Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Vai trò truyền thông trong đời sống chính trị tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.71 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRUYỀN THƠNG VÀ
CHÍNH TRỊ.................................................................................................2
1.1. Lý luận về truyền thông...................................................................2
1.1.1. Khái niệm truyền thông...............................................................2
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của q trình truyền thơng.............................2
1.1.3. Vai trị truyền thơng trong cuộc sống..........................................3
1.2. Khái niệm chung về đời sống và đời sống chính trị......................4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VAI TRỊ TRUYỀN THƠNG TRONG
ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ TẠI VIỆT NAM...............................................8
2.1. Thực trạng đời sống chính trị và vai trị của Truyền thơng đến
đời sống chính trị tại Việt Nam..............................................................8
2.1.1. Thực trạng đời sống chính trị tại Việt Nam................................8
2.1.2. Vai trị của Truyền thơng đến đời sống chính trị tại Việt Nam.10
2.2. Thực trạng vận dụng Truyền thông trong đời sống chính trị tại
Việt Nam.................................................................................................13
2.2.1. Một số thành tựu của Truyền thơng đối với đời sống Chính trị 13
2.2.2. Những hạn chế của Truyền thông đối với đời sống Chính trị...15
2.2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế truyền thơng trong chính
trị.........................................................................................................15
2.3. Vai trị của truyền thơng đại chúng đối với công tác giáo dục tư
tưởng trong đời sống chính trị cho sinh viên......................................16
2.3.1. Khái niệm cơng tác giáo dục chính trị.......................................16
i


2.3.2. Nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục tư tưởng trong đời
sống chính trị.......................................................................................17
2.3.3. Vai trị của truyền thơng trong cơng tác giáo dục tư tưởng đời


sống chính trị cho sinh viên.................................................................17
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA TRUYỀN THƠNG TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ.....20
3.1. Không ngừng đổi mới tư duy lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo
chí điện tử, mạng xã hội nhằm thúc đẩy phát triển đúng hướng đi
đôi với quản lý chặt chẽ........................................................................20
3.2. Khẩn trương thể chế hóa, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý
trong thực tiễn đời sống chính trị- xã hội............................................21
3.3. Phát huy vai trị chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của
báo chí trong thơng tin tích cực...........................................................22
3.4. Thúc đẩy các giải pháp cơng nghệ, các biện pháp kỹ thuật phù
hợp bắt kịp với sự phát triển của Internet, mạng xã hội...................23
3.5. Truyền thơng chính trị xã hội khác biệt.......................................23
KÊT LUẬN....................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................26

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn,
gian khổ, giành được những thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất
nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của
nhiều đế quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Lực lượng lãnh đạo
nhân dân ta dành được những thắng lợi vĩ đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, các phương
thức truyền thông của loài người phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ
đến hiện đại. Ngày nay, truyền thông đã thực sự trở thành một lực lượng hết
sức quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội; làm thay đổi diện mạo cuộc

sống hiện đại, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người và tác động
đến mọi khía cạnh, bình diện của xã hội...; đồng thời, con người cũng đã biết
sử dụng những kỹ thuật công nghệ tiên tiến để truyền thơng như: truyền hình
cáp, vệ tinh địa tĩnh, internet... Các phương tiện truyền thông trở thành một
nhu cầu của đời sống, một công cụ bảo đảm cho sự phát triển bền vững của
mỗi quốc gia, một phương tiện hữu hiệu để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
của con người, một nhịp cầu nối liền các dân tộc trên hành tinh chúng ta.
Với xu thế phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu
rộng, sự cạnh tranh trở thành một quy luật tất yếu, diễn ra gay gắt trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, tư tưởng, xã hội… Để giành được ưu
thế một trong những yếu tố có tầm quan trọng rất lớn là việc sử dụng, nắm giữ
và chi phối các phương tiện truyền thông. Do đó qua q trình học tập và tìm
hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Vai trị truyền thơng trong đời sống chính trị
tại Việt Nam” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRUYỀN THƠNG
VÀ CHÍNH TRỊ
1.1. Lý luận về truyền thông
1.1.1. Khái niệm truyền thông
Khái niệm truyền thông được hiểu chính là q trình trao đổi và tương
tác các thơng tin giữa hai người hoặc nhiều người với nhau để tăng sự hiểu
biết, nhận thức. Hoặc có thể hiểu truyền thơng chính là những sản phẩm do
chính con người tạo ra là động thực thúc đẩy sự phát triển của xác hội.
Tác giả Nguyễn Văn Dững cho rằng: “Truyền thông là q trình liên
tục trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm
giữa hai hoặc nhiều người với nhau để gia tăng hiểu biết lẫn nhau và hiểu biết

về môi trường xung quanh, nhằm thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành
vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, các nhóm hoặc cộng
đồng xã hội nói chung, bảo đảm sự phát triển bền vững” (Dững, 2018, tr.20).
Ở định nghĩa này, cần lưu ý đến những khía cạnh: Truyền thơng là một q
trình lâu dài và liên tục, do đó, địi hỏi phải có thời gian để chủ thể và khách
thể có thể tiếp nhận và trao đổi thơng tin. Mục đích cuối cùng của truyền
thơng là đem lại sự thay đổi trong nhận thức và hành vi. Qua đó, chúng ta có
thể rút ra một số đặc tính của truyền thơng như: (1) tính phong phú, đa dạng
nhiều chiều; (2) tính tương tác; (3) tính mục đích; (4) tính thời sự; (5) tính đa
phương tiện; (6) tính định kỳ, đều đặn; (7)

tính phổ cập; (8) tính cơng khai

nhất quán.
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của quá trình truyền thông
Nguồn: Một trong những yếu tố mang đến nguồn thơng tin, nội dung
để khởi xướng cho q trình hình thành truyền thông

