu tư, chủ yếu từ
nguồn viện trợ, vay vốn từ nước ngoài; năm 2005 tỷ lệ tiết kiệm nước ngoài chỉ đạt tỷ lệ khoảng 8,72%
GDP, chiếm xấp xỉ 23%. Thực chất, tổng vốn nước ngoài không ngừng tăng lên trong các năm, song nhờ
kinh tế dần phục hồi và tăng trưởng cao trong mấy năm gần đây đã giúp cho nội lực kinh tế của Việt Nam
mạnh dần lên, tỷ lệ tiết kiệm trong nước vượt tổng số nguồn vốn nước ngoài. Điều này cho thấy, chất
lượng tăng trưởng của Việt Nam ngày càng được đảm bảo ổn định, bền vững hơn, ít chịu tác động từ các
yếu tố biến động bên ngoài hơn.
Trong cấu thành của cầu, mức đóng góp của xuất khẩu cho tốc độ tăng trưởng GDP đang ngày cao và
càng gia tăng, trung bình là 19%/năm. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 26,503 tỷ USD,
trở thành nước đứng thứ 50 trong danh sách 50 quốc gia và vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa lớn nhất thế
giới.
Tuy tốc độ tăng của xuất khẩu có xu hướng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của nhập khẩu (năm 2005,
tăng xuất khẩu là 21,6%, nhập khẩu là 15,7%), song kim ngạch nhập khẩu luôn lớn hơn xuất khẩu, cán cân
thương mại của Việt Nam vẫn đang ở tình trạng thâm hụt. Cụ thể, năm 2005, trong khi xuất khẩu của Việt
Nam đạt kim ngạch 32,44 tỷ USD thì nhập khẩu cũng tăng lên tới 36,97%. Xu hướng này không hoàn toàn
có ý nghĩa tiêu cực, đây cũng là xu thế tất yếu của các nước đang trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa cần nhập nhiều thiết bị, công nghệ máy móc nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật cho sản
xuất trong nước. Song bên cạnh đó cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại gây hạn chế
khả năng đóng góp của xuất, nhập khẩu vào tăng trưởng.
- Thứ nhất, mặc dù xuất khẩu đã tăng trưởng rất nhanh trong thời kỳ sau đổi mới, nhưng cơ cấu xuất
khẩu lại hầu như không có nhiều thay đổi, chỉ thiên về xuất khẩu nông sản chưa chế biến (lúa gạo, cà phê,
thủy sản,…) và khoáng sản (chủ yếu là dầu thô), những mặt hàng có hàm lượng công nghệ, chất lượng cao
xuất khẩu còn ít. Tỷ trọng hàng hóa công nghệ cao xuất khẩu trên tổng giá trị chế biến hàng xuất khẩu của
Việt Nam chỉ khoảng 8,2%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, so với Malaixia là 67%; Trung
Quốc 39%; Thái Lan 49%; Philippin; 33% và Inđônêxia 18% (năm 1999).

- Thứ hai, nước ta hiện nay vẫn chưa xây dựng được mạng lưới các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ
trực tiếp cho các hoạt động sản xuất để xuất khẩu. Ngành sản xuất xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nhập
khẩu nguyên liệu để gia công như ngành da giày, may mặc,…
- Thứ ba, tỷ trọng hàng nhập khẩu phục vụ cho tiêu dùng và nguyên, vật liệu trong cơ cấu hàng nhập
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

15
khẩu tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ còn
khiêm tốn.
Như vậy, tuy đã có những sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế, nhưng nhìn một cách tổng thế, cơ
cấu kinh tế Việt Nam vẫn còn lạc hậu. Hiện tại cơ cấu kinh tế của Việt Nam giống như cơ cấu kinh tế của
một số quốc gia ASEAN đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX.
1.4. Lạm phát
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ hai chiều mật thiết với nhau. Một nền kinh tế tăng trưởng
cao thông thường sẽ kéo theo lạm phát cũng tăng. Một nền kinh tế nếu lạm phát thấp, không có lạm phát hoặc
thiểu phát (lạm phát âm) thì nền kinh tế đó cũng rất trì trệ và tăng trưởng thấp. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đồng nghĩa đất nước đó phải đối mặt với vấn đề lạm phát gia tăng, Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua hầu hết các loại lạm phát như lạm phát phi mã trong thời kỳ 1986 -
1988 với tỷ lệ lạm phát trung bình năm đạt 463,9%/năm; lạm phát cao trong thời kỳ 1989 - 1992, với tỷ lệ
lạm phát bình quân năm tương ứng là 46,7%/năm; lạm phát thấp trong thời kỳ 1996 - 1999 và 2001 - 2003
với tỷ lệ lạm phát tương ứng là 4,4%/năm và 4,3%/năm; thậm chí là giảm phát trong năm 2000 (-0,6%).
Tuy nhiên, trong hai năm 2004 - 2005 khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao 7,79% (năm 2004) và
8,5% (năm 2005) thì lạm phát của Việt Nam cũng tăng lên ở mức 9,5% (năm 2004) và 8,4% (năm 2005),
cao hơn cả tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Bảng 3: Tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam
giai đoạn 1998 – 2005
Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tăng trưởng GDP 5,8 4,8 6,8 6,8 7,0 7,3 7,6 8,4
Lạm phát 7,8 4,1 -1,7 0,8 1,5 3,0 9,5 8,4
Lạm phát thường được hiểu là sự gia tăng liên tục của mức giá chung theo thời gian hay là sự sụt giảm

