MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU........................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG...........................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VĂN HĨA
CHÍNH TRỊ.................................................................................................2
1.1. Khái niệm văn hóa chính trị..................................................2
1.1.1. Định nghĩa:........................................................................2
1.1.2 Cấu trúc của văn hố chính trị..........................................2
1.2. Đặc điểm và chức năng của Văn hóa Chính trị...................4
1.2.1. Đặc điểm của văn hố chính trị.........................................4
1.2.2. Chức năng của văn hố chính trị......................................8
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI.......................................................................10
2.1. Thực trạng Văn hóa Chính trị Việt Nam trong thời kỳ
Covid- 19................................................................................................10
2.1.1. Chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa tập thể........................10
2.1.2. Khoảng cách quyền lực...................................................12
2.1.3. Mức độ tránh tính bất định.............................................13
2.1.4. Tính cương quyết với tính mềm dẻo...............................14
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với Văn hóa Chính trị Việt Nam
hiện nay..................................................................................................16
CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI.............................................................................................18
i
3.1. Phương hướng giáo dục và nâng cao văn hóa chính trị ở
nươc ta hiện nay....................................................................................18
3.1.1. Hình thành và phát triển những cơ sở kinh tế, chính trị, xã
hội, tư tưởng cho VHCT hiện đại........................................................18
3.1.2. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao trình độ nhận
thức, năng lực tư duy, tích tích cực, chủ động nhạy bén chính trị cho
các chủ thể...........................................................................................19
3.1.3. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn HTCT, bảo đảm sự lãnh đạo
chính trị duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam,...............................19
3.1.4. Tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận....19
3.2. Giải pháp phát triển nền Văn hóa chính trị Việt Nam.....20
3.2.1. Xây dựng một nền văn hố ngoại giao............................20
3.2.2. Tơn vinh những giá trị phổ q.......................................21
3.2.3. Xây dựng nền pháp quyền toàn cầu................................21
3.2.4. Tiến tới một cộng đồng văn hố tồn thế giới................22
3.2.5.. Giữ vững bản sắc văn hóa Việt Nam trong ngoại giao
văn hóa vì mục đích hịa bình, hội nhập và phát triển bền vững.........23
KẾT LUẬN..........................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................25
ii
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Văn hóa chính trị thời nào cũng có và ln vận động, thay đổi. Dù có
thăng trầm, thối bộ hay tiến bộ, thì dịng chảy văn minh chính trị vẫn ln
tồn tại, thậm chí trong nhiều thời kỳ cịn đóng vai trị là “dịng chảy” chủ đạo,
mang tính định hướng, dẫn dắt các “dịng chảy” khác. Từ khi ra đời, sự vận
động chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy rất rõ tính tiếp biến của
văn hóa chính trị, tuy có thăng, có trầm, nhưng căn bản là ngày càng hoàn
thiện, ngày càng tạo dựng được vị thế chính trị - xã hội trong lịng nhân dân.
Một đảng chính trị đạo đức, văn minh phải là một đảng mạnh về tổ
chức, có cơ sở triết lý theo đuổi, có khả năng dẫn dắt một dân tộc - quốc gia
phát triển bền vững, có tín nhiệm, tạo được sự hài lòng và đồng thuận với
nhân dân và củng cố vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Từ quan điểm chứa
đựng yếu tố văn hóa nói về Đảng Cộng sản Việt Nam “Đảng ta là đạo đức, là
văn minh” thì thấy các thuộc tính trong quan niệm về đảng văn minh cũng
chính là những tiêu chí hồn thiện của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối xây dựng Đảng và lãnh đạo đất nước chính là thực hiện sứ
mệnh chính trị (sứ mệnh cầm quyền) và sự tự hoàn thiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nhận thức những vấn đề đặt ra hiện nay cần phải giải quyết thì có
nhiều nhưng có thể nêu một số nhóm vấn đề có tính căn bản, xun suốt trong
quá trình lãnh đạo của Đảng ta.
Nắm bắt được điều đó, qua q trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã
chọn đề tài “ Văn hóa chính trị Việt Nam thời kỳ đổi mới” để có cái nhìn
sâu và rộng hơn.
1
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VĂN HĨA
CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm văn hóa chính trị
1.1.1. Định nghĩa:
Trên cơ sở quan điểm mang tính định hướng của tư tưởng Hồ Chí
Minh, các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn đạt về
khái niệm Văn hóa chính trị(VHCT). PGS.TS Hồng Chí Bảo quan niệm:
“VHCT là chất lượng tổng hòa của tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo
thành ý thức chính trị cơng dân, thúc đẩy họ tới những hành động chính trị
tích cực phù hợp với lý tưởng chính trị của xã hội, là thói quen và nhu cầu
tham gia một cách tự giác chủ động vào các quan hệ chính trị xã hội, trở
thành giá trị xã hội của cơng dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc đấu
tranh vì lợi ích chung của xã hội vì tiến bộ và phát triển”
Khoa chính trị học Học viện Báo chí tun truyền - Hà Nội định nghĩa:
“Văn hố chính trị là một lĩnh vực biểu hiện đặc biệt của văn hóa của lồi
người trong xã hội có giai cấp được hiểu là trình độ phát triển của con người
được thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống
quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ
lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã
hội”
1.1.2 Cấu trúc của văn hố chính trị.
Xác định cấu trúc của VHCT phải gắn liền với những khía cạnh khác
nhau của nó, có hai phương diện cơ bản:
a. VHCT với tư cách là hệ thống các giá trị.
