Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

đặc trưng văn hóa chính trị việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.11 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM........................................................2
1.1. Khái niệm và phạm vi biểu hiện của Văn hóa Chính trị..............2
1.1.1. Khái niệm....................................................................................2
1.1.2. Ba phạm vi biểu hiện chủ yếu của văn hóa chính trị...................3
1.1.3. Chức năng của văn hố chính trị.................................................5
1.2. Cơ sở hình thành và phát triển của văn hố chính trị Việt Nam.7
1.2.1. Cơng cuộc xây dựng đất nước, sự gắn bó giữa con người với
thiên nhiên, với quê hương xứ sở và lịch sử đấu tranh chống thiên tai.7
1.2.2. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.........................................8
1.2.3. Sự tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử Việt
Nam.......................................................................................................8
1.2.4. Sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hố dân tộc.........9
1.2.5. Q trình thống nhất quốc gia và hình thành sớm của dân tộc
Việt Nam.............................................................................................10
CHƯƠNG II: ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
VĂN HĨA CHÍNH TRỊ...........................................................................11
2.1. Đặc trưng Văn hóa Chính trị Việt Nam hiện nay.......................11
2.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển Văn hóa Chính trị
Việt Nam.................................................................................................14
2.2.1. Đẩy mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước...........................................................14
i


2.2.2. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên..............15
2.2.3. Bảo vệ và phát huy và phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận của
Đảng....................................................................................................16


2.2.4. Phát huy vai trò của loại hình văn hóa, nghệ thuật trong việc
tuyên truyền, bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng chính trị trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.........................................17
KẾT LUẬN....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Văn hố chính trị làm cho sự tác động của chính trị đến đời sống xã hội
giống như sức mạnh nội sinh của văn hố. Đó là loại sức mạnh không dựa vào
quyền lực hay ép buộc là chủ yếu, mà chủ yếu là được tạo dựng từ sự đồng
thuận xã hội thơng qua cảm hố, khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý thức tự giác
của các tầng lớp nhân dân.
Văn hóa chính trị chỉ là một khía cạnh, một lĩnh vực của văn hóa. Hoạt
động chính trị được coi là văn hóa thì đều phải có một thể chế và niềm tin
chính trị. Do vậy, văn hóa chính trị có thể được hiểu là hệ thống các niềm tin
về quyền lực, quyền và thẩm quyền - những yếu tố gắn với thiết chế nhà
nước. Cũng có thể hiểu rằng, văn hóa chính trị là những định hướng chính trị,
thái độ chính trị của chủ thể đối với hệ thống chính trị cũng như đối với vai
trị của bản thân chủ thể đó trong hệ thống chính trị. Cịn theo Lucian Pye và
Sidney Verba - các nhà khoa học người Mỹ, thì “Văn hóa chính trị là một hệ
thống các niềm tin được hình thành trong thực tiễn chính trị”.
Có hai vấn đề lớn liên quan đến văn hóa chính trị, đó là: bộ máy nhà
nước nên được tổ chức, điều hành như thế nào; bộ máy nhà nước nên làm
những gì. Hai vấn đề này chính là sự đề cập đến vai trị của chính trị đối với
phát triển kinh tế, xã hội. Ngoài ra, trong văn hóa chính trị có một số ngun
tắc liên quan đến các giá trị, niềm tin và thái độ, cảm xúc của các thành viên
trong cộng đồng. Đó là, những niềm tin được san sẻ; những luật lệ được chấp

