Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

văn hóa việt nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.44 KB, 37 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Nền văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập (1995 đến nay)
Yêu cầu: Nghiên cứu dưới góc độ đường lối, chủ trương của Đảng
1
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GIÁO TRÌNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2. GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
3. GIÁO TRÌNH CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
4.
5.
6. Và một số tài liệu khác
I- Hoàn cảnh lịch sử
1. Tình hình nước ta trong thập niên 90 của thế kỷ XX
Đến năm 1990, tình hình kinh tế - xã hội của ta đã có một số chuyển biến
tốt nhưng vẫn còn yếu kém.
Từ tháng 12-1986 đến tháng 6-1991, sau hơn bốn năm thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng ta đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đó là:
- Tình hình chính trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế có những chuyển biến tích
cực: đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba
chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, nguồn lực sản xuất
của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được kìm chế bớt, đời sống vật
chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện.
- Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
- Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá thế
bị bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường
thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.


2
Bên cạnh thành tựu bước đầu đã đạt được, đất nước còn nhiều yếu kém và khó
khăn chưa vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội
nóng bỏng vẫn chưa được giải quyết, công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) họp trong
bối cảnh trên phạm vi thế giới đang diễn ra cuộc tấn công quyết liệt của các thế lực
đế quốc và phản động vào các lực lượng hoà bình, độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã
hội, nhằm tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn thâm độc. Cuộc
khủng hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu dẫn đến sự sụp
đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước (1989-1990). Chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. So sánh lực lượng diễn
ra bất lợi cho cách mạng thế giới và ở trong nước, sau 4 năm thực hiện đường lối
đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội có những biến chuyển đáng kể, song vẫn chưa
thoát khỏi được khủng hoảng.
Trong giai đoạn này Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực đối
ngoại:
-Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (10-11-1991).
-Tháng 11-1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt
Nam.
-Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB).
-Bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (11-7-1995).
-Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nước ta với
khu vực Đông Nam Á.
-Tháng 3-1996, tham gia Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) với tư cách là thành
viên sáng lập.
-Và lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chínhthức với tất cả các nước
lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất cả các
nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định

khung về hợp tác với EU (1995).
3
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996) diễn ra
trong bối cảnh Liên Xô tan rã và chủ nghĩa xã hội đi vào thoái trào. Cách mạng
khoa học và công nghệ phát triển với trình độ ngày càng cao. Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986-1996) thu
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Tháng 11-1998, gia nhập
tổ chức Diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương (APEC).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã đánh giá:
Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người những dấu ấn cực kỳ sâu sắc.
Đó là thế kỷ khoa học và công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy; kinh tế phát triển
mạnh mẽ xen lẫn những cuộc khủng hoảng lớn của chủ nghĩa tư bản thế giới và sự
phân hoá gay gắt về giàu nghèo giữa các nước. Đó là thế kỷ diễn ra hai cuộc chiến
tranh thế giới đẫm máu cùng hàng trăm cuộc xung đột vũ trang. Đó cũng là thế kỷ
chứng kiến một phong trào cách mạng sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới, mặc dù
vào thập niên cuối, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào.
Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ đấu tranh
oanh liệt giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Với
những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX nước ta từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong
khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Tình hình thế giới
Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những
năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to
lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế

giứoi hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp
vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển.
4
Các quốc gia, các tổ chức và các lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều
chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang
phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường lien kết, hợp tác với các nước
phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh
nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.
Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế
cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp,
trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
Xu thế toàn cầu hoá và tác động của nó: Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hoá là
quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào
cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cấu, trong đó hàng
hoá, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động…vận động thông thoáng; sự phân công lao
động mang tính quốc tế; quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau,
hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều.
Những tác động tích cực của toàn cầu hoá: trên cơ sở thị trường được mở
rộng, trao đổi hàng hoá tăng mạnh đã thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước;
nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư,
hợp tác khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp tác. Mặt khác, toàn cầu hoá
làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi
cho việc xây dựng môi trường hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.
Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá: xuất phát từ việc các nước công
nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hoá tạo nên sự bất bình
dẳng trong quan hệ quốc tế và làm tăng sự phân cực giữa các nước giàu và nước

nghèo. Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số
nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều
mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu
tranh”
5
Thực tế cho thấy rằng, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt
hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia vào q trình tồn cầu hố,
đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt
qua.
Tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương, từ những năm 1990, có nhiều
chuyển biến mới: Trước hết, trong khu vực tuy vẫn còn tồn tại những bất ổn, như
vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đơng và việc một số
nước trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng châu Á – Thái Bình Dương vẫn có
tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hồ bình và hợp tác trong
khu vực phát triển mạnh.
Những đặc điểm, xu thế quốc tế và u cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch
định chủ trương, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.
3. Tác động của bối cảnh lịch sử đến sự phát triển văn hóa ở nước ta
Trong bối cảnh như vậy của thế giới hiện đại đang hình thành nền kinh
tế toàn cầu. Sống trong nền kinh tế này loài người càng nhận thức
sâu sắc rằng các quốc gia - dân tộc, dù lớn hay nhỏ, phải phụ thuộc
lẫn nhau và điểm gặp gỡ giữa các quốc gia - dân tộc là phát triển
kinh tế. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh - nhưng không phải là đấu tranh
vũ trang - là cách ứng xử khôn ngoan ngày nay của các quốc gia - dân
tộc trên hành tinh của chúng ta.
Phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội không? Kinh tế học tân
cổ điển cho rằng phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội là một tương
quan nan giải: đây là một mâu thuẫn mang tính nghòch lý, không có