2


Thông điệp: Đây là một trong những nội dung trao đổi nguồn để truyền
đạt đến người tiếp nhận
Kênh truyền thông: Đây chính là phương tiện, cách thức và con đường
để truyền tải thông điệp từ nguồn đến người tiếp nhận
Người tiếp nhận: Xác định rõ đối tượng tiếp nhận thông tin, thơng điệp
khi truyền tải thơng tin
Phản hồi: Đây chính hành động của người tiếp nhận thông tin, thông
điệp phản hồi ý kiến bằng chính phát ngơn của cá nhân
Nhiễu: Đây là một trong những yếu tố làm lỗng thơng tin trong q

trình truyền thơng
1.1.3. Vai trị truyền thơng trong cuộc sống
Truyền thơng có nhiều lợi ích rõ rệt hỗ trợ con người phát triển có ảnh
hưởng mọi mặt trong cuộc sống con người. Bên cạnh đó, truyền thơng có sức
mạnh lan tỏa mạnh và nhanh tới cộng đồng. Từ định nghĩa về truyền thơng có
thể thấy đây chính là sự liên kết của con người với con người thông qua mọi
loại hình truyền thơng tạo gắn kết bền chặt và sâu rộng.
Truyền thơng có ảnh hưởng trực tiếp tới đất nước nhờ đó Nhà nước có
thể ban hành những chính sách về văn hóa- xã hội, chính sách kinh tế, luật
pháp tiếp cận đến người dân. Dựa vào truyền thơng nhà nước có thể tun
truyền đưa ra các ý kiến để thăm dị dư luận cải thiện chính sách và phát triển
nước nhà. Đây là cầu nối giúp nhà nước đồng thuận từ dân chúng.
Bên cạnh đó, lợi ích mà truyền thơng đem lại chính là cung cấp những
thơng tin về pháp luật, chính trị, đời sống tiếp nhận thêm tri thức cho toàn
dân. Giúp toàn dân nắm bắt được những thông tin xung quanh, thay đổi nhận
thức và hành động.

3


Ngoài phục vụ cho nhu cầu đời sống, truyền thống cịn hỗ trợ q trình
kinh doanh, quảng bá sản phẩm thu hút người tiêu dùng quan tâm, thúc đẩy
hành vi mua sắm và lựa chọn sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
1.2. Khái niệm chung về đời sống và đời sống chính trị
Khi nghiên cứu xã hội trong q trình hình thành phát triển của nó, chủ
nghĩa Mác tập trung vào cách tiếp cận hệ thống theo kiểu hình thái kinh tế xã hội như một bản thể có có kết cấu, có quy luật, có tiến trình phát triển thay
thế lẫn nhau và ngày càng tiến lên trình độ cao hơn, từ dã man lên văn minh,
tiến bộ và nhân văn hơn.
Nhưng chúng ta cịn thấy có cách tiếp cận khác, tức tiếp cận chủ thể,
coi xã hội như là dạng hoạt động sinh sống, dạng đời sống của con người với

những điều kiện sinh tồn, phát triển của nó. Như vậy, con người khơng chỉ
sản xuất, làm ăn như thế nào mà quan trọng hơn là sinh sống như thế nào
trong đời thường. Ta gọi đó là sinh sống như thế nào trong đời thường. Ta gọi
đó là cách tiếp cận đời sống, sinh sống hay cuộc sống ấy của lồi người trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tinh thần. Do đó, khi nói đời
sống chính trị - xã hội là nói một mặt đời sống trong tổng thể ấy
Triết lý Phật giáo xưa nay nghiên cứu đời sống, "đời là bể khổ", nhưng
chủ yếu về nội tâm và tâm linh. Nho giáo nghiên cứu nhiều về mốt số khía
cạnh đời sống chính trị, đạo đức, nhân sinh mang tính hướng ngoại. Triết lý
Lão giáo lại thiên về nghiên cứu đời sống hợp lẽ tự nhiên. Một số triết học
khác, nhất là phương Tây, lại chủ yếu nghiên cứu lĩnh vực giới (đời sống) tự
nhiên, hoặc lĩnh vực (đời sống) lý tính.
Triết học đời sống là một khuynh hướng lớn của triết học phương Tây
hiện đại đi sâu vào nghiên cứu đời sống của con người. Nhưng thường chỉ chú
ý mặt đời sống nội tâm chủ quan, nhằm phê phán sự thiếu sót của triết học tự