nhận một cách phổ biến. Các nguyên tắc này chính là sự đề cập đến mối quan
hệ gắn bó, mang tính pháp lý giữa chính trị và văn hóa. Do đó, tác giả đã chọn
đề tài “ Đặc trưng văn hố chính trị Việt Nam hiện nay”.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm và phạm vi biểu hiện của Văn hóa Chính trị
1.1.1. Khái niệm
Văn hóa chính trị chỉ là một khía cạnh, một lĩnh vực của văn hóa. Hoạt
động chính trị được coi là văn hóa thì đều phải có một thể chế và niềm tin
chính trị. Do vậy, văn hóa chính trị có thể được hiểu là hệ thống các niềm tin
về quyền lực, quyền và thẩm quyền - những yếu tố gắn với thiết chế nhà
nước. Cũng có thể hiểu rằng, văn hóa chính trị là những định hướng chính trị,
thái độ chính trị của chủ thể đối với hệ thống chính trị cũng như đối với vai
trị của bản thân chủ thể đó trong hệ thống chính trị. Còn theo Lucian Pye và
Sidney Verba - các nhà khoa học người Mỹ, thì “Văn hóa chính trị là một hệ
thống các niềm tin được hình thành trong thực tiễn chính trị”.
Có hai vấn đề lớn liên quan đến văn hóa chính trị, đó là: (1) bộ máy nhà
nước nên được tổ chức, điều hành như thế nào; (2) bộ máy nhà nước nên làm
những gì. Hai vấn đề này chính là sự đề cập đến vai trị của chính trị đối với
phát triển kinh tế, xã hội. Ngoài ra, trong văn hóa chính trị có một số ngun
tắc liên quan đến các giá trị, niềm tin và thái độ, cảm xúc của các thành viên
trong cộng đồng. Đó là, (1)những niềm tin được san sẻ; (2) những luật lệ
được chấp nhận một cách phổ biến. Các nguyên tắc này chính là sự đề cập
đến mối quan hệ gắn bó, mang tính pháp lý giữa chính trị và văn hóa.
Từ các phân tích nêu trên cho thấy rằng, trung tâm của văn hóa chính
trị là vấn đề định hướng, hay văn hóa chính trị có chức năng chủ yếu là định

hướng. Đó là các định hướng về nhận thức, tình cảm và sự đánh giá. Cụ thể
như các định hướng về cấu trúc bộ máy nhà nước; định hướng về nhận thức,
hiểu biết hệ thống chính trị, những người trong bộ máy cầm quyền, vai trị của
truyền thơng; định hướng về niềm tin, sự tin tưởng về luật lệ trong hoạt động
2


chính trị; định hướng về hoạt động chính trị của chủ thể như thái độ, ý thức,
cách thức hoạt động chính trị... Điều đó cho thấy rằng, mỗi hệ thống chính trị
đều gắn liền với một cách thức định hướng đặc thù của văn hóa chính trị.
Trong các quốc gia hiện đại, quyền lực chính trị thể hiện chủ yếu ở
quyền lực của đảng chính trị; quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân.
Việc thực thi các quyền lực này có văn hóa, tức chúng được định hướng bởi
văn hóa là biểu hiện về mặt hình thức của văn hóa chính trị.
1.1.2. Ba phạm vi biểu hiện chủ yếu của văn hóa chính trị
Thứ nhất, đó là văn hóa bầu cử để giành địa vị cầm quyền của các lực
lượng chính trị trong xã hội. Hình thức này biểu hiện việc giành, giữ địa vị
cầm quyền của các lực lượng chính trị phải mang tính cạnh tranh và tn theo
pháp luật. Bởi chính trị, hiểu một cách cơ đọng, chính là việc phân bố và thực
thi quyền lực giữa các lực lượng chính trị trong xã hội. Quyền lực này phải do
dân ủy nhiệm qua các cuộc bầu cử; quyền lực được ủy nhiệm sẽ trở thành
“thẩm quyền” - quyền lực chính đáng. Văn hóa chính trị đúng đắn phải tơn
trọng sự ủy quyền đó, tức tơn trọng kết quả của các cuộc bầu cử. Do vậy,
muốn có văn hóa chính trị trong bầu cử, rất cần bảo đảm tính cạnh tranh, cơng
khai và có luật về bầu cử; hơn nữa, luật đó phải đúng đắn, được thực hiện
nghiêm minh, tức hợp với lịng dân.
Thứ hai, văn hóa cầm quyền (lãnh đạo, quản lý) của cá nhân các nhà
chính trị, đội ngũ cơng chức, viên chức trong bộ máy nhà nước. Văn hóa lãnh
đạo và văn hóa quản lý là hai hoạt động chủ yếu, cần thiết của cá nhân các
cơng chức, viên chức có chức trách trong bộ máy nhà nước.