Những giá trị chính trị là lí do, là định hướng và lí giải hành động của
chủ thể chính trị, thể hiện trạng thái, nhu cầu và triển vọng phát triển của xã
2
hội cũng như của các thành viên, các nhóm trong xã hội. Với ý nghĩa đó,
VHCT là kết quả tổng hợp của các giá trị sau.
b. VHCT với tư cách là sản phẩm hoạt động chính trị của các chủ thể
chính trị: cá nhân và tổ chức
VHCT là do con người trong quan hệ với chính trị sáng tạo nên. Các
giá trị chính trị thể hiện bản chất của các hoạt động chính trị của các chủ thể
trong q trình thực hiện lợi ích giai cấp. Chính trong thực tiễn chính trị, các
chủ thể tạo cho mình hệ thống các giá trị VHCT, tạo nên đặc trưng, bản chất
VHCT cho mình
* VHCT cá nhân.
VHCT cá nhân thường được nhìn nhận, đánh giá qua những yếu tố
như: trình độ hiểu biết và sự giác ngộ chính trị của mỗi cá nhân trong tư cách
con người chính trị của nó (cơng dân, một người cán bộ, một thủ lĩnh). Trình
độ đó được biểu hiện ở ý thức chính trị, thái độ, lập trường quan điểm chính
trị; mức độ nhận thức, đánh giá các sự kiện, các diễn biến chính trị; sự lựa
chọn tham gia của cá nhân vào các hoạt động chính trị thực tiễn; thái độ và
mức độ phản ứng hay hưởng ứng trước một tình huống chính trị nào đó trong
đời sống xã hội. VHCT cá nhân vừa góp phần tạo lập các giá trị, vừa góp
phần hình thành dư luận xã hội tích cực đấu tranh chống những hành vi gây
tổn hại tới lợi ích chung của xã hội.
* VHCT của tổ chức (văn hóa tổ chức).
VHCT của tổ chức do VHCT của cá nhân hợp thành. Nhưng để tạo nên
sự thống nhất giữa VHCT của các cá nhân trong tổ chức thì VH tổ chức phải
là sự đồn kết, sự phối hợp, sự thống nhất trong mục tiêu, lý tưởng và trong
hành động chính trị. Do vậy, để duy trì, phát triển VH tổ chức thì phải thực
hiện và giữ vững các nguyên tắc chính trị với ý nghĩa là những chuẩn giá trị
VHCT .Những giá trị VH tổ chức ngoài việc được mọi thành viên trong cộng
3
đồng chấp nhận và tự nguyện phục tùng (được đảm bảo về mặt xã hội) còn
phải được đảm bảo về mặt pháp lý.
1.2. Đặc điểm và chức năng của Văn hóa Chính trị
1.2.1. Đặc điểm của văn hố chính trị.
* VHCT bao giờ cũng mang tính giai cấp.
VHCT hình thành trong thực tiễn đấu tranh giai cấp, do đó nó luôn bị
chi phối bởi thế giới quan, hệ tư tưởng, những quan điểm chính trị của giai
cấp nhất định và nó phục vụ lợi ích của mỗi giai cấp. Khơng bao giờ có những
giá trị chính trị chung chung. Chính trị và công việc nhà nước đều là phạm vi
hoạt động gắn với những quan hệ quyền lực. Do vậy, bất cứ hành vi nào của
chủ thể chính trị khi đã chịu sự điều chỉnh của các chuẩn giá trị VHCT cũng
là hành vi hướng tới thực hiện lợi ích giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp
ấy một cách nhân văn.
Tuy rất quan trọng, nhưng tính giai cấp khơng phải là thuộc tính duy
nhất của VHCT. Tính dân tộc và tính nhân loại ln tồn tại trong VHCT của
từng giai cấp. Đặc biệt trong bối cảnh của thế giới hiện đại mối quan hệ giữa
tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại càng gắn bó chặt chẽ hữu cơ hơn
bao giờ hết.Văn hóa trước hết là vấn đề tồn tại và phát triển của một cộng
đồng người nhất định, cộng đồng trở nên bền vững khi nó trở thành dân tộc đó là yếu tố quyết định của một nền văn hóa. Tính dân tộc ln gắn liền với
tính nhân loại và tính giai cấp, trong mối quan hệ này thì quan hệ dân tộc nhân loại là trường cửu, giai cấp dù tồn tại lâu thì cũng chỉ là phạm trù lịch
sử. Như vậy, giá trị VHCT chỉ thống nhất với giá trị văn hóa khi mà giai cấp
- chủ thể chính trị của nó đại diện cho phương thức sản xuất mới, cho xu thế
vận động và phát triển phù hợp với tiến bộ xã hội. Do đó tác động của giai
cấp và đấu tranh giai cấp vào văn hóa của một dân tộc tùy thuộc vào từng
biến động của lịch sử, tác động tới bước đi của nền văn hóa chứ khơng quyết
định bản chất của nền văn hóa. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị tất yếu có
4
dấu ấn mạnh tới nền văn hóa dân tộc khi quyền lợi của giai cấp đó nhất trí với
quyền lợi của dân tộc.