4


nhiên, duy vật tầm thường hay nặng về duy lý trước đó, nhưng lại thường
tuyệt đối hóa nó, dù nó chứa đựng những hạt nhân hợp lý.
Thực ra đời sống của con người, lồi người có cả hai mắt nội tâm và
ngoại tâm, khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, tinh thần và vật chất,
nhưng trọng tâm là sinh sống, thụ hưởng như thế nào thống nhất với nhau một
cách biện chứng theo tinh thần duy vật lịch sử và nhân văn. Cho nên, tuyệt
đối hóa mặt nào cũng phiến diện, sai lầm. Nhưng về mặt phương pháp trừu
tượng hóa chúng ta có thể đi sâu vào từng mặt của đời sống mà nghiên cứu,
phát hiện vấn đề.
Tác giả quan niệm nghiên cứu về đời sống của con người, loài người
một cách biện chứng, toàn diện là một phạm trù cơ bản, trung tâm của chủ

nghĩa duy vật nhân văn.
Đời sống là một khái niệm lớn, cơ bản của triết lý nhân sinh - nhân văn,
trong đó thể hiện hoạt động sống của con người đã và đang sống như thế nào,
với những điều kiện nào từ quá trình sản xuất đến tiêu dùng trong cả lĩnh vực
vật chất và tinh thần, chính trị và xã hội, nội tâm và ngoại tâm, cá nhân và
cộng đồng. Đời sống ở đó về thực chất là sự thể hiện quá trình hoạt động sống
đã và đang đáp ứng các nhu cầu và lợi ích của con người, kể cả mức sống,
hoàn cảnh sống, năng lực sống và chất lượng sống của con người như thế nào,
ở trình độ nào. Linh hồn của đời sống và thẻ hiện, thực hiện giá trị sống thông
qua các phương tiện và giao tiếp ngày càng mở rộng. Kỹ năng sống, năng lực
sống là điều kiện cần thiết nhưng sống là sống có giá trị, có ý nghĩa, vì đời
sống chỉ sống một lần, khơng thể sống hồi sống phí.
Xét theo dịng tiến hóa lịch sử thì nhìn chung đời sống, cuộc sống của
lồi người và mỗi người theo hướng ngày càng đầy đủ, phong phú, cao, dù
rằng không thể đồng đều giữa các cá nhân trong mỗi chặng đường của nó.

5


Hồ Chí Minh đã có lần đề cập xây dựng đời sống mới. Ngày nay chúng
ta có nói về xây dưng đời sống văn hóa, nhưng ít chú ý đến xây dựng đời sống
kinh tế, vật chất, đời sống chính trị, đời sống xã hội hoặc chúng ta nói về xây
dựng lối sống mới, nếp sống mới, nhưng ở đây thiên về góc nhìn văn hóa.
Có thể nói, lối sống và đời sống có nét chung về thực chất: một kiểu
hoạt động, sinh hoạt của con người trong quá trình thỏa mãn nhu cầu và làm
giàu những giá trị vật chất tinh thần của mình theo hướng ngày càng đầy đủ,
giàu có, ngày càng dân chủ, bình đẳng, cơng bằng, tự do, hạnh phúc, ngày
càng văn minh và tiến bộ.
Nhưng khái niệm đời sống rộng hơn lối sống. Lối sống chủ yếu nói
phương thức hoạt động sống. Khái niệm đời sống còn nhấn mạnh những điều

kiện, những tiền đề tạo nên hoạt động và tạo nên cuộc sống của con người,
đời người trong việc đáp ứng các nhu cầu cuộc sống, chứ không chỉ là
phương thức hoạt động, sống như thế nào. Đời sống xã hội là phải vừa có lý
vừa có tình, vừa có tính đạo lý vừa có tính pháp lý, vừa xuất thế vừa nhập thế,
vừa lý tưởng vừa hiện thực.
Đời sống của con người có nhiều mặt, đời sống cá nhân và đời sống xã
hội. Nhưng nhìn chung, đời sống của con người, lồi người là trên nền tảng
đời sống kinh tế. Đời sống xã hội hay chính trị - xã hội là đời sống trung tâm
của con người. Đời sống văn hóa tinh thần là đời sống ở đỉnh cao nhất trong
đời sống của con người.
Đời sống kinh tế là hoạt động kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi ích
kinh tế nhất định của những con người ở từng thời kỳ lịch sử, từng xã hội cụ
thể. Ta cũng có thể định nghĩa như vậy về đời sống tinh thần hay đời sống
chính trị - xã hội là đời sống trung tâm của con người. Đời sống văn hóa tinh
thần là đời sống ở đỉnh cao nhất trong đời sống của con người.