Văn hóa lãnh đạo được hiểu là các hoạt động không sử dụng tới công
cụ quyền lực. Đây được hiểu là các hoạt động mang tính định hướng, thuyết
phục, tức hoạt động gắn với việc sử dụng quyền lực “mềm” thơng qua việc
nghe, nhìn, cảm giác để xác định “tầm nhìn” nhằm xây dựng các đường lối,
3


chiến lược, chính sách quốc gia; thơng qua việc nói, truyền đạt để thuyết phục
thực hiện các đường lối, chiến lược, chính sách đó. Nếu nhìn nhận thể chế
(quốc gia) là cơ thể con người, thì văn hóa lãnh đạo phụ thuộc rất lớn vào bộ
não (hiến pháp, pháp luật) cùng với các giác quan (thể chế văn hóa) của người
đó. Các giác quan đầy đủ, hồn hảo, bộ não minh mẫn, tức các nhà cầm quyền
của quốc gia thực hiện vai trị lãnh đạo có tầm nhìn, sáng suốt, có năng lực
xây dựng pháp luật, chính sách là cơ sở quan trọng để hoạt động lãnh đạo có
văn hóa.
Văn hóa quản lý được hiểu là các hoạt động sử dụng tới công cụ quyền
lực. Đây được hiểu là các hoạt động mang tính ép buộc, tức các hoạt động gắn
với việc sử dụng quyền lực “cứng” nhằm chỉ đạo, điều hành, hỗ trợ việc thực
hiện các đường lối, chiến lược, chính sách. Nếu nhìn nhận thể chế (quốc gia)
là cơ thể con người, thì văn hóa quản lý phụ thuộc rất lớn vào đơi tay (thể chế
chính trị) và trái tim (lực lượng cầm quyền) của người đó. Đơi tay hoàn hảo,
khỏe mạnh, trái tim nhân hậu, tức cá nhân các nhà cầm quyền thực hiện vai
trò quản lý có phẩm chất đạo đức, có năng lực thực thi pháp luật, chính sách
là cơ sở quan trọng để hoạt động quản lý có văn hóa.
Văn hóa lãnh đạo và văn hóa quản lý là các hoạt động gắn kết với nhau
của cá nhân các nhà cầm quyền. Chúng được sử dụng tùy theo chức năng và
nhiệm vụ cụ thể. Việc kết hợp giữa hai hoạt động này được coi là văn hóa
quản trị quốc gia.
Thứ ba, văn hóa giám sát, phản biện (văn hóa tham dự) của nhân dân,
các tổ chức xã hội đối với tổ chức, hoạt động của nhà nước, các cá nhân có

chức trách trong bộ máy nhà nước, đặc biệt trong các cơ quan hành pháp và
chính quyền địa phương. Các hoạt động giám sát, phản biện của nhân dân, các
tổ chức xã hội là mang tính độc lập. Nếu nhìn nhận thể chế (quốc gia) là cơ
thể con người, thì văn hóa giám sát, phản biện phụ thuộc rất lớn vào cấu trúc
hoàn hảo của các chi (thể chế kinh tế, chính trị) và các giác quan (thể chế văn
4