Để phát triển bền vững theo hướng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, vừa
khơng đi ngược giá trị nhân loại (nhân văn-tính người) cần phải kết hợp
nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn hóa nói
chung và VHCT nói riêng. Việc phát huy văn hóa dân tộc chung chung, thốt
ly khỏi định hướng giai cấp trong lĩnh vực văn hóa là một sai lầm. Sự mất
cảnh giác đối với chiến lược "diễn biến hồ bình" về văn hố cũng chính là
"tự diễn biến hồ bình" trong chính chúng ta. Mặt khác, trong khi khẳng định
tính giai cấp của VHCT khơng được đối lập giữa giai cấp - cộng đồng - nhân
loại, nếu không sẽ rơi vào quan điểm giai cấp cực đoan. Để đạt đến VHCT thì
vừa phải sử dụng những giá trị giai cấp, vừa phải sử dụng những giá trị cộng
đồng và nhân loại; điều đó cũng lý giải vấn đề vì sao nước ta với nhiều nước
trên thế giới khác nhau về chế độ chính trị nhưng vẫn quan hệ, giao lưu và
hợp tác; vì sao bên cạnh Qui chế dân chủ ở cơ sở, các cộng đồng cư dân vẫn
có những hương ước, tộc ước...
* VHCT mang tính lịch sử - cụ thể.
VHCT bị qui định bởi những điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan. Hai loại nhân tố này có nội dung, tính chất và phương thức qui định
khác nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều đó qui định tính lịch sử
của VHCT.
+ VHCT không chỉ là kết quả của sự phát triển của nhận thức chính trị
và hoạt động chính trị sáng tạo của nhiều chủ thể VHCT ở các nước khác
nhau và các dân tộc khác nhau mà còn gắn liền với các nền chính trị khác
nhau. Có VHCT của giai cấp nắm QLNN đặc trưng cho mỗi nền chính trị,
nhưng bản thân sự tồn tại của mỗi nền chính trị lại khơng vĩnh viễn mà ln
có sự thay thế kế tiếp nhau trong lịch sử, nên VHCT cũng thay đổi theo.
5
+ Hơn nữa,VHCT không phải là một hiện tượng biệt lập, sự xuất hiện
và phát triển của nó nằm trong mối liên hệ mật thiết, biện chứng với các yếu
tố lịch sử, nó chịu sự chi phối của những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
Khi các yếu tố này có sự thay đổi thì VHCT cũng chịu ảnh hưởng của sự thay
đổi đó.
Sự truyền dẫn VHCT từ thế hệ này sang thế hệ khác cũng được thực
hiện theo khn mẫu và định hướng nhất định, thích hợp với nhận thức và
nhu cầu của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong đời sống chính trị ở mỗi giai
đoạn lịch sử. Do vậy, VHCT còn phụ thuộc vào khả năng tạo lập, kế thừa và
sử dụng các giá trị VHCT của mỗi chủ thể nào đó trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định.
+ VHCT còn gắn với hiện tượng tâm lý xã hội của chủ thể (nhất là
phương diện cá nhân). Cùng tiếp cận giá trị nhưng tính khí và khí chất khác
nhau sẽ tạo nên những quyết định hành vi, quyết định hoạt động chính trị của
các chủ thể khác nhau. Tính cụ thể của VHCT khơng chỉ dựa trên cơ sở lý
tưởng chính trị, lập trường và hành vi... mà có khi cả trên cơ sở của yếu tố
tâm lý xã hội.
Tính lịch sử, cụ thể của VHCT thể hiện cả ở chỗ: trong các điều kiện
lịch sử khác nhau, tính chất, nội dung, mức độ phát triển của VHCT không
giống nhau. Mặt khác cũng cho thấy, giá trị VHCT khơng phải là cái gì bất
biến mà ln có sự vận động và phát triển. Điều đó ảnh hưởng lớn đến những
thay đổi trong nhân cách xã hội của con người.
* VHCT mang tính kế thừa.
Tính lịch sử, cụ thể không thể tạo nên sự gián đoạn hay cô lập tuyệt đối
của VHCT của một giai cấp nào đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Sự
ra đời của một nền VHCT bao giờ cũng là kết quả phủ định biện chứng đối
6
với nền VHCT trước nó. Đó là sự giữ lại và nâng lên một trình độ mới những
nhân tố có giá trị chung mang tính tích cực của nền VHCT bị phủ định.
Tính kế thừa của VHCT trong sự phát triển được kết tinh từ những
thành tựu văn hóa, những di sản tinh thần của thời đại, của truyền thống, kết
hợp với kinh nghiệm thực tiễn, từ đó làm cho VHCT không ngừng được nâng
lên. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã có hơn nghìn năm Bắc thuộc, kẻ thù muốn
Hán hoá dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt Nam đã khơng chịu sự
đồng hóa của người Hán, nhưng vẫn khơn khéo tiếp thu, học tập văn hóa Hán,
biến nó thành giá trị, thành phương thức để phát huy bản sắc văn hóa của dân
tộc mình.