liên tục sức mua của đồng tiền trong một khoảng thời gian nhất định. Yếu tố gây ra lạm phát bao gồm cả
yếu tố trong nước gây tăng giá hàng hóa và yếu tố tăng giá do bên ngoài tác động. Lạm phát của nước ta
tăng cao trong 2 năm trở lại đây chủ yếu do giá cả hàng hóa trên thế giới tăng đột biến như giá xăng dầu,
giá nguyên vật liệu (phân bón, phôi thép,...), giá vàng. Trong khi nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu nhập khẩu của nước ta (chiếm 68% năm 2004), do đó sự biến động giá cả các mặt
hàng này trên thế giới đã tác động trực tiếp đến giá cả các mặt hàng này ở trong nước, gây tăng lạm phát.
Các chính sách kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng trong việc điều tiết để ổn định và kiểm soát được lạm
phát. Việc dùng chính sách bơm tiền để kích cầu nền kinh tế trong năm 2000, khi nền kinh tế đang giảm
phát, lạm phát âm đã giúp tình trạng trì trệ được cải thiện, tỷ lệ lạm phát nhích lên gần 1% năm 2001 là một
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

16
minh chứng cụ thể. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần phải phát huy và nâng cao hiệu quả của các
chính sách vĩ mô, phối hợp linh hoạt giữa chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách tỷ giá nhằm điều tiết nền
kinh tế ổn định, đảm bảo tăng trưởng có chất lượng và bền vững.
2. Đánh giá kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu
Hơn mười năm qua, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam liên tục tăng, năm
sau cao hơn năm trước, với mức tăng bình quân hàng năm 7,5%. Từ một nước có nền công nghiệp kém
phát triển, Việt Nam ngày nay từng bước xây dựng một nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy vậy, vấn
đề nổi lên hiện nay đó là vấn đề chất lượng tăng trưởng liên quan đến tỷ trọng đóng góp của năng suất nhân
tố tổng hợp (TFP) còn thấp. Sự tăng trưởng đạt được chủ yếu do tăng vốn đầu tư và số lượng lao động chứ
không phải là do nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư, trình độ công nghệ và chất lượng lao động. Điều
này đe doạ tính bền vững trong hiện thời và tương lai, tạo ra mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng (số lượng)
và chất lượng, hiệu quả tăng trưởng.
Bảng 4: Tỷ trọng đóng góp của các nhân tố đầu vào
đối với tăng trưởng GDP (%)
Các yếu tố 1993 - 1997 1998 - 2002 2003 đến nay
Vốn 69,3 57,5 52,7
Lao động 15,9 20 19,1
TFP 14,8 22,5 28,2

Tổng hợp nguồn: Kinh tế Việt Nam 2003 - 2004 và Thời báo Kinh tế Việt Nam.
Hiện nay, ở nước ta, tăng trưởng kinh tế do yếu tố vốn và lao động còn chiếm chủ yếu, vai trò của TFP
có tăng, nhưng còn rất thấp nếu so với ngay các nước đang phát triển ở châu Á.
Từ 1993 đến nay, đóng góp của TFP vào GDP có tăng lên nhưng tăng còn dè dặt và chiếm tỷ trọng
không lớn (14,8% lên 28,2%); tỷ trọng đóng góp của lao động tăng lên trong giai đoạn 1998 – 2002
nhưng lại có xu hướng giảm dần giai đoạn sau đó; đóng góp từ vốn có giảm xuống (từ 69,3% xuống còn
52,7%), tuy nhiên yếu tố vốn vẫn chiếm chủ yếu trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. So sánh với các
nước trong khu vực, tỷ trọng TFP trong tăng trưởng của nước ta thấp hơn rất nhiều (thời kỳ 1980 – 2000
ở Hàn Quốc là 39,96%, Ấn Độ là 40,78%). Các chỉ số này phản ánh tính chất của tăng trưởng nước ta
còn nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Xu hướng phát triển chủ yếu dựa vào yếu tố vốn đầu tư,
trong khi đó, vốn tự có thấp, chủ yếu phải đi vay từ nước ngoài, vay trong dân cư,… sẽ khiến cho tăng
trưởng thiếu tính bền vững, ổn định, dễ bị tác động từ các yếu tố bên ngoài, đặc biệt từ sự biến động của
thị trường vốn. Yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, hiện đang có lợi thế so sánh (như giá rẻ,
dồi dào…) thì chỉ đóng vai trò thấp hơn nhiều so với yếu tố vốn trong tăng trưởng.
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