hóa). Điều đó có nghĩa là, việc bảo đảm đầy đủ, hoạt động hoàn hảo của các
chi, các giác quan, tức kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, lực lượng đa số và
lực lượng thiểu số cầm quyền, tổ chức xã hội thuộc nhà nước và tổ chức xã
hội dân sự được hoạt động bình đẳng, tuân theo luật pháp là điều kiện quan
trọng để hoạt động giám sát, phản biện của nhân dân, các tổ chức xã hội có
văn hóa.
Văn hóa chính trị có vai trị to lớn trong quản trị quốc gia. Quốc gia
khó có thể phát triển được, tức “đôi chân” (thể chế kinh tế) khó có thể đi được
nếu khơng có sự giúp đỡ, “định hướng” đường đi bởi các “giác quan” (thể chế
văn hóa), khơng có sự giúp sức để loại bỏ các rào cản, hay “mở đường” đi bởi
“đôi tay” (thể chế chính trị).
1.1.3. Chức năng của văn hố chính trị.
VHCT có những chức năng rất quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng của chủ thể chính trị. Ý nghĩa động lực của VHCT biểu hiện qua các
chức năng của nó, đó là:
* VHCT góp phần điều chỉnh, định hướng cho hành vi và các quan hệ
xã hội, nâng cao nhận thức, giáo dục cho các chủ thể chính trị.
VHCT có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ con người
với con người, con người với xã hội trong đời sống chính trị. Trong q trình
điều chỉnh, một mặt nó dựa vào những chuẩn mực giá trị, mơ hình chính trị để
điều chỉnh hành vi, hành động của chủ thể phù hợp với “cái tốt, cái đúng”.
Mặt khác, nó tăng cường khả năng tự điều chỉnh của các chủ thể phù hợp, hài

hồ với lợi ích của các chủ thể khác, với lợi ích xã hội .
Với tầm cao của VHCT, giới cầm quyền có thể kịp thời phát hiện ra
những điểm nóng chính trị - xã hội, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu để
chủ động"tháo ngòi nổ”,làm dịu đi các xung đột xã hội, giữ vững ổn định
chính trị. Trong những tình huống chính trị, VHCT có ý nghĩa đặc biệt quan
5


trọng, thiếu nó người ta có thể làm cho những quan hệ xã hội vốn bình thường
hoặc ít gay cấn lại trở nên căng thẳng, gay gắt, nóng bỏng, thậm chí đối đầu.
* Chức năng tổ chức và quản lý xã hội.
VHCT là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người trong q trình
hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng chính trị trong những điều kiện kinh tế chính
trị xã hội. Nhưng đến lượt nó, VHCT lại đóng vai trò quan trọng trong tổ chức
và quản lý xã hội.
+ VHCT đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế.
Ngày nay, sự phát triển kinh tế - xã hội không chỉ bắt nguồn từ sức
mạnh kinh tế mà cịn phụ thuộc vào sức mạnh của văn hóa nói chung,VHCT
nói riêng. Hiệu quả của nền kinh tế phụ thuộc ngày càng nhiều vào trình độ
phát triển của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; vào các giá trị tinh
thần của xã hội, các thể chế chính trị; vào trình độ, năng lực, phẩm chất của
những con người chính trị . Văn hóa là nhân tố quan trọng của kinh tế, một
nhân tố qui định bên trong của hoạt động sản xuất. Kinh tế khơng tự mình
phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, VHCT trong nó và tác động vào nó.
+ VHCT đối với việc giải quyết các vấn đề chính trị
Ý thức chính trị, các thiết chế QLCT, hoạt động chính trị thực tiễn, đều
liên quan đến VHCT, đều thể hiện trình độ VHCT của một lực lượng xã hội,
một giai cấp, một tổ chức hay một cá nhân nào đó. Bản thân đời sống chính trị
là một hệ thống các giá trị VHCT. Vì vậy, vấn đề chỉ ở chỗ, các chủ thể chính
trị sử dụng các giá trị VHCT đó như thế nào, có phát huy được vai trị của các

giá trị VHCT trong việc giữ vững nền chính trị và sự ổn định chính trị của
mình hay khơng.
Sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự là những yếu tố cơ bản quan trọng
để giữ vững nền chính trị, bởi kinh tế quyết định chính trị, “chính trị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế” . Điều khẳng định đó đúng nhưng chưa đủ,
6


đời sống xã hội khơng chỉ có kinh tế với chính trị mà cịn có văn hóa. Kinh tế
và văn hoá là hai nền tảng vật chất và tinh thần của xã hội. Nhiều quốc gia
siêu cường về kinh tế, qn sự nhưng khơng có sự ổn định chính trị, xã hội rối
loạn, một trong những nguyên nhân là do VHCT không được phát huy tác
dụng. Vậy VHCT tác động như thế nào?
* Chức năng đánh giá và dự báo chính trị:
Chức năng đánh giá của VHCT thể hiện qua thái độ của các chủ thể
VHCT đối với một hiện tượng, một sự kiện, một q trình chính trị nào đó.
Trên cơ sở nhận thức, chủ thể đánh giá các hiện tượng trong đời sống chính
trị và lựa chọn cho mình những hành vi theo đánh giá ấy. Như vậy, VHCT kết
hợp với khả năng chủ quan của mỗi chủ thể là cơ sở cho các đánh giá chính
trị.