khả năng giải quyết. UNESCO đã đưa ra giải pháp, đó là tư tưởng
văn hóa và phát triển, rằng chỉ có thể đạt được sự thống nhất giữa
phát triển và tiến bộ xã hội bằng cách đưa văn hóa vào bên trong sự
phát triển, coi văn hóa là động lực, là mục tiêu, là hệ điều tiết cho
sự phát triển. Nội dung tư tưởng này như sau:
1) Sự phát triển phải đáp ứng nhu cầu độc lập dân tộc và thể hiện
bản sắc dân tộc. Nghóa là không thể phát triển mà phải trả cái giá
6
là mất độc lập và chủ quyền dân tộc và lệ thuộc vào nước ngoài.
Và cũng không thể phát triển bằng văn hóa nhập, nghóa là tha hoá
về văn hóa.
2) Sự phát triển nội sinh, nghóa là bằng sinh lực của dân tộc. Do đó
phải huy động được tiềm năng dân tộc, trong đó mỗi cá nhân, mọi
tầng lớp xã hội đều góp phần vào sự phát triển và được hưởng
thành quả của sự phát triển.
3) Muốn thực hiện được như vậy văn hóa phải trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển, theo nghóa là chiến lược phát triển phải chú ý
đến cội nguồn văn hóa, hệ thống giá trò, tín ngưỡng và phong tục.
Muốn phát huy tiềm năng con người thì phải hiểu văn hóa. Vì động cơ
của con người là nằm trong từng nền văn hóa. Mặt khác, đặt văn
hóa là trung tâm của chiến lược. Nghóa là chiến lược kinh tế phải
nhằm mục tiêu phát triển văn hóa. Bởi vì cái tiêu biểu cho xã hội là
văn hóa. Văn hóa là bộ "gen" của hệ thống xã hội. Nó tạo nên tính
ổn đònh và bền vững của hệ thống.
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng văn hóa là mục tiêu và động lực
của sự phát triển. Bởi vì văn hóa, được hiểu theo nghóa rộng nhất, là
mục tiêu của chủ nghóa xã hội; chủ thể của sự phát triển chính là con
người và thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa; văn hóa
thâm nhập vào sự hiện diện trong mọi lónh vực chính trò, kinh tế, xã
hội, trong mọi mặt của hoạt động tinh thần và vật chất của con người.

Văn hóa, cũng như các lĩnh vực khác, chịu sự tác động sâu sắc của q trình tồn
cầu hóa kinh tế. Bản thân văn hóa khơng chỉ thể hiện ở những sản phẩm văn hóa
tinh thần, trong các hoạt động văn hóa tinh thần mà còn ẩn chứa bên trong tất cả
các hoạt động của đời sống xã hội, trong tất cả các nhóm dân cư, trong đời sống
tâm lý, tình cảm, tư tưởng của con người, trong các thể chế chính trị - xã hội của
đất nước Lĩnh vực sản xuất vật chất đơn thuần cũng hàm chứa trong nó những
nội dung văn hóa, phản ánh đặc tính văn hóa của con người, của cộng đồng người
trong lĩnh vực sản xuất vật chất đó. Một sản phẩm vật chất cụ thể bao giờ cũng kết
tinh những giá trị văn hóa nào đó. Sự tác động của q trình này đối với văn hóa
vừa biểu hiện trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác, vừa trực
7
tiếp tác động đến văn hóa, đến các giá trị văn hóa, đến phong tục tập quán, các giá
trị truyền thống và các thiết chế văn hóa của xã hội… mà hiện nay chúng ta khó có
thể dự lường hết được.
Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu, “ngôi nhà” thế giới
dường như trở nên “nhỏ bé” hơn. “Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển
nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn
cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”
(1)
. Sự ảnh hưởng của quá trình
này không chỉ về phương diện kinh tế. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải
cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế thì văn hóa dân tộc
đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc
từng dân tộc suy nghĩ xem phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào.
4. Xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn này
"Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ
tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,

trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, là
vấn đề tồn tại hay không tồn tại của từng dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tài sản vô giá; là linh hồn của dân tộc được
hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với bao biến cố thăng trầm
của lịch sử; được viết lên bằng máu, nước mắt và mồ hôi của cả dân tộc Việt Nam.
Chính vì vậy nó là biểu tượng của sự trường tồn, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại
và tương lai của dân tộc.
Trước xu thế toàn cầu hóa của thế giới hiện nay, không một quốc gia nào có thể
phát triển trong sự tách biệt với thế giới. Hội nhập kinh tế, giao lưu về văn hớa
giữa các nước đang diễn ra hết sức sôi động. Nhưng nếu không cớ một bản lĩnh
vững vàng, một chiến lược phát triển đúng đắn thì việc giao lưu đó sẽ dẫn đến
nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Để mở rộng giao lưu, hội nhập mà
không đánh mất bản sắc của mình, chúng ta phải bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc,
8
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhưng phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm
nền tảng, làm bản lĩnh. Nền tảng có vững chắc, bản lĩnh có vững vàng mới tiếp thu
được tinh hoa văn hóa nhân loại một cách đúng đắn, mới chủ động, tự tin hội nhập
và làm giàu thêm, sáng lên đặc trưng văn hóa dân tộc.
Trong thư gửi Hội nghị báo chí và xuất bản 20-22/2/1992 Thủ Tướng Võ Văn
Kiệt đã viết “ nói đến văn hoá là nói đến dân tộc ,một dân tộc đánh mất truyền
thống văn hóa và bản sắc dân tốc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” . Văn hoá suy thoái
sẽ trực tiếp cản trở cho tiến trình xây dựng nền kinh tế và không thể xây dựng kinh
tế thành công .Bởi vì văn hoá và kinh tế là hai nội dung cốt lõi của sự sinh tồn và
phát triển của một dân tộc .Muốn xây dựng kinh tế phải có những con người được
đò tạo,rèn luyện trong môi trường văn hoá lành mạnh…
Ngày nay, mục tiêu chính của chủ nghĩa đế quốc văn hóa là làm suy yếu tiềm năng
và nội lực của văn hóa dân tộc. Những yếu tố độc hại, suy đồi của văn hóa đế quốc
đang như những đợt sóng ngầm va đạp âm ỉ vào bến bờ của nhiều nước đang phát
triển. Nó có những đặc điểm sau: Truyền bá phương châm tiêu dùng, lối sống thực

dụng, trước hết là vào lớp trẻ, Dùng các hình thức quảng cáo từ thiện, du lịch, tôn
giáo để đạt mục đích chính trị, tuyên truyền sùng bái văn hóa phương Tây, chống
lại sự nghiệp đổi mới của ta. Những chiến dịch ồn ào về đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập,tuyên ngôn, tuyên cáo về nhân quyền, tự do, dân chủ với mục đích
chính trị đen tố.
Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc và xây dựng chính sách văn hoá trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội là một vấn đề rất quan trọng. Yêu cầu đặt ra là phải
giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đó đòi hỏi con người Việt Nam phải kế thừa và
phát triển về nhân cách, trí tuệ, tư tưởng đạo đức với năng lực tổng hợp và kỹ thuật
lao động tiên tiến, đưa dân tộc ta đến một tầm cao văn minh mới, đủ sức làm chủ
và bảo đảm sự nghiệp cách mạng thắng lợi. Người Việt Nam với những tố chất tích
cực như tính cộng đồng cao, ý thức đồng thuận, tính cần cù, cường độ lao động
lớn, truyền thống hiếu học… đã và sẽ làm được nhiều việc phi thường.
II- Đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa Đảng trong thời
kỳ đổi mới
9
1. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng đã hình thành từng bước nhận thức mới
về đặc trưng của nền văn hóa mới mà chúng ta cần xây dựng; về chức năng, vai
trò, vị trí của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Đại hội VI (1986) xác định khoa học – kỹ thuật là một động lực to lớn thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội; có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh 1991 (được Đại hội VII thông qua) lần đầu tiên đưa ra quan
niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thay
cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất
dân tộc, có tính đảng, tính nhân dân đã được nêu ra trước đây. Cương lĩnh chủ
trương xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và

đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ; khẳng định và biểu dương những
giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân – thiện – mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê
phán những cái lỗi thời, thấp kém; khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho thế giới quan của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần
xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân
tộc trong nước; tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri
thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản
tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Xác định giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Đại hội VII, VIII, IX, X, XI và nhiều nghị quyết Trung ương tiếp theo đã
xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của phát triển. Đây là một tầm nhìn mới về văn hóa phù hợp với
tầm nhìn chung của thế giới đương đại.
Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996) khẳng định: khoa học và giáo dục
đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn
lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó, phải coi sự nghiệp giáo dục – đào tạo
10
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con
người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ
đạo quá trình phát triển văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (1/2004) xác định thêm “phát triển văn hóa
đồng bộ với phát triển kinh tế”. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (7/2004) đặt vấn
đề bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng
chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa – nền
tảng tinh thần của xã hội. Đây chính là bước phát triển quan trọng trong nhận thức

của Đảng về vị trí của xã hội và công tác văn hóa trong quan hệ với các mặt công
tác khác.
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đã nhận định về sự biến đổi của văn hóa
trong quá trình đổi mới. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi mối
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ hóa đời sống xã hội, Do đó,
phạm vi, vai trò của dân chủ hóa – xã hội hóa văn hóa và của cá nhân ngày càng
tăng lên và mở rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công
tác văn hóa của Đảng và Nhà nước.
2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền
văn hóa
a. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn
hóa đối với sự phát triển xã hội.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Theo ý kiến của nguyên Tổng giám đốc UNESCO: văn hóa phản ánh và thể
hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và
các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua
hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối
sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội – vì nó được thấm
nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát
huy qua các thế hệ; được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã
11
hội của từng dân tộc (ví dụ: cấu trúc này ở Việt Nam là cấu trúc Nhà – Làng –
Nước) đồng thời nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi
thành viên xã hội bằng môi trường xã hội – văn hóa (bao gồm văn hóa vật thể và
văn hóa phi vật thể).
Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm
nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua sóng gió và