6


Con người có biết bao nhiêu nhu cầu và nhu cầu thì ngày càng mở
rộng, cao hơn, phong phú hơn trong nhiều lĩnh vực của đời sống. Cho nên, dù
là nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, chăm lo sức khỏe, an ninh, chăm lo
hạnh phúc cho bản thân, hoặc nhu cầu tham gia vào công việc xã hội, cộng
đồng khẳng định tư cách con người, giai tầng xã hội một cách dân chủ, bình
đẳng, tự do, cơng bằng và tiến bộ vì lợi ích, trong đó có lợi ích của mỗi người,
thì suốt một cuộc đời cũng không bao giờ cho là đủ.
Ở đây dù ta chỉ bàn về nhu cầu chính trị, nhu cầu xã hội gắn với đời
sống chính trị - xã hội thì cũng biết bao nhiêu vấn đề phong phú, khó khăn và
phức tạp.
Chính trị và xã hội là hai lĩnh vực đời sống khác nhau dù có quan hệ

nương tựa, bổ sung và tác động lẫn nhau, nên có khi ta nói chung một từ là
chính trị - xã hội. Nhưng nói vậy, thường thấy mặt chính trị mà coi nhẹ mặt
xã hội hay mặt xã hội bị lấn át hay đồng nhất với chính trị.
Ngày nay, chúng ta đã quan tâm hơn và làm rõ hơn về lĩnh vực phát
triển và quản lý sự phát triển xã hội. Cùng với tinh thần ấy cần quan tâm hơn
nữa về đời sống xã hội của con người, nơi có nhiều bức xúc bậc nhất, mà cân
đối nhất hiện nay. Có thể có những nghiên cứu riêng về đời sống chính trị và
nghiên cứu riêng về đời sống xã hội thì mới tránh phiến diện, quá nhấn mạnh
từng mặt.

7


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VAI TRỊ TRUYỀN THƠNG
TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng đời sống chính trị và vai trị của Truyền thơng đến đời
sống chính trị tại Việt Nam
2.1.1. Thực trạng đời sống chính trị tại Việt Nam
Đời sống chính trị nhìn theo đặc trưng cho ta thấy nổi lên thuộc tính
bản chất của nó là xã hội nước ta ngày nay từ xã hội truyền thống sang xã hội
hiện đại văn minh, do đó xét về mặt xã hội ngày càng nâng cao sinh hoạt dân
chủ, cơng khai, minh bạch. Đó là một xã hội ngày càng giàu có, văn minh,
bình đẳng, cơng bằng và tiến bộ, đồng thời đó cũng là xã hội có kỷ cương,
pháp quyền, đồn kết và đồng thuận hơn theo hướng xã hội chủ nghĩa qua
từng chặng đường cụ thể.
Những đặc trưng đó thể hiện và thấm nhuần trong quá trình phát triển
cá nhân và phát triển cộng đồng cũng như phát triển các giai tầng và toàn thể
dân tộc. Trong sự vận động biện chứng như vậy, dù trải qua những mâu thuẫn
của quá trình biến đổi, phát triển nhưng xã hội vẫn ngày càng nhân văn hơn
theo những giá trị chân - thiện - lợi - mỹ.

Xét về cấu trúc các bộ phận cấu thành của đời sống chính trị và xã hội
thì đời sống chính trị thể hiện trước hết trong hoạt động nhà nước sau đó
trong các tổ chức chính trị và tổ chức xã hội. Theo cách nói hiện đại, đó là
hoạt động của nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự trong quá trình thực thi
dân chủ và kỷ cương được đảm bảo thơng qua hệ thống thiết chế, thể chế
chính trị - xã hội tạo nên một thể hữu cớ thống nhất biện chứng của q trình
phát triển. Nhưng nói đời sống xã hội còn phải chú ý đến những nội dung xã
hội như lĩnh vực an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và các nhu cầu, lợi ích xã hội
- chính trị khác.
Xét về động lực thúc đẩy hoạt động, thì đời sống chính trị chính là đời
sống của con người, cộng đồng người đang hoạt động, thường rõ nhất ở
8


những giai tầng, cộng đồng, cá nhân theo đuổi nhu cầu và lợi ích khác nhau.
Chính nhu cầu, lợi ích đó như những giá trị của cuộc sống mà con người
hướng tới, không chỉ những một tồn tại sinh học xã hội mà còn vươn lên như
một thực tại xã hội văn hóa tự khẳng định nhân cách giá trị người của con
người, cộng đồng. Như vậy, nhu cầu, lợi ích và giá trị chính trị - xã hội như
động lực bên trong của hoạt động của chính họ và cũng là động lực đời sống
chính trị.
Xét về q trình, xây dựng đời sống chính trị như một q trình mâu
thuẫn thống nhất ở đó có sự tương tác của nhiều lực lượng xã hội và gắn với
nhiều nhu cầu lợi ích, giá trị khác nhau ở những chủ thể khác nhau, những lợi
ích khác nhau.
Xét về cấp độ, chúng ta có đời sống chính trị ở cấp vĩ mơ, cấp trung
mơ, cấp vi mơ và các tổ chức chính trị - xã hội như những tế bào của đời sống
chính trị - xã hội. Do vậy, xây dựng và phát triển đời sống chính trị, đời sống
xã hội ở tất cả các cấp độ ấy, quan trọng nhất là ở từng cơ sở.
Về hình thức đời sống chính trị, nó biểu hiện ở hoạt động thảo luận