17
Nguyên nhân của tình trạng này ở nước ta có thể được xem xét dựa trên các yếu tố cơ bản trong năng
suất nhân tố tổng hợp đó là hiệu quả đầu tư, chất lượng lao động được thể hiện qua năng suất lao động và
tiến bộ khoa học công nghệ.
* Hiệu quả đầu tư: Lượng vốn đầu tư liên tục tăng trong những năm qua, năm 2000 vốn đầu tư thực
hiện theo giá thực tế là 151,2 nghìn tỷ đồng (bằng 34,2% GDP); năm 2005 tăng lên 324 nghìn tỷ đồng
(bằng 38,7% GDP). Tốc độ tăng về vốn đầu tư thực hiện cao hơn tốc độ tăng GDP, tăng 22,3% (giai
đoạn1991 – 1995); 12,2% (1996 – 2000) và 13% (2001 – 2005). Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư lại thấp và
ngày càng giảm, thể hiện qua chỉ số ICOR còn khá cao và liên tục tăng, cụ thể từ 2,7 (năm 1991) tăng dần
lên 3,6 (năm 1997); tăng cao đột ngột năm 1998 và 1999 tương ứng là 5,3 và 6,1; sau giai đoạn này, chỉ số
ICOR có giảm nhưng vẫn ở mức cao so với trước giai đoạn khủng hoảng, 4,9 (năm 2003) và lên cao nhất
vào năm 2005 (6,93). Có thể nói trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, nhờ đổi mới cơ chế, nền
kinh tế đã huy động được tài sản cố định và khai thác hiệu quả các công suất đã đầu tư trước đây, do vậy
kết quả đầu tư tương đối có hiệu quả, hệ số ICOR thấp. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á, cùng với

chính sách kích cầu, đầu tư vào kết cấu hạ tầng ở nông thôn tăng nhanh, hệ số ICOR đã tăng nhanh. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đầu tư kém hiệu quả, hệ số ICOR cao, đó là:
- Thứ nhất, hệ số ICOR tăng một phần là vì nước ta đang trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, cần phải đầu tư nhiều vào các công trình xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ
tầng, là những dự án đòi hỏi số vốn đầu tư cao nhưng lại chậm thu hồi vốn, nhất là các công trình
lớn và nhiều năm nữa mới đi vào hoạt động.
- Thứ hai, sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn đầu tư, cụ thể chúng ta quá chú trọng vào những ngành
công nghiệp được xếp vào nhóm có sức cạnh tranh thấp, thu hồi vốn chậm (mía, đường, sắt, thép,
phân bón, giấy…); đầu tư vào các dự án cần nhiều vốn nhưng sử dụng ít lao động; đầu tư dàn trải.
- Thứ ba, hiệu quả vốn đầu tư của khu vực Nhà nước còn rất thấp. Mặc dù vốn đầu tư của khu vực
Nhà nước chiếm hơn 56%, nhưng hiệu quả đầu tư ở khu vực này rất thấp. Theo đánh giá của Ngân
hàng Thế giới, hệ số ICOR trong khu vực Nhà nước là 7,2 trong khi đó ở khu vực tư nhân là 3,8.
- Thứ tư, công tác giám sát đầu tư còn hạn chế. Hầu hết các khâu từ quy hoạch, thiết kế, dự toán, đấu
thầu, thi công đến giám sát thi công đều chưa tốt dẫn đến không bảo đảm chất lượng công trình.
Đồng thời, làm gia tăng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước và nguồn vốn ODA. Vấn đề tham nhũng cũng là một trong những vấn đề gay
gắt hiện nay làm giảm hiệu quả đầu tư của nền kinh tế.
Hệ số ICOR tăng nhanh là một vấn đề đáng báo động đối với tình hình chất lượng đầu tư ở nước ta. Các
nhà kinh tế cho rằng, hệ số ICOR của nước ta hiện nay đã vượt qua ngưỡng an toàn. Trong khi chỉ số ICOR
của các nước trong khu vực Đông Nam Á như Xingapo, Malaixia, Thái Lan… chỉ dao động trong khoảng
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

18
2,5 đến 3,5. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, nếu so sánh với các nước ở giai đoạn tương đồng thì
chỉ số ICOR của Việt Nam so với Trung Quốc cao hơn khoảng 1,5 lần, với Thái Lan là 1,35 lần.
* Năng suất lao động xã hội: Một trong những nguyên nhân giải thích tại sao tỷ trọng cũng như tốc độ
tăng TFP của nước ta lại thấp như vậy xuất phát từ vấn đề năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động của
nước ta hiện đang kém từ 2 đến 15 lần so với các nước trong khu vực ASEAN. Năm 2004, năng suất lao động
của Việt Nam mới đạt 1.260 USD; trong cả thời kỳ 2002 - 2005 đạt 1.243,4 USD, thấp xa so với nhiều nước
trong khu vực (Trung Quốc: 2.152,3 USD, Thái Lan 4.514,1 USD, Malaixia 11.276,2 USD, Hàn Quốc