thác ghềnh để tồn tại và không ngừng phát triển.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã
hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng
con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy
lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ.
Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; nêu gương người tốt
việc tốt.
- Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:
Nguồn nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự
phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới
nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn, phát
huy cội nguồn. Cội nguồn của mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, bản thân sự phát triển
kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra. Nển kinh tế Việt
Nam hôm nay đã có bước tiến đáng kể so với thời kỳ thực hiện chế độ kinh tế tập
trung, quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân không phải chỉ ở sự tiến triển tự nhiên của
các nhân tố kinh tế mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và chế độ
quản lý, còn do sự giải phóng tư tưởng và bước phát triển mới về trình độ, năng lực
của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, cán bộ quản lý và lực lượng lao động.
Nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những
giá trị văn hóa đang được phát huy.
Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thông tin, là ý tưởng
sáng tạo và đổi mới không ngừng thì một nước trở thành giàu hay nghèo không chỉ
12
ở chỗ có nhiều hay ít lao dộng và tài nguyên thiên nhiên mà trước hết là có khả
năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay
không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là

trong tri thức và khả năng sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi cá nhân và
cùa cả cộng đồng.
Nói cách khác, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con
người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng hiện thực và
bền vững bấy nhiêu.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái
đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hóa với số
lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mặt khác, văn hóa
sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu
hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng hàng
hóa và đồng tiền “xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản
chất con người cũng như những mối liên hệ khác” dẫn tới suy thoái xã hội.
Nền văn hóa Việt Nam đương đại, với những giá trị mới sẽ là một tiền đề
quan trọng đưa đất nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn và toàn diện hơn vào nền
kinh tế thế giới.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn
chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ’, dẫn tới chỗ làm
cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.
Văn hóa, nhất là văn hóa phương Đông cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống
có chừng mực, hài hòa với thiên nhiên. Nó đưa ra mô hình ứng xử thân thiện giữa
con người với thiên nhiên vì sự phát triển bền vững cho thế hệ hiện nay và cho các
thế hệ mai sau.
- Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu văn hóa.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000 xác định “Mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người”. Đồng thời nêu rõ
13
yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát

triển văn hóa, bảo vệ môi trường”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội
mới bảo đảm phát triển bền vững.
Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn
đề bức xúc của mọi quốc gia. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân, các nước độc lập dân tộc đang tìm con đường dẫn tới ấm no, hạnh phúc thì
việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội lại
càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu
kinh tế vẫn thường lất át mục tiêu văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên
trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển của nhiều quốc gia, nhất là
các nước nghèo đang phát triển theo con đường công nghiệp hóa.
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng
ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
- Khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hướng
tới mục tiêu giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn
hóa trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định
mục tiêu văn hóa, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phải
có chính sách kinh tế trong văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế,
khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Xây
dựng chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn
hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa kinh
doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp, xây dựng đội ngũ
doanh nhân thời hội nhập.
- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy
nhân tố con người và xây dựng xã hội mới:
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài
nguyên thiên nhiên, vốn, v.v… Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai
thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái
sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng

có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con
người xã hội chủ nghĩa.
14
Năm 1990, UNDP (Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc) đưa ra
những tiêu chí mới để đánh giá cao mức độ phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ
số phát triển con người, 1 trong 3 chỉ tiêu của cách tính toán mới này là thành tựu
giáo dục (2 chỉ tiêu kia là tuổi thọ bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu giáo dục
lại được tổng hợp từ 2 chỉ tiêu khác là tình trạng học vấn của nhân dân và số năm
được giáo dục tính bình quân mỗi người.
Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toàn
dân nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi
dào. “Tài nguyên” con người, cái vốn con người, nói cho cùng là vốn trí tuệ của
dân tộc. Như vậy, văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn “tài nguyên người”.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt
Nam chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ người
biết đọc biết viết được xếp thứ hạng cao trong khu vực (88%) nhưng nguy cơ tái
mù đang tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ và mù tin học.
b. nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập tự do
và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục
tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung, tư tưởng mà cả trong hình
thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ
quốc. Đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản

sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo.
Có thể nói, bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách,
khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân
tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân
15
mình trong quá trình phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối liên hệ gốc
rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã hội – tự nhiên và với quá trình lịch sử
mà dân tộc đó đã tồn tại.
Nói chung, bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình
dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình,
biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách
tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa
học, văn học, nghệ thuật… nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của
dân tộc, nó là cốt lõi của một nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan
tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được
chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự chọn lựa trong hành
động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội
và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững
tương đối, có sức mạnh gắn bó mọi thành viên trong cộng đồng. Trong sự tiến bộ
và phát triển của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa thân vào
các giá trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã
hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội
nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp
nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng
và hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.

Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm
trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ, giáo dục và đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta
có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vửa mang sắc thái Việt Nam. Đi
vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại song phải luôn luôn phát huy
những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
16
 Chủ trương và đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã làm sáng lên
bức tranh của nền văn hóa đất nước trong tương lai. Đó là nền văn hóa với vai trò
là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế- xã hội phát
triển, gắn với sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, gắn với những vấn đề nảy sinh
trong xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường. Đối với công tác lãnh đạo văn
hóa, Nghị quyết khẳng định: . Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, cơ bản và chiến
lược không chỉ đối với công tác lãnh đạo mà cả công tác quản lý văn hóa, với mỗi
cán bộ, đảng viên.
Có thể nói Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã thể hiện sự phát triển cả nhận
thức và tư duy lý luận về văn hóa, lãnh đạo văn hóa của Đảng. Đó cũng chính là
kết tinh của sự kế thừa và phát triển Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa, về xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, về phương pháp lãnh đạo
văn hóa, quản lý văn hóa; là sản phẩm từ tổng kết lý luận và thực tiễn trong quá
trình hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hóa của Đảng…
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về văn hóa thông qua việc thể chế hóa các
chủ trương, chính sách của Đảng bằng luật pháp, pháp lệnh, nghị định, quy định,
các chính sách văn hóa Thông qua các chương trình hành động, phong trào thi
đua yêu nước, qua hệ thống các thiết chế văn hóa để vận động quần chúng nhân
dân thực hiện; biến chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng thành lực lượng

vật chất, thành phong trào cách mạng; tạo ra những kết quả cụ thể nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, trực tiếp
xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Đến Đại hội IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hóa
được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII),
Nghị quyết Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh vị trí của văn hóa trong lịch sử phát triển
của dân tộc ta; khẳng định sức sống lâu bền của những quan điểm, tư tưởng nêu
trong Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; về ý nghĩa , Nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm cao, chiều sâu của sự phát triển
của dân tộc, khẳng định và làm rõ vị trí của văn hóa trong đời sống dân tộc, trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
17
Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) và ra kết luận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và đồng bộ với phát triển kinh
tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
Đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Gắn kết chặt chẽ hơn với
phát triển kinh tế xã hội. Làm cho văn hoá thấm sâu và mọi lĩnh vực đời sống xã
hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam. Bảo vệ và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, sinh viên, học
sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn
hoá Việt Nam. Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng,
kháng chiến, di sản văn hoá vật thể, phi vật thể. Kết hợp hài hoà giữa bảo tồn, phát
huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch, tinh thần
tự nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng văn hoá. Đa dạng hoá các
hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
Để thực hiện được yêu cầu trên, trong xây dựng chính sách, tổ chức thực

hiện cần phải phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan đảng, nhà nước,
đoàn thể nhân dân, các hội văn học nghệ thuật, khoa học, trí thức, báo chí, của các
cá nhân; Xây dựng và phát triển chương trình giáo dục văn hóa, thẩm mỹ, nếp sống
văn hóa hiện đại trong nhân dân; Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn
học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật;
Đồng thời tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa; Xây dựng cơ chế chính sách,
chế tài ổn định; Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa; Chống
18
Hát Quan họ(Bắc Ninh)
sự xâm nhập văn hóa độc hại, lai căng, phản động; Xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ
thống thiết chế văn hóa; Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại
chúng phát triển; Nâng cao chất lượng tư tưởng văn hóa, hiện đại về mô hình, cơ
cấu, cơ sở vật chất kỹ thuật; Xây dựng cơ chế quản lý khoa học, phù hợp; Đi đôi
với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ; Đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động, cơ cấu tổ chức của các hội văn học- nghệ thuật từ trung ương đến
địa phương.
Cũng trong nhiệm kỳ Đại hội X, đối với văn hóa, văn học nghệ thuật, Đảng đã
dành sự quan tâm cho một số lĩnh vực tinh túy và nhạy cảm thường xuyên tác động
đến đời sống tinh thần của xã hội. Đó là hai kết luận quan trọng của Ban Bí thư (số
83 ngày 27/6/2008), Bộ Chính trị (số 51 ngày 22/7/2009) chỉ đạo việc tiến hành
tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về ; tiếp tục đẩy
mạnh hơn nữa việc thực hiện chỉ thị này. Nghị quyết số 23- NQ/TW ngày 16 tháng
6 năm 2008 của Bộ Chính trị . Theo đó sẽ có các đề án của các ban, bộ, ngành phối
hợp triển khai nhằm đưa các quan điểm chỉ đạo, những chủ trương và giải pháp của
Đảng về văn học, nghệ thuật thành hiện thực phục vụ đời sống tinh thần của nhân
dân.
Định hướng đối với các chính sách văn hóa :
Quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, vấn đề định hướng phát triển đất nước là
cực kỳ quan trọng. Định hướng đúng để đạt tới mục tiêu mà cương lĩnh năm 1991
về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đề ra, được Đại