Trong VHCT truyền thống, ông cha ta cũng đã để lại cho đời sống
chính trị hiện tại của chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm q báu. Trong q
trình vận động và phát triển, các giá trị truyền thống khơng biến mất, mà nó
hóa thân vào các giá trị của thời sau theo qui luật kế thừa và tái tạo. Các giá
trị trước trở thành truyền thống khi được các thế hệ sau lựa chọn, tiếp nhận và
phát triển, đó chính là quan hệ giữa truyền thống và hiện tại. Sự thích nghi
của những giá trị cũ đối với sự thay đổi của thời đại là biểu hiện tính liên tục
của văn hóa. Bởi vậy, trong chính trị cũng phải ln có sự kế thừa về mặt giá
trị, quay lưng với những giá trị truyền thống cũng có nghĩa quay lưng lại với
lịch sử dân tộc. Điều đó vừa là sự sa sút về bản lĩnh văn hóa vừa trái với qui
luật vận động và phát triển của văn hóa, và như thế ắt có sự trả giá.
* VHCT ln mang tính đa dạng.
Hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi nhất của VHCT, mà trong mỗi hình thái
kinh tế - xã hội nhất định kết cấu giai cấp cũng phức tạp không thuần nhất,
cho nên hệ tư tưởng của các giai cấp không đồng nhất. Trong mỗi nền chính
trị, VHCT khơng thuần nhất. Do đối lập về lợi ích nên các giai cấp thường có
hệ tư tưởng đối lập chi phối văn hóa của các giai cấp tương ứng, tạo nên bức
7
tranh đa dạng của VHCT. Bên cạnh VHCT của giai cấp nắm QLNN cịn có
VHCT của các giai cấp và giai tầng khác trong xã hội. Ngay trong CNXH, tuy
lợi ích của các giai tầng thống nhất với hệ tư tưởng vô sản, chi phối những
định hướng cơ bản của VHCT; song mỗi giai cấp có tính độc lập tương đối,
tạo nên bản sắc VHCT riêng. VHCT XHCN cũng là sự thống nhất trong đa
dạng. Đảng ta cũng đã khẳng định: “nền văn hóa mà nhân dân ta xây dựng là
nền văn hóa thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam...”
.
Hơn nữa, sự xuất hiện và phát triển của VHCT nằm trong mối liên hệ
mật thiết với các yếu tố lịch sử, nó là “một tiểu hệ thống” trong lĩnh vực văn
hóa nói chung, do đó có mối liên hệ chặt chẽ với các thành tố khác của nền
văn hóa nói chung như: kinh tế, đạo đức, pháp quyền, thẩm mỹ, tôn giáo...
Trong CNXH, VHCT XHCN vừa là nội dung, là động lực, vừa là biểu
hiện chất lượng của nền dân chủ (văn hóa dân chủ). Là nhân tố thúc đẩy cho
việc đạt mục tiêu của CNXH: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đồng thời VHCT XHCN là phương thức để nhân dân lao
động trở thành chủ thể thực sự của QLCT, QLNN.
1.2.2. Chức năng của văn hố chính trị.
VHCT có những chức năng rất quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng của chủ thể chính trị. Ý nghĩa động lực của VHCT biểu hiện qua các
chức năng của nó, đó là:
* VHCT góp phần điều chỉnh, định hướng cho hành vi và các quan hệ
xã hội, nâng cao nhận thức, giáo dục cho các chủ thể chính trị.
VHCT có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ con người
với con người, con người với xã hội trong đời sống chính trị. Trong q trình
điều chỉnh, một mặt nó dựa vào những chuẩn mực giá trị, mơ hình chính trị để
điều chỉnh hành vi, hành động của chủ thể phù hợp với “cái tốt, cái đúng”.
8
Mặt khác, nó tăng cường khả năng tự điều chỉnh của các chủ thể phù hợp, hài
hồ với lợi ích của các chủ thể khác, với lợi ích xã hội .
Với tầm cao của VHCT, giới cầm quyền có thể kịp thời phát hiện ra
những điểm nóng chính trị - xã hội, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu để
chủ động"tháo ngòi nổ”,làm dịu đi các xung đột xã hội, giữ vững ổn định
chính trị. Trong những tình huống chính trị, VHCT có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, thiếu nó người ta có thể làm cho những quan hệ xã hội vốn bình thường
hoặc ít gay cấn lại trở nên căng thẳng, gay gắt, nóng bỏng, thậm chí đối đầu.
* Chức năng tổ chức và quản lý xã hội.
VHCT là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người trong q trình
hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng chính trị trong những điều kiện kinh tế chính
trị xã hội. Nhưng đến lượt nó, VHCT lại đóng vai trị quan trọng trong tổ chức
và quản lý xã hội.
+ VHCT đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế.
Ngày nay, sự phát triển kinh tế - xã hội không chỉ bắt nguồn từ sức
mạnh kinh tế mà còn phụ thuộc vào sức mạnh của văn hóa nói chung,VHCT
nói riêng. Hiệu quả của nền kinh tế phụ thuộc ngày càng nhiều vào trình độ
phát triển của khoa học và cơng nghệ, giáo dục và đào tạo; vào các giá trị tinh
thần của xã hội, các thể chế chính trị; vào trình độ, năng lực, phẩm chất của
những con người chính trị . Văn hóa là nhân tố quan trọng của kinh tế, một
nhân tố qui định bên trong của hoạt động sản xuất. Kinh tế khơng tự mình
phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, VHCT trong nó và tác động vào nó.