29.057,6 USD, Brunây 34.697,5 USD, Xingapo 48.563,9 USD, Nhật Bản 73.014,4 USD…). Hơn nữa, năng
suất lao động của nước ta tăng rất chậm, chỉ khoảng 4 - 5%/năm. Như vậy, rõ ràng đóng góp năng suất của lao
động trong thời gian vừa qua, chẳng những không tăng lên nhiều, so với các nước khu vực chúng ta lại càng
bị cách xa thêm nữa. Vậy năng suất lao động xã hội của nước ta ở mức thấp như vậy bắt nguồn do các nguyên
nhân nào?
- Thứ nhất, nguyên nhân xuất phát từ cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn
tập trung chủ yếu vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản (56,8%), còn nhóm ngành dịch vụ
chiếm tỷ trọng thấp (25,3%) và nhóm ngành công nghiệp - xây dựng còn chiếm tỷ trọng thấp hơn nữa
(17,9%), các tỷ lệ này gần như ngược với các tỷ lệ tương ứng của các nước trong khu vực. Trong khi
đó, năng suất lao động của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản chỉ đạt rất thấp (450 USD, riêng
ngành nông, lâm nghiệp đạt chưa được 400 USD), thấp xa so với năng suất lao động của nhóm ngành
dịch vụ (1.860 USD) và còn thấp hơn nữa so với năng suất lao động của nhóm ngành công nghiệp -
xây dựng (2.853 USD). Tính theo tỷ lệ năm suất lao động trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp chỉ
chiếm bằng 12,3% năng suất lao động của ngành công nghiệp và bằng 18% năng suất lao động ở khu
vực dịch vụ.
- Thứ hai, chất lượng lao động của nước ta còn rất yếu kém, xếp vào loại thấp (3,79 điểm/thang 10
điểm). Tỷ lệ lao động trẻ cao so với nhiều nước trong khu vực là một lợi thế của lao động Việt
Nam. Bên cạnh những ưu thế về thể chất, lao động trẻ thường là đội ngũ có học thức, năng động,
sáng tạo, ham hiểu biết, tiếp thu nhanh kỹ thuật và công nghệ mới. Mặt khác, trình độ học vấn của
lao động Việt Nam tương đối cao. Tỷ lệ người biết chữ trong trong số lực lượng lao động xã hội là
94,3% (năm 2002), tỷ lệ người không biết chữ chỉ có 3,75%. Hạn chế cơ bản của nguồn nhân lực
Việt Nam là số người được đào tạo nghề và kỹ năng chuyên môn quá ít, năm 2002 mới chiếm có
19,62%. Sự khác nhau về trình độ văn hóa, về đầo tạo nghề và kỹ năng chuyên môn cũng biểu hiện
khá rõ giữa lao động ở khu vực nông thôn và khu vực thành thị, cũng như giữa lao động nữ và lao
động nam. Một hạn chế nữa của lao động Việt Nam là ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công
nghiệp rất yếu thể hiện ở lối sống vô tổ chức, vô kỷ luật, làm việc tùy tiện, thiếu sự hợp tác giữa
các thành viên với nhau v.v... của nền kinh tế tiểu nông, tồn tại hàng ngàn đời nay đã ảnh hưởng
không nhỏ đến đội ngũ lao động Việt Nam hiện tại.
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á


19
- Thứ ba, năng suất lao động xã hội thấp còn là do trình độ công nghệ của nước ta còn thấp, hiệu quả quản
lý kém, dẫn đến lãng phí các nguồn lực lao động, không phát huy được tiềm năng.
Theo chấm điểm và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, về sức cạnh tranh của lao động theo thang
điểm 100 thì Việt Nam mới đạt 45 điểm về khung pháp lý, 20 điểm về năng suất lao động, 40 điểm về thái
độ lao động, 16 điểm về kỹ năng lao động và 32 điểm về chất lượng lao động. Các nhà kinh tế thế giới
cũng cảnh báo rằng các nền kinh tế có chất lượng nguồn nhân lực dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức
cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Như đã phân tích ở trên, các nguyên nhân liên quan đến cơ cấu lao
động và chất lượng lao động đã dẫn đến năng suất lao động xã hội thấp, sử dụng vốn con người không hiệu
quả, dẫn đến tỷ trọng thấp của TFP trong tăng trưởng kinh tế.
* Tiến bộ khoa học công nghệ: Yếu tố cơ bản trong TFP là tiến bộ khoa học công nghệ. Tiến bộ khoa
học công nghệ có tác động tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả đầu tư, thúc đẩy đóng góp
của yếu tố TFP trong tăng trưởng.
Đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ở nước ta trong những
năm qua mặc dù đã có những tiến triển khả quan, tác động đến tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực, góp phần
tạo ra nhiều sản phẩm mới, có giá trị kinh tế cao, song vẫn chưa tạo nên bước đột phá trong tỷ lệ đóng góp
của tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng trưởng. Theo tiêu chí đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D)
bình quân trên cán bộ nghiên cứu, Việt Nam thấp hơn Thái Lan 4 lần, Trung Quốc 7 lần, 8 lần so với
Malaixia và 26 lần so với Xingapo. Đáng lưu ý là đầu tư R&D của khu vực ngoài Nhà nước đang còn quá
thấp, mới đạt khoảng 19% trong khi mức độ này ở Trung Quốc là 45%, Malaixia 60% và Nhật Bản đạt trên
72%. Cuộc điều tra trên 7.850 doanh nghiệp công nghiệp của Tổng cục Thống kê trong năm 2005 cũng cho
thấy, chỉ có 3,86% trong số 293 doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, tỷ lệ
này sút giảm gần 2 lần so với kỳ điều tra của năm 2002 (chiếm 6,14%). Mặc dù chế biến là ngành được
khuyến khích mạnh mẽ, nhưng chỉ có 38 doanh nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống (chiếm 3,4% số
doanh nghiệp) đầu tư vào khoa học công nghệ.
Số lượng các bằng phát minh sáng chế trên một người dân chỉ bằng 1/11 so với Trung Quốc và Thái
Lan, bằng 1/88 so với Xingapo. Năng lực nghiên cứu cơ bản và phát triển công nghệ mặc dù được đánh
giá là có tiến bộ khả quan song mới chỉ thể hiện dưới dạng tiềm năng. Số lượng các cơ quan khoa học
công nghệ so với các nước là không nhiều, trình độ của cán bộ làm nghiên cứu khoa học công nghệ còn
thấp so với nhiều nước trong khu vực và khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội còn hạn chế.