những vấn đề chính trị, như bầu cử ở cơ quan, các các nhân đại diện quyền
lực của nhân dân; góp ý xây dựng quyết sách, thực hiện trong thực tế những
hình thức thực hiện phản biện và giám sát xã hội, hình thức phân tích dư luận
xã hội và trưng cầu dân ý; hình thức giáo dục, truyền thơng nói chung, nhằm
vận động quần chúng; đấu tranh bảo vệ các quyền lợi chính đáng và hợp
pháp…
Về hình thức đời sống xã hội, ta còn thấy nổi lên mặt dân sinh, thể hiện
ở những việc như chăm lo sức khỏe tinh thần, thể chất, phịng chống bệnh tật,
suy thối giống nịi; khắc phục bạo lực học đường, bạo lực gia đình, bạo lực
cộng đồng, vượt qua những bất ổn, bất an; tạo lập những hình thức bảo vệ
mơi trường sống, an tồn, xanh- sạch - đẹp.. từ cá nhân đến cộng đồng, tạo lập
9


cơ cấu dân số hợp lý, sinh đẻ có kế hoạch, nâng cao chất lượng dân số, nâng
cao năng lực sức lao động xã hội; tìm kiếm việc làm và thu nhập, thành đạt và
hạnh phúc; xây dựng các quan hệ tương trợ giúp đỡ những cá nhân, tầng lớp
xã hội khó khăn, gặp hoạn nạn; thực hiện các dịch vụ xã hội, phúc lợi xã hội
khác…
Do vậy, không nên để các vấn đề xã hội như vậy lẫn vào vấn đề chính
trị hay vấn đề văn hóa mà khơng có tính độc lập riêng, dù có thể lồng ghép
trong các chương trình hành động thực tế.
Nhưng tất cả những hình thức, phương diện ấy, xét đến cùng là nhằm
xây dựng đời sống vật chất, tinh thần, đời sống chính trị - xã hội của nhân dân
ngày càng giàu có, phong phú, vì hạnh phúc của quốc gia.
2.1.2. Vai trị của Truyền thơng đến đời sống chính trị tại Việt Nam
Truyền thông đại chúng được hiểu là hệ thống các phương tiện truyền
thông hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng
miền, cả nước, khu vực hay cộng đồng quốc tế) nhằm thông tin, chia sẻ, tập
hợp, giáo dục, thuyết phục và tổ chức đông đảo quần chúng nhân dân tham

gia giải quyết các vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội đã và đang đặt ra.
Truyền thông cung cấp thông tin hoạt động của các cơ quan nhà nước, là
một biện pháp để công khai, minh bạch hoạt động quyền lực nhà nước trước
nhân dân
Để kiểm soát quyền lực, người dân cần nắm được thông tin hoạt động
của Nhà nước, chỉ khi biết Nhà nước đã làm gì, làm như thế nào người dân
mới có thể đánh giá được hành vi của các chủ thể thực thi quyền lực nhà
nước. Truyền thông là cầu nối giữa chính quyền, Đảng lãnh đạo, tổ chức
chính trị - xã hội với nhau và với cơng dân, qua đó hình thành các “tam giác
thơng tin”, trong đó, Truyền thơng vừa cung cấp và tiếp nhận thơng tin, vừa
thiết lập mối liên hệ giữa các chủ thể. Nội dung thông tin mà truyền thông
cung cấp rất đa dạng và phong phú, phần lớn đáp ứng được nhu cầu về thông
10


tin của công chúng, các thông tin bao gồm: Những hoạt động diễn ra hằng
ngày của Chính phủ; các chủ trương, đường lối, chính sách, quy định pháp
luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị của đất nước…; Bên cạnh đó, Truyền
thơng cịn cơng khai cả những hoạt động bị “che giấu”. Thực tế cho thấy, với
đặc tính có khả năng xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, những
hoạt động điều tra nghiêm túc của Truyền thơng làm cho những thơng tin cần
thiết, có ý nghĩa quốc gia hoặc có tầm quan trọng đặc biệt đối với người dân
bị che giấu trở nên công khai, minh bạch, nhiều vụ tiêu cực lớn, dù thủ đoạn,
hành vi tham nhũng có tinh vi, phức tạp, nhưng cũng đã được nhân dân và
báo chí lật tẩy.
Hình thành dư luận xã hội chính trị
Vai trị kiểm sốt của Truyền thông chủ yếu dựa trên sức mạnh dư luận
xã hội mà chính nó đại diện. Từ dư luận xã hội sẽ dẫn đến hành vi xã hội rộng
lớn, tạo ra những khuôn khổ bắt buộc đối với việc nhận thức và giải quyết các
vấn đề chính trị, từ đó tạo ra một sức mạnh vơ hình đặt giới hạn với những gì