+ VHCT đối với việc giải quyết các vấn đề chính trị
Ý thức chính trị, các thiết chế QLCT, hoạt động chính trị thực tiễn, đều
liên quan đến VHCT, đều thể hiện trình độ VHCT của một lực lượng xã hội,
một giai cấp, một tổ chức hay một cá nhân nào đó. Bản thân đời sống chính trị
là một hệ thống các giá trị VHCT. Vì vậy, vấn đề chỉ ở chỗ, các chủ thể chính
9
trị sử dụng các giá trị VHCT đó như thế nào, có phát huy được vai trị của các
giá trị VHCT trong việc giữ vững nền chính trị và sự ổn định chính trị của
mình hay khơng.
Sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự là những yếu tố cơ bản quan trọng
để giữ vững nền chính trị, bởi kinh tế quyết định chính trị, “chính trị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế” . Điều khẳng định đó đúng nhưng chưa đủ,
đời sống xã hội khơng chỉ có kinh tế với chính trị mà cịn có văn hóa. Kinh tế
và văn hoá là hai nền tảng vật chất và tinh thần của xã hội. Nhiều quốc gia
siêu cường về kinh tế, qn sự nhưng khơng có sự ổn định chính trị, xã hội rối
loạn, một trong những nguyên nhân là do VHCT không được phát huy tác
dụng. Vậy VHCT tác động như thế nào?
* Chức năng đánh giá và dự báo chính trị:
Chức năng đánh giá của VHCT thể hiện qua thái độ của các chủ thể
VHCT đối với một hiện tượng, một sự kiện, một q trình chính trị nào đó.
Trên cơ sở nhận thức, chủ thể đánh giá các hiện tượng trong đời sống chính
trị và lựa chọn cho mình những hành vi theo đánh giá ấy. Như vậy, VHCT kết
hợp với khả năng chủ quan của mỗi chủ thể là cơ sở cho các đánh giá chính
trị.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Thực trạng Văn hóa Chính trị Việt Nam trong thời kỳ Covid- 19
Các chiều cạnh của văn hóa chính trị Việt Nam biểu hiện trong việc
ứng phó với đại dịch COVID-19
2.1.1. Chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa tập thể
Từ thời điểm dịch COVID-19 xuất hiện ở Việt Nam cho đến nay, Việt
Nam trải qua 2 đợt dịch. Xuyên suốt cả hai đợt dịch, người dân trong cả nước
10
đều chấp hành các quy định và cảnh báo từ chính quyền với sự đồng thuận
cao, tinh thần đồn kết cùng quyết tâm “chống dịch như chống giặc”.
Đeo khẩu trang là một quy định nhằm bảo vệ các cá nhân khỏi dịch
bệnh song nó cũng đồng thời là trách nhiệm của từng thành viên đối với cộng
đồng. Với quy định này ở Việt Nam, hầu hết mọi người dân đều chấp hành
một cách nghiêm túc ngay từ giai đoạn đầu chống dịch. Bên cạnh ý thức đeo
khẩu trang để bảo vệ bản thân và cộng đồng, nhiều cá nhân và tổ chức đã thực
hiện phát khẩu trang miễn phí cho mọi người tại các địa điểm công cộng
nhằm tăng cường khả năng chống dịch của cộng đồng. Vào giai đoạn cao
điểm chống dịch, lo ngại nguồn cung khẩu trang khan hiếm, và nhằm tiết
kiệm nguồn lực cho Nhà nước, nhiều người dân đã tình nguyện nhường
những khẩu trang y tế cho lực lượng y bác sỹ và chỉ sử dụng khẩu trang vải có
thể sử dụng nhiều lần. Một phản ứng gần như ngay lập tức của người dân
trước tình huống ảnh hưởng đến cộng đồng, cũng như tinh thần hợp tác cao
đối với những khuyến cáo của chính quyền là những biểu hiện của tinh thần
tập thể và chủ nghĩa cộng đồng. Nó khơng thể là biểu hiện có tính ngẫu nhiên,
mà là kết quả của một q trình kết tinh trong suốt tiến trình chính trị của dân
tộc.
Khác với chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cá nhân coi trọng tự do cá nhân,
quyền cá nhân trong việc ứng phó với những tình huống tác động đến sự an
nguy của cả cộng đồng, cụ thể là các khuyến cáo y tế nhằm phòng chống
dịch. Vào thời điểm dịch bệnh bùng phát và lây lan, người dân ở nhiều quốc
gia trên thế giới có thái độ thờ ơ, kỳ thị với hành vi đeo khẩu trang như biểu
tượng của bệnh tật, đáng xua đuổi và thậm chí bị tấn cơng. Bởi thế, ngay
trong thời điểm bùng phát dịch, việc đeo khẩu trang ở nhiều quốc gia, đặc biệt
là các quốc gia phương Tây, vẫn thuộc về quyền lựa chọn của mỗi cá nhân.