Trình độ công nghệ trong nền kinh tế nước ta còn thấp, lạc hậu 3 - 4 thế hệ so với những nước công
nghiệp phát triển, đứng thứ 92 trong số 117 nước được điều tra (WEF 2005 - 2006). Công nghệ trong các
doanh nghiệp lạc hậu nhiều thế hệ so với khu vực. Chuyển giao công nghệ chưa có những tiến bộ cần thiết,
đặc biệt trình độ công nghệ thông tin còn rất thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao mới đạt 20,6%,
thấp xa so với các nước ASEAN; rất ít doanh nghiệp quan tâm đến thông tin về khoa học và công nghệ, chỉ
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

20
có khoảng 8% doanh nghiệp đạt được trình độ tiên tiến (phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài)
2
.
3. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Tăng trưởng về chất phải là quá trình tăng trưởng theo chiều sâu, đảm bảo nâng cao hiệu quả và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của ngành, của doanh nghiệp nói riêng. Đối với Việt Nam, mặc
dù đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng nhìn chung, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta vẫn còn kém. Xếp hạng năng lực cạnh tranh của nước ta rất
thấp và liên tục tụt bậc trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của WEF trong những năm gần
đây.
Bảng 5: Xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng
của Việt Nam
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Xếp hạng 48/33 49/59 64/75 60/80 60/102 77/104 81/117
Nguồn: WEF – Global Competitiveness Report.
Xếp hạng của nước ta tụt giảm là do các chỉ số năng lực cạnh tranh thành phần thấp (gồm có: chỉ số
công nghệ - TI: Technology Index; chỉ số thế chế công – PII: Public Institution Index; chỉ số môi trường vĩ
mô – MEI: Macroeconomic Environment Index) và có sự tụt giảm trong bảng xếp hạng:
Bảng 6: Xếp hạng các chỉ số năng lực cạnh tranh
của Việt Nam
Năm

GCI TI PII MEI
Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm
2004 77 3,47 92 2,92 82 3,66 58 3,82
2005 81 3,37 92 2,72 97 3,43 60 3,96
Nguồn: WEF - Global Competitiveness Report.
Nguyên nhân dẫn đến xếp hạng chỉ số công nghệ của nước ta thấp do trình độ công nghệ của nước ta còn
yếu kém. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng kể trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật (với sự ra đời của Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và Luật Đấu thầu năm 2006) và các chính sách cởi mở về xuất khẩu, song hệ
thống pháp luật của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất cập; còn thiếu tính nhất quán và ổn định. Việc thực thi
pháp luật không nghiêm cũng được coi là một nguyên nhân. Nạn quan liêu, tham nhũng tuy đã có những biện
2
Kết quả phân tích trên 42.000 doanh nghiệp ở 30 tỉnh, thành phố của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư cuối năm 2005.
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

21
pháp đấu tranh nhưng trong những năm gần đây vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng, dẫn đến chỉ số về
năng lực thể chế của nước ta còn rất thấp. Chỉ số về môi trường vĩ mô của Việt Nam cũng ở vị trí khiêm tốn.
Nguyên do môi trường kinh doanh còn chưa thực sự bình đẳng, còn quá nhiều doanh nghiệp nhà nước độc
quyền trên các lĩnh vực; tính minh bạch, công khai của nền kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp và cơ quan nhà
nước còn thấp.
II. CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG XÉT TRÊN KHÍA CẠNH MÔI TRƯỜNG
1. Đánh giá chất lượng môi trường Việt Nam
1.1. Tài nguyên đất
Việt Nam có diện tích tự nhiên 32.931.456 ha với 3/4 lãnh thổ là vùng đồi núi và trung du, trong đó
diện tích sông suối và núi đá không có rừng cây khoảng 1.370.100 ha (chiếm khoảng 4,06% diện tích đất tự
nhiên), phần đất liền khoảng 31,2 triệu ha (chiếm khoảng 94,5% diện tích tự nhiên), xếp thứ 58 trên thế
giới. Nhưng vì dân số đông (trên 80 triệu người) nên diện tích đất bình quân đầu người thuộc loại rất thấp,
xếp thứ 159 và bằng 1/6 bình quân của thế giới. Trong 10 năm qua, nhờ thực hiện chính sách thích hợp,
chúng ta đã khai khẩn được thêm 4.897.629 ha đất đưa vào sử dụng (đất nông nghiệp tăng thêm 2.352.105