chính phủ có thể làm. Đối với người dân, dư luận xã hội là cách thức để người
dân tham gia lãnh đạo, quản lý xã hội, giám sát và kiểm sốt việc thực hiện
quyền lực Nhà nước. Nhờ thơng qua việc định hướng được tư tưởng, dư luận
xã hội mà cơng chúng có cái nhìn khách quan hơn, tồn diện hơn về hoạt
động của Nhà nước, hành vi của chủ thể có thẩm quyền, để từ đó có những
phản hồi ngược lại với Nhà nước. Nhìn chung, các luồng dư luận thường theo
ba xu hướng là “ủng hộ”, “phản đối” và “khơng rõ” hoặc “thích”, “khơng
thích” và “khơng trả lời” về một chính sách, quyết định nào đó của cơ quan
Nhà nước hoặc hành vi của chủ thể có thẩm quyền trong việc thực thi quyền
lực nhà nước.
Truyền thông đóng vai trị quan trọng trong giám sát và phản biện xã hội
Giám sát và phản biện xã hội được xem là một trong những chức năng
quan trọng hàng đầu của truyền thơng đại chúng, nhất là báo chí. Giám sát xã
11


hội của báo chí - Truyền thơng là giám sát chủ yếu bằng tai mắt của nhân dân,
giám sát bằng dư luận xã hội, đó là q trình giám sát mọi nơi, mọi lúc.
Được ví như người hoa tiêu trên con tàu, thay mặt nhân dân, Truyền
thông tiến hành theo dõi, phát hiện, phản ánh trung thực và cảnh báo những
sai lầm trong các quyết sách, hành vi vượt quá giới hạn của các cơ quan công
quyền, các công chức, viên chức cơ quan hành chính nhà nước, từ đó góp
phần điều chỉnh và hồn thiện dần hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện
chức năng của “tịa án cơng luận”, nhằm hạn chế, kiểm sốt việc lạm dụng
quyền lực. Chính vì thế, chức năng giám sát và phản biện xã hội của Truyền
thông ở các nước phương Tây được đề cao với đầy đủ hành lang pháp lý. Ở
Việt Nam, chức năng này cũng được ghi nhận đầy đủ trong các văn kiện của
Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, tại Đại hội lần thứ XI, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chính thức ghi nhận, yêu cầu báo chí cách mạng Việt
Nam đảm nhận vai trò, nhiệm vụ phản biện xã hội. Nghị quyết Đại hội nêu rõ:

“Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin,
giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng
vì lợi ích của nhân dân và đất nước...”.
Tuy nhiên, quyền lực của báo chí, Truyền thơng tuy vơ hình, bất thành
văn, nhưng lại có sức mạnh rất lớn nên khơng khỏi có những nhà báo lạm
dụng quyền lực này, nhất là trong lĩnh vực chính trị. Nhiều vụ việc phản biện
của báo chí, Truyền thơng chưa đúng sự thật, một số tờ báo đã đi quá xa trong
việc “đào bới” thông tin, đăng tải tin tức khi chưa được kiểm chứng. Các
thơng tin sai lệch hoặc bóp méo sự thật về đời sống chính trị, hay các chính trị
gia đã gây ra những tổn thất đối với lợi ích cá nhân, tổn hại khơn lường đối
với xã hội, và hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Nghiêm
trọng hơn, sự phát triển nở rộ và thịnh hành của truyền thơng mới nói chung
và mạng xã hội nói riêng như Facebook, Twitter, Instagram, Youtube… vơ
hình chung trở thành công cụ đắc lực giúp cá nhân, các thế lực thù địch,
12


chống phá được tự do đưa lên mạng các thông tin khơng được kiểm sốt, rồi
tin xấu, tin độc hại, bơi nhọ, bịa đặt... núp bóng phản biện xã hội. Điều này
gây khơng ít phiền tối cho nhà quản lý, cũng như gây hoang mang dư luận,
làm nảy sinh các nguy cơ đối với an ninh, chính trị, xã hội trong đó có việc
giám sát, kiểm sốt quyền lực nhà nước.
2.2. Thực trạng vận dụng Truyền thông trong đời sống chính trị tại Việt
Nam
2.2.1. Một số thành tựu của Truyền thơng đối với đời sống Chính trị
Từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước năm 1986, Đảng ta đã
xác định truyền thơng có vai trị rất quan trọng trong việc góp phần làm mạnh
hóa đời sống xã hội nói chung và kiểm sốt quyền lực nhà nước nói riêng.
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay được trợ lực bởi một hệ
thống truyền thông đồ sộ, bao gồm: 859 tờ báo, tạp chí in, trong đó có 199

báo, 660 tạp chí; 135 báo, tạp chí điện tử; 67 đài phát thanh, truyền hình
Trung ương và địa phương, trong đó có 2 đài quốc gia là Đài Truyền hình
Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam, 1 đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC và
64 đài phát thanh, truyền hình địa phương… Tồn bộ hệ thống truyền thông
trên là cơ quan của các tổ chức đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, chịu sự quản
lý chặt chẽ của Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin - Truyền thông.
Trong thời gian qua, hệ thống truyền thông đã thơng tin tun truyền
kịp thời, trung thực, tồn diện đời sống chính trị, là cơ quan ngơn luận của
Đảng và Nhà nước. Báo chí đã đưa chủ trương của Đảng, Nhà nước tới gần
hơn với nhân dân, tham gia giám sát, phản biện, theo dõi quá trình xử lý các
vụ việc; phát hiện những hạn chế, bất cập của thể chế pháp luật, cơ chế chính
sách; phát hiện, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện
tượng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Đặc biệt ,truyền thơng đã nêu bật,
khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước "khơng có vùng cấm,
13