Không chỉ là ý thức bảo vệ bản thân và cộng đồng, Việt Nam cịn
chứng kiến sự tình nguyện huy động nguồn lực xã hội nhằm chia sẻ với Nhà
11
nước trong nhiệm vụ chung là phịng, chống dịch. Hình ảnh Mẹ Việt Nam
Anh hùng Đàm Thị Bảy, 100 tuổi (thơn 1, xã Hồng Kỳ) đã ủng hộ cơng tác
phịng chống dịch COVID-19 xã Hồng Kỳ 1 triệu đồng và nhiều nghĩa cử cao
đẹp từ những người dân bình dị đã tạo nên sức lan tỏa tình người và tinh thần
đồn kết tồn dân trong những thời điểm khó khăn của đất nước. Ý tưởng
“Siêu thị không đồng” hay sáng kiến “Cây ATM gạo” đã giúp được hàng
trăm hộ nghèo bị ảnh hưởng trong thời gian dịch bệnh, đồng thời thể hiện sâu
sắc truyền thống “lá lành đùm lá rách”, tương thân, tương ái của dân tộc Việt
Nam. Các cá nhân đến các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đã thực hiện nhiều
hoạt động thiện nguyện, góp tiền, trang thiết bị y tế và cả công sức cùng đội
ngũ y tế chữa trị cho các bệnh nhân nhiễm COVID-19. Nguồn vốn xã hội này
đã được huy động kịp thời và tạo động lực không nhỏ cho công tác chống
dịch cả về vật chất lẫn tinh thần, khiến cuộc chiến chống dịch trở thành cuộc
chiến của toàn dân với tinh thần đồn kết vì dân tộc.
Thực tế trên cho thấy, đây khơng phải là biểu hiện của văn hóa chung
chung mà là những giá trị văn hóa chính trị của dân tộc được bộc lộ mỗi khi
có tình huống chính trị cần sự huy động nguồn vốn xã hội mạnh mẽ. Nó là sự
kết tinh từ ý thức về nịi giống chung, về phương thức cố kết cộng đồng (nhà làng - nước) và cả phương thức sinh tồn trong việc cùng nhau trị thủy và
chống giặc ngoại xâm từ trong lịch sử.
2.1.2. Khoảng cách quyền lực
Hình ảnh Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam - Trưởng Ban chỉ đạo với sự tận
tâm tận lực, bình dị và gần gũi đã gây xúc động đối với mọi tầng lớp nhân
dân; Lãnh đạo các địa phương có bệnh nhân nhiễm COVID-19 thường xuyên
tổ chức thăm hỏi, động viên người bệnh và gia đình; Đại diện tổ dân phố cùng
người dân tổ chức vệ sinh, khử khuẩn trong khu dân cư; Các chiến sỹ nhường
phòng ở, vật dụng hằng ngày cho những người cách ly tập trung tại các doanh
trại quân đội... Tất cả là những biểu hiện của sự gắn kết chặt chẽ giữa Nhà
12
nước với tư cách là chủ thể quyền lực với người dân; giữa Đảng lãnh đạo với
lực lượng quân đội và nhân dân. Khoảng cách quyền lực thấp hiện hữu trong
tình Qn - Dân, sự hịa quyện của ý Đảng - lòng Dân tạo thành một khối
thống nhất và sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến phòng và chống dịch, đã
làm nổi rõ đặc trưng văn hóa chính trị Việt Nam ở chiều cạnh này.
Khoảng cách quyền lực giữa các chủ thể quyền lực:
Ban Chỉ đạo phòng chống dịch cấp tỉnh, cấp huyện với các nhiệm vụ
rất cụ thể đã hiện thực hóa các chỉ đạo từ Ban Chỉ đạo Trung ương, đồng thời
tiến hành công tác chỉ đạo đối với lực lượng chức năng tuyến cơ sở. Bên cạnh
việc tuyên truyền nhắc nhở, các lực lượng chức năng tuyến cơ sở đã lập các
chốt kiểm soát dịch nhằm hỗ trợ mạnh mẽ cho tuyến đầu chống dịch. Lực
lượng quân đội dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, được huy động đảm
nhiệm các nhiệm vụ vận chuyển người đến các địa điểm cách ly; cung ứng
các dịch vụ ở khu cách ly và đặc biệt giám sát nghiêm ngặt đường biên giới
với các quốc gia láng giềng. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền
cho thấy sự thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo của tồn hệ thống chính trị.
Có thể nói, khoảng cách quyền lực thấp là một biểu hiện nổi bật của
văn hóa chính trị Việt Nam vốn được định hình từ trong lịch sử cho đến nay.
Xuất phát từ truyền thống trị thủy và chống giặc ngoại xâm của cha ơng vốn
địi hỏi sự đồng lòng và chung tay hành động của cá nhân và cộng đồng, của
nhân dân và nhà nước. Trong thời kỳ hiện đại, đặc điểm của mơ hình thể chế
Việt Nam cho thấy quyền lực là tập trung và thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Điều này thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa các cấp và tính thống nhất
cao trong ý chí hành động của hệ thống chính trị. Khoảng cách quyền lực này
đã tạo ra giá trị văn hóa chính trị vừa có sự tôn trọng thứ bậc và chấp hành đối
với quyền lực, vừa có sự gắn kết và phối hợp hiệu quả giữa các cấp chính
quyền và giữa chính quyền cơ sở với người dân trong quá trình thực hiện mục
13
tiêu chung. Điều này giúp cho việc huy động nguồn lực dễ dàng, tránh được
sự phân tán trong tổ chức và thực hiện, mang lại những hiệu quả thực sự.