ha; đất lâm nghiệp có rừng tăng thêm 2.180.235 ha và đất chuyên dùng tăng thêm 560.653 ha). Tuy nhiên,
tổng diện tích đất đưa vào sử dụng và diện tích đất bình quân đầu người thực tế lại đang có những biểu hiện
đi ngược lại nỗ lực của tăng diện tích đất canh tác, đất sử dụng của Việt Nam.
1.1.1. Diện tích đất sử dụng cho canh tác ngày càng bị thu hẹp
Diện tích đất canh tác của Việt Nam vốn đã thấp nhưng lại giảm theo thời gian do tệ phá rừng làm nương
rẫy, sự xói mòn và thoái hóa đất, tình trạng sa mạc hóa, sức ép dân số tăng, mất đất do đô thị hoá, công nghiệp
hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng.
Bảng 7: Giảm diện tích đất canh tác trên đầu người
ở Việt Nam
Năm 1940 1960 1970 1992 2000
Bình quân đầu người (ha/người) 0,2 0,16 0,13 0,11 0,10
Nguồn: Hội Khoa học Đất Việt Nam.
So sánh với các nước trong khu vực, số lao động trên 1 đơn vị diện tích của ta thuộc hàng cao nhất.
Theo số liệu năm 2000 của FAO cho thấy nếu ở Việt Nam có 3,2 lao động/ha thì ở Trung Quốc con số này
là 0,9 LĐ/ha, Myanmar là 1,6 LĐ/ha, Inđônêxia là 3,1 LĐ/ha, điều này có nghĩa diện tích đất nông nghiệp
trên một lao động ở nước ta vào loại thấp nhất trong khu vực. Thực trạng này bắt nguồn từ một số nguyên
nhân sau:
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

22
- Mất đất do đô thị hoá. Đô thị ngày càng mở rộng đồng nghĩa với việc diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp lại, đặc biệt phần diện tích đất tốt, đất thuộc vùng đồng bằng châu thổ trù phú. Điều này
gây ảnh hưởng trực tiếp, đe dọa đến nguy cơ thiếu đất canh tác trong tương lai gần, chưa kể đến các tác
động tiêu cực về mặt xã hội (lao động nông thôn không có việc làm, tệ nạn xã hội tăng lên,…) của quá trình
này. Trong vòng 10 năm từ năm 1990 đến năm 2000, vùng đồng bằng sông Hồng - nơi tốc độ đô thị hóa
diễn ra sôi động nhất cả nước, phần đất dành cho cơ sở hạ tầng và nhà ở tăng thêm 63.780 ha chiếm 4,31%
diện tích đất tự nhiên, nghĩa là mỗi năm mất khoảng 0,43% đất tự nhiên.
- Quá trình hoang mạc hóa làm diện tích đất canh tác bị thu hẹp. Nước ta hiện có khoảng 7.055.000 ha
đang chịu tác động mạnh bởi hoang mạc hóa, bao gồm đất trống bị thoái hóa mạnh, đất bị đá ong hóa
(khoảng 7 ngàn ha); đất bị xói mòn tại Tây Bắc, Tây Nguyên và một số nơi khác là 120 ngàn ha; đất bị

nhiễm mặn, nhiễm phèn ở đồng bằng sông Cửu Long là 30 ngàn ha; và đất khô hạn theo mùa hoặc vĩnh
viễn tập trung ở Nam Trung bộ là 300 ngàn ha.
- Quy mô dân số lớn và ngày càng lớn hơn. Quy mô dân số Việt Nam lớn, đứng thứ ba ở Đông Nam Á,
thứ 14 trên thế giới và là một trong những nước có mật độ dân số cao trên thế giới. Trong hơn một thập kỷ
trước đây, nước ta khống chế được tốc độ gia tăng dân số quá nhanh. Tuy nhiên, từ sau năm 2000 đến nay,
tốc độ này lại có chiều hướng gia tăng. Nguy cơ tái bùng nổ dân số đang đe dọa sự phát triển bền vững của
đất nước. Đây là áp lực rất lớn đối với những nỗ lực giải quyết việc làm, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ
bản và phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường. Quy mô phát triển dân số và mô hình tiêu dùng không
hợp lý đã tạo ra những sức ép rất lớn đối với đất đai, nguồn cung cấp năng lượng và tài nguyên thiên nhiên.
Cùng với sự gia tăng dân số, thì diện tích đất sử dụng cho canh tác ngày càng bị thu hẹp.
Bảng 8: Tỷ lệ hộ nông thôn không có đất
Vùng 1993 1998
Miền núi phía Bắc 2,.0 3,7
Đồng bằng sông Hồng 3,2 4,5
Bắc Trung Bộ 3,8 7,7
Duyên hải miền Trung 10,7 5,1
Tây Nguyên 3,.9 2,6
Đông Nam Bộ 21,3 28,7
Đồng bằng sông Cửu Long 16,9 21,3
Cả nước 8,2 10,1
Nguồn: Việt Nam tấn công đói nghèo, Ngân Hàng Thế giới, Hà Nội.
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