khơng có ngoại lệ, khơng có đặc quyền, bất kể người đó là ai" trong việc đấu
tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Hơn 70% số các vụ tham nhũng
chủ yếu là do nhân dân và các cơ quan báo đài phát hiện, trong cuộc thi “Báo
chí với cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí” năm 2019 có
tới 1.046 tác phẩm dự thi, trong đó có 1.002 tác phẩm của 4 thể loại: Báo in,
báo điện tử, phát thanh, truyền hình của trên 100 cơ quan báo chí ở Trung
ương và địa phương. Nhiều phóng sự truyền hình, phát thanh, bài chun
luận, phóng sự trên báo in, báo điện tử công phu từ 3-5 kỳ, tập trung vào phản
ánh các vụ án tham nhũng; công tác cải cách bộ máy hành chính; phịng
chống tham nhũng, lãng phí. Điển hình như: Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình
Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thơng tấn xã Việt Nam, Lao động,
Thanh niên, Tuổi trẻ, Công an nhân dân, Tiền phong, Pháp luật TP . Hồ Chí

Minh.
Rất nhiều thơng tin về hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt,
làm thất thoát tài sản của Nhà nước, hành vi tham ơ được báo chí, truyền
thơng đề cập và sau đó Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ,
Thanh tra Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng, các địa phương phải vào
cuộc xác minh, điều tra, xử lý nghiêm như: vụ “Sai phạm lớn tại Tập đồn
Cơng nghiệp Cao su Việt Nam: Đốt tiền vào cơng ty sân sau” của Báo Thanh
niên, số 307 ra ngày 03/11/2017; bài viết trên Báo Công lý, số 25 ra ngày
29/03/2017 “Bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ: Có hay không việc bao
che cho sai phạm và trù dập người đấu tranh; loạt 4 bài: “Kết quả thanh tra về
đất đai tại huyện Sóc Sơn” (Báo Kinh tế - Đô thị);… cho tới các đại án kinh tế
xảy ra tại Ngân hàng Xây dựng (VNCB), Ngân hàng Đại dương
(OceanBank), Ngân hàng Công Thương (VietinBank), Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nơng thơn (Agribank). truyền thơng cũng đóng vai trị
rất lớn đối với chủ trương của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác
cán bộ khi đưa tin những vụ bổ nhiệm cán bộ “thần tốc” Lê Phước Hoài Bảo,
14


Trần Vũ Quỳnh Anh, Vũ Minh Hoàng, Huỳnh Thanh Phong… Việc đưa tin
kịp thời các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội quan
tâm đã giúp người dân có thơng tin kịp thời, tránh sự hiểu lầm, bưng bít sự
việc, tạo niềm tin cho người dân vào công lý, vào sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng.
2.2.2. Những hạn chế của Truyền thông đối với đời sống Chính trị
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, việc sử dụng truyền thơng
trong kiểm sốt quyền lực nhà nước vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế như
nhiều cơ quan báo chí cịn tình trạng cung cấp các thông tin sai lệch, chưa
được kiểm chứng, tràn làn các thông tin bôi nhọ, vu khống, tin giả trên mạng
xã hội, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động như Việt Tân, Phong trào

anh em Dân chủ, Hội cờ vàng… lợi dụng các trang mạng xã hội như
Facebook, Youtube kết hợp với các đài, báo phản động ở bên ngoài, sử dụng
các đối tượng trong nước thu thập thông tin, trả lời phỏng vấn về các vấn đề
nhạy cảm, phức tạp để phát tán tài liệu, video tạo ra các “chiến dịch truyền
thông” nhằm tuyên truyền phá hoại tư tưởng, tấn cơng trực diện vào vai trị
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước và hệ hống pháp luật
Việt Nam nhằm tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm, tư tưởng, gây tâm
lý hoang mang, hồi nghi, làm suy giảm lịng tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với xã hội.
2.2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế truyền thơng trong chính trị
Có nhiều ngun nhân dẫn đến những hạn chế trên, nhưng tựu chung
lại có 5 nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, chúng ta chưa dự liệu hết các thách thức, nguy cơ tiềm ẩn của
truyền thông trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó chưa có
các chính sách và chiến lược phù hợp để giải quyết các vấn đề đặt ra. Đặc biệt
là việc kiểm sốt thơng tin và cơng tác quản lý thông tin và truyền thông của
15