2.1.3. Mức độ tránh tính bất định
Dân tộc Việt Nam vốn trải qua nhiều gián đoạn chính trị trong lịch sử
với sự hưng thịnh rồi suy vong của các triều đại phong kiến và các cuộc xâm
lược từ Trung Hoa và phương Tây. Do đó, tâm thức tránh sự bất định luôn
thường trực và trở thành một chiều cạnh đặc trưng của văn hóa chính trị Việt
Nam. Trong những tình huống chính trị đặc biệt có tính biến cố, ảnh hưởng
trực diện đến sự an nguy chung của cộng đồng, và những hiện thực khó đốn
định thì chiều cạnh này lại được biểu hiện rõ nét.
Có thể nói, giai đoạn 2 của đợt dịch thứ nhất (từ khi phát hiện ca bệnh
số 17) là thời điểm mối lo ngại từ dịch bệnh tăng cao. Ngoài sự lo lắng về khả
năng mắc bệnh, còn là mối lo về an ninh lương thực, an ninh y tế và hơn thế
là sự an nguy về tính mạng. Chính tâm thức về sự bất định nếu dịch bệnh
bùng phát và khơng thể kiểm sốt là một phần ngun nhân thơi thúc ý thức
phịng, chống dịch của người dân. Tuy vậy, tâm thức tránh bất định cũng dẫn
tới một thái cực khác khi người dân quá lo lắng cho sự an toàn đối với các
nhu cầu thiết yếu, dẫn tới các hành vi như tích trữ đồ ăn, hoảng loạn khi có
người nhiễm bệnh trong khu dân cư mình sinh sống. Điều này cho thấy mức
độ cao về tránh sự bất định là một đặc trưng trong văn hóa chính trị Việt Nam
và tác động của nó có tính hai mặt.
2.1.4. Tính cương quyết với tính mềm dẻo
Cuộc chiến chống COVID-19 ở Việt Nam vừa qua chứng kiến hàng
loạt quyết định kịp thời và hiệu quả được đưa ra bám sát những diễn biến của
tình hình dịch bệnh. Nó là kết quả của những tính tốn kỹ lưỡng, sự phối hợp
xử lý đầy cương quyết nhưng linh hoạt, quyết liệt nhưng mềm dẻo của các
cấp chính quyền.
14
Tính cương quyết chống dịch được thể hiện trong việc truy tìm dấu vết
F0, cách ly triệt để đối với những người về từ vùng dịch, cách ly toàn bộ một
xã, một tuyến phố hay cả một bệnh viện tuyến cuối (Bệnh viện Bạch Mai),
thậm chí một thành phố du lịch (Đà Nẵng) khi xuất hiện nhiều ca nhiễm trong
cộng đồng. Vào đỉnh điểm của giai đoạn chống dịch ở đợt dịch thứ nhất, Thủ
tướng ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg (31-3-2020), về thực hiện cách ly toàn
xã hội trong vòng 15 ngày. Khi đợt dịch thứ hai bùng phát ở Đà Nẵng, nơi tập
trung số lượng lớn khách du lịch từ nhiều tỉnh thành, Ban chỉ đạo đã nhanh
chóng cách ly và xét nghiệm nhanh đối với hàng nghìn người trở về từ Đà
Nẵng. Đối với những hành vi trốn cách ly, chống đối các quy định phòng dịch
hay xuyên tạc sự thật về tình hình dịch bệnh đều bị xử lý nghiêm từ phạt hành
chính đến phạt tù. Tóm lại, có thể thấy Chính phủ Việt Nam đã quyết liệt
trong cơng tác phịng và chống dịch, đồng thời quyết đoán trong lãnh đạo, chỉ
đạo, chấp nhận những hi sinh nhất định về kinh tế nhằm bảo vệ sự an toàn đối
với sinh mệnh của nhân dân ở giai đoạn số ca bệnh tăng cao.
Song song với sự cương quyết phịng chống dịch, Chính phủ Việt Nam
vẫn thể hiện sự linh hoạt và mềm dẻo trong công tác chỉ đạo ở cả hai đợt dịch
và suốt các giai đoạn. Ở giai đoạn 1 của đợt dịch thứ nhất, mặc dù nguy cơ lây
nhiễm từ bên ngoài rất lớn song trong bối cảnh đó các ca nhiễm ở nhiều quốc
gia khác trên thế giới thấp và chính phủ cũng như người dân ở nhiều quốc gia
vẫn chưa có những động thái quyết liệt nhằm ngăn chặn dịch. Điều đó khiến
cơng tác phịng chống dịch từ bên ngồi cần có sự linh hoạt và mềm dẻo; vừa
có thể phịng dịch vừa duy trì phát triển kinh tế, giao dịch thương mại và đối
ngoại. Trong quá trình thực hiện cách ly người từ vùng dịch và vùng có nguy
cơ lây nhiễm, Chính phủ Việt Nam đã đáp ứng các dịch vụ miễn phí ở khu
cách ly nhằm tạo được động lực mạnh mẽ nhất để mọi người chấp hành. Đối
với một quốc gia có nền kinh tế cịn nhiều khó khăn, nguồn ngân sách hạn
hẹp song quyết định miễn phí vẫn được lựa chọn như một giải pháp tối ưu và
15
được đánh giá là một cách tiếp cận chi phí thấp mang lại hiệu quả. Trong đợt
dịch thứ 2, bùng phát giữa tháng 7-2020, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra chỉ
đạo về việc áp dụng linh hoạt Chỉ thị 16 về giãn cách xã hội và Chỉ thị 19 về
tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 trong tình hình
mới, tùy từng hồn cảnh khác nhau mà các địa phương triển khai dập dịch
khác nhau. Điều này cho thấy sự chủ động ứng biến của Chính phủ giữa hai
đợt dịch, nhằm vừa phòng chống dịch vừa duy trì đà phục hồi kinh tế ở từng
địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
Về đối ngoại, Chính phủ Việt Nam nhanh chóng thơng báo đến chính
phủ các quốc gia có các ca nhiễm bệnh khi về Việt Nam, đồng thời điện đàm
với các quốc gia để phối hợp đối phó với diễn biến của dịch bệnh. Việc chữa
trị thành công đối với ca bệnh là phi công người Anh đã trở thành biểu tượng
cho nỗ lực chống dịch của Việt Nam, đồng thời nâng cao uy tín Việt Nam về
tinh thần quốc tế và tính nhân văn cao đẹp.