hội VII của Đảng thông qua. Theo đó, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa để phấn đấu đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp.
Nhưng điều cốt lõi là chất lượng phát triển, phát triển muốn đạt chất lượng nhất
thiết phải có nội dung văn hóa- xã hội. Phát triển văn hóa- xã hội và xây dựng con
người luôn luôn gắn bó với định hướng chính trị, định hướng phát triển kinh tế đất
nước. Và cũng như phát triển kinh tế, phát triển văn hóa cũng phải coi trọng chất
lượng, phải đúng hướng. Bác Hồ từng nói . Những con người đó phải được chăm
lo cả về bản lĩnh chính trị tư tưởng, học vấn, sức khỏe, trí tuệ, tình cảm và đạo đức,
đó chính là văn hóa.
Nền văn hóa định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua các chính sách văn hóa mang
tính nhân văn, vì con người; phát huy tiềm năng, trí tuệ con người để đáp ứng yêu
cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, của nền kinh tế tri thức trong xu thế hội nhập
quốc tế. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng, ý nghĩa, vai trò, vị trí của văn hóa
trong đời sống dân tộc và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã đề cập đến chính sách văn hóa trong nhiệm vụ thứ
19
10 đó là . Nhiệm vụ chỉ rõ việc phải hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về văn hóa,
nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường; ban hành các chính
sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của nhân dân. Do tầm quan trọng, tính cấp thiết của nhiệm vụ này nến Nghị
quyết đã ghi nội dung đó vào giải pháp thứ II trong cụm các giải pháp.
Yêu cầu chính trị tư tưởng đối với chính sách văn hóa:
Các chính sách văn hóa phải phản ánh những giá trị nhân văn của văn hóa Việt
Nam. Muốn vậy phải xác định được những giá trị nhân văn của Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tập trung làm nổi bật hệ thống giá trị nhân văn đó ở
tinh thần Đồng thời phải kết hợp hài hòa 3 lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể,
lợi ích toàn xã hội. Đây cũng chính là một trong những động lực của sự nghiệp đổi
mới.
Các chính sách văn hóa đều theo tinh thần xã hội hóa. Hiện nay còn không ít người
hiểu vấn đề xã hội hóa chưa đầy đủ. Điều đó trở thành lực cản cho sự nghiệp xây

dựng và phát triển văn hóa. Công tác giáo dục, tuyên truyền cần phải làm cho mọi
người nhận thức được xã hội hóa là vấn đề hết sức cần thiết, nhất là đối với hoàn
cảnh kinh tế của nước ta còn nhiều khó khăn, Nhà nước không thể “bao” toàn bộ.
Xã hội hóa là nhằm tạo sự quan tâm của toàn xã hội; thu hút trí tuệ, nhân lực, vật
lực của toàn xã hội; gây nhân tố thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát triển theo
hướng biến đổi về chất, đổi mới về hình thức và nội dung. Xã hội hóa cũng là một
nội dung quan trọng của giải pháp xây dựng, ban hành các chính sách văn hóa
trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII). Trong quá trình đất nước thực hiện
chủ trương đổi mới, nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thì xã hội hóa hoạt động văn hóa được coi như một động lực thúc đẩy
các hoạt động văn hóa phát triển.
Chính sách văn hóa đúng định hướng của Đảng, bám sát yêu cầu về tư tưởng chính
trị còn góp phần tạo nên sự ổn định và lành mạnh hóa xã hội. Ở đâu không ổn định
thì ở đó không thể phát triển. Một gia đình, tập thể, cộng đồng và lớn hơn là toàn
xã hội nếu có đời sống văn hóa phong phú, chất lượng cao, bình đẳng… tức là có
chính sách văn hóa nhân văn.
Xây dựng đời sống văn hóa được coi như bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa, là nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh. Đồng thời xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cũng chính là
góp phần tạo ra môi trường chính trị- xã hội ổn định, an toàn và bền vững trên cơ
sở đời sống kinh tế được đảm bảo.
20
Đại hội XI, nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được đúc kết cô đọng hơn,
cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng:
Một là: Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú,
đa dạng; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang,
lễ hội…; triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam góp phần giữ gìn
và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, còn người Việt Nam, nuôi
dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
Hai là: Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di

sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Theo đó, tiếp tục phát triển nền văn học,
nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân
chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và
công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án
cái xấu, cái ác. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về
sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
của dân tộc. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng,
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt
động văn hóa, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư
tưởng và nghệ thuật.
Ba là: Chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản
biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất
nước. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản
vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của
thời kỳ mới.
Bốn là: Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ
thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng một số trung tâm văn
hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra
nước ngoài. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước,
giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng
Việt Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hóa sự xâm nhập và tác hại của các sản
phẩm đồi trụy, phản động từ nước ngoài vào nước ta; bồi dưỡng và nâng cao sức
đề kháng của công chúng nhất là thế hệ trẻ.
Như vậy, đến Đại hội XI, các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được
khẳng định. Nhưng từ thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước những năm qua, đặc
biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều của quá trình toàn cầu
21
hóa, của nền kinh tế thị trường…, Đảng ta đã xác định bốn đầu việc cần được cấp
ủy đảng, chính quyền các cấp và nhất là ngành văn hóa coi trọng, tập trung chỉ đạo,