nước ta vẫn đi theo quan điểm, tư duy, cách thức quản lý báo chí truyền
thống, phản ứng chậm chạp và chưa đạt hiệu quả.
Hai là, mặc dù Quốc hội đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin, quy định
rõ các thông tin bắt buộc yêu cầu các cơ quan nhà nước phải công khai, tuy
nhiên việc cung cấp thông tin của nhiều cơ quan Nhà nước còn thiếu chủ
động, chưa kịp thời, gây khó khăn cho cơng chúng, cơ quan báo chí tiếp cận
thơng tin, từ đó tạo điều kiện cho việc hình thành và phát tán các nguồn thông
tin giả, thông tin sai sự thật, thông tin chưa được kiểm chứng.
Ba là, một số cơ quan, nhà báo, người làm cơng tác truyền thơng thiếu
trách nhiệm chính trị, sự suy thối, phai nhạt về bản lĩnh chính trị, đạo đức,
thiếu cẩn trọng khi khai thác thông tin, xử lý thông tin trước khi quyết định

loan tin.
Bốn là, hiện nay pháp luật cũng đã có những quy định, biện pháp, chế
tài xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực truyền thông, đặc biệt là truyền
thông trên mạng xã hội như Luật An ninh mạng và một số văn bản khác. Tuy
nhiên, chế tài xử lý chưa thực sự theo kịp thực tiễn, mức phạt cịn nhẹ khơng
đủ sức răn đe; các quy định cũng chưa rõ ràng, cụ thể nên khó xử lý các hành
vi vi phạm.
Năm là, người dân chưa có những kỹ năng cần thiết để nhận diện, kiểm
chứng, chọn lọc thông tin, đặc biệt là một bộ phận thanh niên không đủ tỉnh
táo, kiên định với lập trường cách mạng, bản lĩnh chính trị, dễ bị cuốn theo
những thông tin sai lệch, luận điệu xun tạc của kẻ thù.
2.3. Vai trị của truyền thơng đại chúng đối với công tác giáo dục tư
tưởng trong đời sống chính trị cho sinh viên
2.3.1. Khái niệm cơng tác giáo dục chính trị
Khái niệm cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng được hiểu: “là q trình
tác động vào nhận thức của khách thể những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa Mác
16


– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, thông qua một hệ thống các biện pháp, nhằm từng
bước xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học đúng đắn, nâng
cao bản lĩnh chính trị, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội”. “Xác định khái niệm giáo dục chính trị tư tưởng”.
2.3.2. Nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục tư tưởng trong đời sống
chính trị
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơng tác giáo dục chính trị,
tư tưởng cho sinh viên là tác động vào nhận thức và tư tưởng của sinh viên ở
một số vấn đề sau:
Một là, nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống.
Hai là, hiểu đúng và chấp hành những quan điểm, chủ trương của
Đảng; chấp hành nghiêm túc những chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Ba là, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bốn là, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa trong tư tưởng văn hóa của nhân
loại.
Năm là, hình thành một thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng, phương pháp tư duy biện chứng và hành động khoa học.
Sáu là, góp phần hình thành đạo đức lối sống lành mạnh và phát huy
tính tích cực chủ động của sinh viên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
2.3.3. Vai trị của truyền thơng trong cơng tác giáo dục tư tưởng đời sống
chính trị cho sinh viên
Khi tiến hành phân tích cụ thể những đặc điểm và chức năng của truyền
thông đại chúng, kết hợp với thao tác đối chiếu, so sánh với những nhiệm vụ
17


cơ bản của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, chúng ta có thể xác định
được vai trị của truyền thơng đại chúng trong cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho sinh viên như sau:
Truyền thông cung cấp cho sinh viên những thơng tin về tình hình trong
nước và thế giới nhanh chóng và đầy đủ
Vai trị thơng tin của truyền thơng đại chúng giúp sinh viên có cái nhìn
khách quan, đa chiều, qua đó có cơ hội làm giàu tri thức của bản thân. Bên
cạnh đó, sinh viên cũng có thể bị ảnh hưởng từ các hiện tượng tiêu cực từ xã
hội. Chính vì thế sinh viên cần tìm cho bản thân các nguồn cung cấp thơng tin
tin cậy như những trang tin điện tử có xuất bản từ báo in, các trang tin điện tử
đã được kiểm duyệt thông tin.
Truyền thông là công cụ hiệu quả để tuyên truyền các quan điểm, chính

sách của Đảng, Nhà nước cho sinh viên
Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục những quan điểm, chính
sách của Đảng, Nhà nước ln có vị trí và vai trị vơ cùng quan trọng trong
quá trình xây dựng đất nước. Sinh viên là lực lượng trí thức trẻ, do đó, cơng
tác này càng phải được coi trọng trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng và phát
triển cho họ.
Để đạt hiệu quả cao, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục những
quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước cho sinh viên cần có phương thức
mới – phương thức này phải có tác động nhanh, sức lan tỏa rộng và đáp ứng
thị hiếu của đối tượng có trình độ, năng động, sáng tạo. Truyền thông đại
chúng với những công cụ, phương tiện hiện đại có thể tun truyền quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đến sinh viên một cách nhanh chóng
khiến hiệu quả tuyên truyền được nâng cao.
Truyền thông giúp sinh viên gìn giữ và quảng bá các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc
Ứng dụng các phương thức hiện đại của truyền thông đại chúng để bảo
tồn và giới thiệu các giá trị truyền thống của dân tộc sẽ giúp sinh viên tiếp cận
18



×