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với Văn hóa Chính trị Việt Nam hiện nay
Qua q trình xây dựng, hồn thiện và thực hiện có một số vấn đề đặt
ra đối với văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, sự tồn tại của hệ giá trị kép: Trong đời sống chính trị ở nước
ta hiện nay dường như đang tồn tại song song hai hệ giá trị và chuẩn mực.
Một hệ giá trị và chuẩn mực mang tính hệ tư tưởng gắn với những vấn đề của
lý luận mác xít và một hệ giá trị và chuẩn mực mới đang hình thành từ chính
thực tiễn cuộc sống gắn với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Điều đó
dẫn đến thực tế là tồn tại một khoảng cách giữa các giá trị hướng tới (cái lý
tưởng, cái phải là) và các giá trị thực tế (cái đang là). Việc dung hòa hai hệ
giá trị này khơng phải bao giờ cũng dễ dàng, thậm chí trong nhiều trường hợp
có thể xảy ra sự xung đột.
16
Thứ hai, sự phổ biến của các chuẩn mực chính trị mang tính hình thức:
Quan sát đời sống xã hội nói chung, đời sống chính trị hiện nay ở Việt Nam
nói riêng cho thấy, đang xuất hiện một thực tế là các chuẩn mực mang tính
hình thức đang ngày càng trở nên phổ biến. Các chuẩn mực này gồm cả chính
thức và phi chính thức, được thể hiện ở việc đánh giá, phán xét các cá nhân,
tổ chức chủ yếu dựa vào các yếu tố mang tính hình thức, bề ngồi như: thành
tích, bằng cấp, danh hiệu, số lượng… Trong khi đó, các chuẩn mực để đánh
giá những giá trị nội tâm - những giá trị đạo đức vốn đã ngấm vào tầng sâu
nội tâm mỗi cá nhân, tạo thành động lực bên trong thôi thúc hành động của
các cá nhân, dường như lại đang rất thiếu hụt.
Thứ ba, lòng tin và sự hợp tác xã hội bị giảm sút: Hiện tượng thiếu lòng
tin, nghi kỵ, đề phòng… trong các tương tác giữa các thành viên trong tổ chức
của hệ thống chính trị diễn ra khá phổ biến. Điều này dẫn tới hiện tượng cục
bộ, bè phái… góp phần làm tăng chi phí của các giao dịch trong xã hội.
Thứ tư, chức năng điều chỉnh hành vi của văn hóa chính trị hoạt động
thiếu hiệu quả: Hiện tượng các cán bộ có chức, có quyền quan liêu, tham
nhũng, gian dối, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phục vụ cho mục đích cá
nhân… diễn ra khá phổ biến. Xét cho cùng, đó làcác hành vi "lệch chuẩn", vì
nó đi ngược lại với lý tưởng, với các giá trị và chuẩn mực mà Đảng theo đuổi,
đi ngược lại với lợi ích của nhân dân.
17
CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI
PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.1. Phương hướng giáo dục và nâng cao văn hóa chính trị ở nươc ta hiện
nay.
3.1.1. Hình thành và phát triển những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, tư
tưởng cho VHCT hiện đại.
- Về cơ sở kinh tế, VHCT hiện đại phải dựa trên cơ sở kinh tế XHCN,
đó là nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu để đảm bảo định hướng XHCN cho sự
phát triển kinh tế; đồng thời đảm bảo về mặt kinh tế cho việc hình thành và
phát triển VHCT hiện nay.
- Về cơ sở chính trị, VHCT phải dựa trên một HTCT mà Nhà nước của
dân, do dân, vì dân là trụ cột dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước hình
thành nền dân chủ XHCN, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Do
vậy, phải khơng ngừng củng cố và hồn thiện HTCT, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với HTCT
- Về cơ sở xã hội, VHCT mới phải được hình thành và phát triển trên
cơ sở củng cố khối liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lờp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; hình thành quan hệ
tốt đẹp giữa các dân tộc; khắc phục sự bất bình đẳng, sự bất cơng; xây dựng
nền giáo dục mới hướng vào mục đích tồn xã hội mà trực tiếp là nâng cao
dân chủ.
- Về tư tưởng, chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tư
cách là chân lý khoa học, bản chất nhân văn, nhân đạo cùng với những giá trị
văn hóa truyền thống là cơ sở tư tưởng, là giá trị chi phối VHCT ở nước ta. Vì
vậy, phải tăng cường cônn tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, giác ngộ CN
M-LN, TT Hồ Chí Minh cho các chủ thể
18