tổ chức thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Trong đó,
việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng có ý nghĩa rất
quan trọng, chi phối và gắn bó hữu cơ với ba công việc sau. Cần nhận thức đầy đủ
rằng, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cũng chính là góp phần tạo ra môi
trường chính trị- xã hội ổn định, an toàn và bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế
được đảm bảo.
Quá trình xây dựng môi trường văn hóa phải chú trọng xây dựng đời sống văn hoá,
vì đó là bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá. Xây dựng
đời sống văn hóa cần phải được tổ chức một cách bài bản, có chủ trương, chiến
lược và từ trong từng gia đình Việt Nam, trong thôn, bản, khu phố, trong các tổ
chức đoàn thể…, không chỉ là vài cuộc liên hoan văn nghệ quần chúng theo định
kỳ hay chào mừng, cổ vũ một vài ngày kỷ niệm, sự kiện nào đó. Đối với văn học,
nghệ thuật hay bảo tồn phát huy các di sản văn hóa cũng phải có mục tiêu cụ thể,
nhằm đạt tới kết quả cuối cùng là có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thực sự
phát huy chức năng giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho công chúng, nâng cao ý
thức dân tộc, trách nhiệm của mỗi người với những giá trị đó. Các cơ quan thông
tin, truyền thông đặc biệt là báo chí, xuất bản là những công cụ trực tiếp, đắc lực,
có trách nhiệm tuyên truyền cho quá trình chăm lo phát triển văn hóa của đất nước
trên cơ sở vì mục đích, lợi ích của nhân dân và đất nước. Đương nhiên, đội ngũ đó
phải được quan tâm, chăm lo đào tạo, rèn luyện chính trị, tư tưởng, có năng lực
chuyên môn đồng thời phải có đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm công dân, nếu
không sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu thông tin, giáo dục, tổ chức và phản
biện xã hội phù hợp với môi trường văn hóa lành mạnh theo quan điểm của Đảng.
Công việc đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ
thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới…thực chất cũng là nhằm xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đa dạng, phong phú. Vì văn hóa Việt nam
muốn phát triển không thể không có lộ trình, kế hoạch cụ thể để quảng bá ra nước
ngoài; muốn quảng bá phải có thiết chế, phải có đầu tư về con người và cơ sở vật
chất cho nhiệm vụ này (một vài trung tâm văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài như
hiện nay là không thể hoàn thành được). Đồng thời chọn lọc, giới thiệu những giá

trị văn hóa của bè bạn thế giới vào nước ta cũng là công việc cần được quan tâm để
làm đẹp thêm bức tranh văn hóa nước nhà.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng theo quan điểm của
Đảng nêu trên, là sự kiên định (kế thừa, bổ sung, phát triển) quan điểm xây dựng
và phát triển văn hóa của Đảng trong hơn nửa thể kỷ qua, đưa quan điểm đó trở
22
thành hiện thực trong đời sống văn hóa của dân tộc sẽ tạo ra sức đề kháng khỏe
mạnh trong cơ thể văn hóa Việt Nam.
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đánh đuổi giặc ngoại
xâm, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn quan tâm đến
văn hóa và càng coi trọng hơn trong thời kỳ đổi mới, trong điều kiện xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng các kỳ
VIII, IX, X, XI; các kết luận, chỉ thị của Hội nghị Trung ương các khóa trên đều
thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng trong nhìn nhận, đánh giá, chỉ đạo xây
dựng và phát triển văn hóa, gắn chặt với chiến lược xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo hướng đó, văn hóa phải thực sự trở thành
động lực và mục tiêu của sự phát triển, đồng thời đòi hỏi một cơ chế chính sách
đảm bảo cho văn hóa và kinh tế cùng phát triển.
 Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
• Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp
thụ có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc
khác:
_ Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời
trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
_ Không e ngại sự áp đảo của toàn cầu hóa, không "dị ứng" với mọi biểu hiện
của văn hóa nhân loại. Thâm nhập vào thế giới một cách chủ động, tự tin, tự nhiên,
sẵn sàng đối thoại với các nền văn hóa với tư duy đa dạng văn hóa là một tất yếu
của giao lưu, hợp tác. Muốn vậy phải trên cơ sở lấy văn hóa dân tộc làm gốc. Chỉ
trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ việc giữ gìn, phát huy cốt cách văn hóa dân
tộc mới đi tới được văn hóa nhân loại.

_Kinh tế và có kiến thiết kinh tế rồi thì văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều
kiện phát triển được. Ngược lại, văn hóa phải đứng trong kinh tế và chính trị, thúc
đẩy kinh tế và chính trị phát triển. Như vậy, trong khi đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, cùng với phát triển kinh tế vẫn phải có niềm tin và biện pháp tích cực
để phát triển văn hóa tinh thần, không theo kiểu dàn hàng ngang để tiến, mà bằng
tư duy "lấy tinh thần chiến thắng vật chất", "đem văn minh (đồng nghĩa với văn
hóa) thắng bạo tàn".
_ Phải xuất phát từ tư duy phương Đông được đánh dấu bởi hoài bão tìm kiếm
tính thống nhất của vũ trụ, sự hài hòa giữa những mâu thuẫn. Để giao lưu, hội nhập
phải có một thái độ "cầu đồng tồn dị", tìm mẫu số chung thay vì khoét sâu sự cách
23
biệt. Nếu giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tìm thấy điểm chung của Khổng Tử,
Các Mác, Giê-su, Tôn Dật Tiên là mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu
phúc lợi cho xã hội, thì đến cuối thế kỷ XX nhân loại lại tìm thấy một lý tưởng
chung ở Hồ Chí Minh là hướng con người Chân – Thiện – Mỹ, đem lại hạnh phúc,
tự do cho nhân loại. Trong mối quan hệ Đông – Tây, dân tộc và nhân loại, cần phải
xác định có cái chung và cái riêng, vật chất và tinh thần, nội sinh và ngoại sinh để
tập trung giải quyết sự cân bằng, hài hòa giữa các yếu tố.
_ Có "vay" thì phải có "trả". "Vay" thì phải sáng tạo và không được trở thành kẻ
bắt chước. "Trả" thì phải xứng đáng là một dân tộc trong số ít của thế giới có nền
văn hóa tiêu biểu. Giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với thế giới,
làm phong phú thêm nền văn hóa nhân loại vừa là trách nhiệm, vừa là vinh dự. Suy
cho cùng, "giúp bạn cũng chính là giúp mình". Quá trình "vay" và "trả" qua lại lẫn
nhau giúp ta có điều kiện giao lưu hội nhập, tạo nên tiên tiến và hiện đại song vẫn
rất truyền thống (Việt Nam) nếu chúng ta luôn có ý thức và niềm tự hào về các dân
tộc.
_ Giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc là một ý thức chính trị, và ý thức chính
trị của dân tộc, xây dựng tâm lý cộng đồng với nội dung cao cả là tinh thần độc lập
tự cường, tự chủ lại là biểu hiện cao nhất và trước hết của văn hóa. Trước đây bản
sắc văn hóa của dân tộc với tinh thần yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, tinh thần dân