23
1.1.2. Suy thoái và ô nhiễm đất
Ngoài các nguyên nhân khách quan như vị trí địa lý, khí hậu…, hoạt động của con người như sự tăng dân số,
đói nghèo, kỹ thuật canh tác không hợp lý, mất rừng, cháy rừng, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng đô thị, khu công
nghiệp, khai thác khoáng sản… cũng tác động trực tiếp làm biến đổi tính chất đất và mất đất, làm cho đất không còn
tính năng sản xuất, từ đó dẫn đến quá trình suy thoái và ô nhiễm môi trường đất trở nên trầm trọng hơn. Các nguyên
nhân làm ô nhiễm môi trường đất bao gồm:

- Ô nhiễm do sử dụng phân bón hóa học: Sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật trong canh tác nông
nghiệp, bón phân không cân đối, nặng về sử dụng phân đạm và chất lượng phân bón không bảo đảm làm
cho hiệu quả phân bón thấp. Đồng thời lượng phân đạm dư thừa lại gây ô nhiễm môi trường đất. (ở nước ta,
có trên 50% lượng đạm, 50% lượng Kali và khoảng 80% lượng lân dư thừa).
- Ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật: Thuốc bảo vệ thực vật gây chết tất cả những sinh vật có hại và có
lợi, và tồn dư lâu dài trong môi trường đất – nước. Từ năm 2000, trung bình mỗi năm tiêu thụ trên 30 ngàn
tấn thuốc bảo vệ thực vật thành phẩm. Tổng lượng thuốc sử dụng hàng năm tăng từ 1,2 - 1,5 lần so với năm
1990. Mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Việt Nam còn ít so với các nước khác
(trung bình từ 0,5 – 1 kg/ha/năm), nhưng ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất.
- Ô nhiễm chất thải vào môi trường đất do hoạt động công nghiệp: Trong những năm gần đây, hàm
lượng kim loại nặng trong đất gần các khu công nghiệp đã tăng lên đáng kể (như tại cụm công nghiệp
Phước Long, hàm lượng Cr cao gấp 15 lần, Cd từ 1,5 đến 5 lần, As gấp 1,3 lần so với tiêu chuẩn).
1.2. Về nguồn nước
Việt Nam có nguồn tài nguyên nước ngọt rất dồi dào, hoàn toàn có thể đảm bảo được nguồn nước sinh
hoạt cho người dân (lượng nước tính trung bình trên đầu người của Việt Nam là 11.189 m
3
/người, cao gần
gấp đôi so với mức trung bình của thế giới), cũng như cho các mục đích để đáp ứng yêu cầu của phát triển
bền vững. Đây là một cơ sở rất quan trọng và thuận lợi cho Việt Nam để có thể đảm bảo được sự phát triển
bền vững của môi trường cũng như đạt được mục tiêu tăng trưởng có chất lượng.
Bảng 9: Tài nguyên nước tái tạo được của một số quốc gia (2002 - 2004)
Quốc gia Lượng nước (m
3
/người)
Việt Nam 11.189
CHDCND Lào 68.318
Campuchia 30.561
Trung Quốc 2.185
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á


24
Hàn Quốc 1.471
Trung bình các nước nghèo 50 - 500
Trung bình trên toàn cầu 6.538
Nguồn: Viện Tài nguyên Thế giới – WRI.
Mặc dù tài nguyên nước ngọt tương đối phong phú, đa dạng, có khả năng tái tạo cao nhưng lại rất phức
tạp về tính chất và đang có những diễn biến mà nếu không được quản lý tích cực và kịp thời sẽ là những
khó khăn to lớn mà ta phải đối mặt trong tương lai gần. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội, kéo theo
những tác động đến môi trường nói chung, môi trường nước nói riêng đang tiềm ẩn những nguy cơ, thách
thức trong tương lai gần.
Ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp đến sức khỏe con người, là nguyên nhân gây các bệnh suy
dinh dưỡng, làm thiếu máu, gây kém phát triển, tử vong, nhất là ở trẻ em. Có đến 88% trường hợp bệnh
tiêu chảy là do thiếu nước sạch, vệ sinh môi trường kém. Có nhiều nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường
nước, trong đó chủ yếu là những nguyên nhân sau:
1.2.1. Khai thác và sử dụng quá mức tài nguyên nước
Sự gia tăng dân số, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ tạo nên nhu cầu sử dụng nước lớn
trong khi nguồn tài nguyên nước không thay đổi, dẫn đến suy giảm nghiêm trọng cả về chất và về lượng
đối với tài nguyên nước.
Hiện nay có khoảng 60% đô thị có hệ thống cấp nước tập trung. Tuy nhiên, dịch vụ cấp nước đô thị còn
nhiều hạn chế. Hệ thống cấp nước đô thị xây dựng chắp vá, không hoàn chỉnh và đồng bộ. So sánh với năm
2000 tổng lượng nước sử dụng trong năm 2010 được dự báo sẽ tăng 14%; năm 2020, 25% và năm 2030,
38%. Với đà gia tăng được dự báo trên đây đến năm 2030 lượng nước sử dụng sẽ có thể lên tới gần 90 tỷ
m
3
/năm, tức bằng khoảng 11% tổng tài nguyên nước, hoặc 29% tài nguyên nước hình thành trên lãnh thổ
quốc gia.
1.2.2. Ô nhiễm nguồn nước
Việt Nam là một trong những nước đang ở trong tình trạng ô nhiễm nước nghiêm trọng và diễn ra với
tốc độ tăng nhanh nhất trên thế giới. Đặc biệt mức độ ô nhiễm nước ở một số khu công nghiệp, khu chế
xuất, cụm công nghiệp tập trung đã lên đến mức báo động.