tộc tự chủ về chính trị đã khẳng định sức mạnh của phong trào giải phóng thì nay
lại càng cần phải như vậy. "Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập"
(4)
.
_ Tiếp thu toàn diện, nhưng có chọn lọc qua "màng lọc" bản sắc văn hóa Việt
Nam. Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh chỉ rõ, cái gì bổ ích và cần thiết, cái gì
tốt và hay thì ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, một
nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Nói như
vậy để thấy không phải mọi thứ mới lạ đều bổ ích. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu,
còn cái mới mà lai căng, xấu xa thì cương quyết loại bỏ.
Phải thường xuyên bồi bổ cho lịch sử – văn hóa với ý nghĩa là cội rễ của dân tộc,
cái vốn của riêng mình. Điều cơ bản và trước hết là phải làm kỳ được việc thường
xuyên bồi bổ cho lịch sử – văn hóa, để cho cốt cách văn hóa dân tộc thấm sâu vào
tâm lý quốc dân. Một khi sao nhãng công việc đó thì tự mình sẽ đánh mất mình.
Nhưng trong nội hàm giữ gìn bản sắc đã chứa đựng phát huy, giao lưu, trao đổi,
xâm nhập và hội nhập các giá trị văn hóa rồi: Bởi vì văn hóa là đối thoại và đa
dạng vì phát triển. Nhà văn hóa lớn G. Nê-ru (Ấn Độ) hoàn toàn có lý khi cho
rằng, "người ta không thể sống cho một mình với cội rễ". Thậm chí cội rễ đó cũng
24
sẽ khô héo nếu nó không vươn ra dưới mặt trời và không khí tự do; chỉ khi đó cội
rễ mới mang dinh dưỡng đến cho anh. Chỉ khi đó cuộc sống mới đâm cành trổ
hoa"
(5)
.
Kết hợp chặt chẽ việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đấu tranh chống lại sự
xâm nhập của văn hóa độc hại. Đó là mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc với tiếp thu
tinh hoa, giữa truyền thống-tiếp biến và đổi mới, để bồi bổ cho một nền văn hóa
dân tộc cường tráng, với các yếu tố nội sinh sung mãn.
_ Quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng là quá trình xâm nhập văn

hóa, quá trình tự thân vận động, tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo từ ta và từ người.
Cái khó ở đây là, làm thế nào để có được sự công bằng giữa gốc rễ và hoa lá trên
cành; giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh khi các yếu tố đó luôn có mối quan hệ biện
chứng. Câu trả lời phải được tiếp tục suy nghĩ từ quá khứ và thực tiễn hôm nay.
Nhưng trước mắt chúng tôi vẫn phải trở lại, vận dụng sáng tạo và phát triển những
luận đề của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng: "Chủ nghĩa dân tộc là động
lực lớn của đất nước… Người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu
không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ". "Phải
trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng và
ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn". "Đem sức ta mà giải phóng
cho ta", "Muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Về văn
hóa, cần hiểu đó là sự bảo tồn, chấn hưng nền văn hóa dân tộc để làm cơ sở định
hướng cho việc mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế. Đồng thời phải kết hợp một
cách chặt chẽ, khoa học, tinh tế, có lý có tình giữa "pháp trị" – mà đặc biệt là vai
trò quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế – xã hội – với "đức trị" mà
chủ yếu là giáo dụctính nhân văn, đạo đức. Ở một ý nghĩa nào đó, là kết hợp giữa
"xây" và"chống", trong đó "xây" là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. Phải nhận thức
con người là điểm xuất phát cũng là mục tiêu của sự phát triển. Phải đào tạo con
người cả về nhân cách và về trí tuệ. Trong nhân cách có trí tuệ. Trí tuệ càng cao,
nhân cách càng phải lớn. Chỉ có nhận thức như vậy mới tạo nên một Việt Nam ổn
định, phát triển bền vững trong quá trình giao lưu, hội nhập.
• Giữ gìn, kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc; phát huy văn hóa dân
tộc, nguồn sức mạnh nội sinh của đất nước trong quá trình hội nhập. Xây
dựng và phát triển, giữ gìn và phát huy gắn bó chặt chẽ với nhau trong
chiến lược văn hóa.
Thứ nhất, để giữ gìn, kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta
cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
25

×