Ô nhiễm nước mặt: Chất lượng nước ở thượng lưu của hầu hết các con sông chính của Việt Nam còn
khá tốt, trong khi mức độ ô nhiễm ở hạ lưu của các con sông này ngày càng tăng do ảnh hưởng của các đô
thị và các cơ sở công nghiệp. Đặc biệt, mức độ ô nhiễm tại các sông tăng cao vào mùa khô. Ở các hệ thống
sông chính trên cả nước đã thấy có hiện tượng hàm lượng BOD
5
và NH
4
vượt mức tiêu chuẩn cho phép từ
1,5 đến 3 lần, hàm lượng chất rắn lơ lửng vượt ngưỡng tiêu chuẩn cho phép loại A từ 1,5 đến 2,5 lần. Một
Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam và một số nước Đông Á

25
số điểm cũng đã có dấu hiệu bị ô nhiễm kim loại nặng. Trong khu vực nội thành của các thành phố lớn như
Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh... hệ thống các ao, hồ, kênh rạch và sông nhỏ đều ở tình trạng ô
nhiễm nghiêm trọng vượt quá mức tiêu chuẩn cho phép 5 - 10 lần. Việc khai thác nước quá mức và không
có quy hoạch đã làm cho mực nước dưới đất bị hạ thấp. Hiện tượng này thấy nhiều ở các khu vực đồng
bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Nước dưới đất đã xuất hiện dấu hiệu ô nhiễm phốt phát và
asen. Khai thác nước dưới đất quá mức cũng đã dẫn đến hiện tượng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển ở
nhiều nơi.
1.2.3. Vấn đề xử lý nước thải
a. Nước thải đô thị và công nghiệp
Hầu hết nước thải đô thị đều chưa được xử lý trước khi xả thải ra môi trường (chỉ khoảng 4,26% lượng
nước thải công nghiệp được xử lý đảm bảo tiêu chuẩn). Ngoài ra, hiện nay cả nước chỉ có một số bãi chôn
lấp rác có hệ thống xử lý nước rác hoạt động thường xuyên và đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Do đó, nước
thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt, nước rò rỉ từ các bãi chôn lấp rác thải và cả nước thải bệnh viện
(nguồn nước chứa nhiều thành phần nguy hiểm gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường) ngấm xuống đất
và xâm nhập gây ô nhiễm các tầng chứa nước dưới đất.
b. Nước thải từ hoạt động nông nghiệp và nước thải từ các nguồn khác tại khu vực nông thôn
Dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật và phân khoáng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, hoạt động
của các làng nghề trong nước tạo ra một lượng chất thải xả vào môi trường một cách bừa bãi và không

được xử lý gây ra nhiễm độc nước, dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.
Chất lượng nước không đảm bảo, nhất là nước sinh hoạt kéo theo đó là hàng loạt các vấn đề sức khoẻ
cộng đồng bị ảnh hưởng, chất lượng đời sống sẽ xấu đi. Điều này khẳng định tăng trưởng của Việt Nam
chưa thực sự bền vững về mặt môi trường và xã hội, tăng trưởng tuy có đạt được tốc độ cao nhưng chất
lượng cuộc sống của người dân lại đi xuống, nhiều nguy cơ tiềm ẩn đe dọa đến người dân trong tương lai.
1.3. Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm môi trường không khí đang là một vấn đề bức xúc đối với môi trường đô thị, công nghiệp và
các làng nghề ở nước ta hiện nay. Ô nhiễm môi trường không khí có tác động xấu đối với sức khoẻ con
người (đặc biệt là gây ra các bệnh đường hô hấp), ảnh hưởng đến các hệ sinh thái và biến đổi khí hậu (hiệu
ứng "nhà kính", mưa axít và suy giảm tầng ôzôn),... Công nghiệp hóa càng mạnh, đô thị hóa càng phát triển
thì nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không khí càng nhiều, áp lực làm biến đổi chất lượng không khí
theo chiều hướng xấu càng lớn, yêu cầu bảo vệ môi trường không khí càng quan trọng nhằm đảm bảo cho
nền kinh tế tăng trưởng có chất lượng.
2. Đánh giá về bảo tồn đa dạng sinh học

×