1.2. Cơ sở hình thành và phát triển của văn hố chính trị Việt Nam
1.2.1. Công cuộc xây dựng đất nước, sự gắn bó giữa con người với thiên
nhiên, với quê hương xứ sở và lịch sử đấu tranh chống thiên tai.
Đây là cơ sở chung của tình yêu đất nước đối với nhân dân của mọi
quốc gia - dân tộc; đồng thời cũng là cơ sở chung của văn hóa chính trị Việt
Nam truyền thống và hiện đại.
Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm về địa hình, khí hậu, tài nguyên,
sinh thái, là một thiên nhiên nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng, chứa đựng
nhiều tiềm năng to lớn nhưng cũng đặt ra khơng ít thách thức đối với con

người. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, con người vừa thích nghi, vừa
khai phá tài nguyên và mặt thuận lợi của thiên nhiên để mở mang đồng ruộng,
xóm làng, phát triển kinh tế nơng nghiệp trồng lúa nước kết hợp với các nghề
thủ công, chăn nuôi, đánh bắt, buôn bán... Mặt khác, con người cũng phải liên
kết lại trong cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại của thiên nhiên, chống
7


thiên tai... Từ rất sớm, nhân dân ta đã biết đắp đê sông, đê biển để chống lũ
lụt, bão tố; đào kênh, khơi mương, làm thủy lợi để chống hạn hán, tưới tiêu
cho đồng ruộng. Công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội
trong những đặc điểm của thiên nhiên Việt Nam đã sớm tạo nên sự gắn bó
cộng đồng, sự gắn bó với quê hương, xứ sở. Đó chính là cơ sở của tình u
đất nước, của tình cảm và là cơ sở hình thành, phát triển của văn hóa chính trị
Việt Nam.
1.2.2. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Tính đặc thù và đặc biệt của chống ngoại xâm trong lịch sử Việt Nam
biểu thị tập trung ở chỗ: Hiếm có dân tộc nào trên thế giới phải chống ngoại
xâm nhiều lần như Việt Nam. Kể từ kháng chiến chống Tần thế kỷ III TCN
đến kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và các thế lực
ngoại xâm khác… trong hơn 23 thế kỷ, tính ra thời gian kháng chiến giữ nước
và đấu tranh chống đô hộ ngoại bang với những cuộc khởi nghĩa và những
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đã lên đến trên 12 thế kỷ. Điều đáng lưu
ý ở đây là độ dài thời gian, tần số xuất hiện, độ chênh lệch, cường độ, số
lượng các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng quá lớn so
với các nước khác trên thế giới.
Do đó, con đường sống còn và chiến thắng của dân tộc Việt Nam là
phải biết huy động sức mạnh của toàn dân, của cả đất nước, sức mạnh vật chất
và tinh thần của toàn thể dân tộc. Lịch sử chống ngoại xâm với những đặc
điểm trên đã tác động sâu sắc đến toàn bộ tiến trình lịch sử và sự phát triển

của tinh thần u nước, truyền thống đồn kết dân tộc, ý chí quật cường bất
khuất, niềm tự tơn dân tộc, văn hóa chính trị của dân tộc Việt Nam.
1.2.3. Sự tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử Việt Nam.
Sự phát triển xã hội luôn luôn diễn ra trong sự tiến triển của các hình
thái kinh tế - xã hội. Trong quy luật vận động chung của xã hội lồi người, sự
tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội của mỗi nước mang những nét đặc
8


thù có ảnh hưởng đến sự phát triển văn hố, ý thức, trong đó có văn hóa chính
trị.
Trong thời cổ đại, Việt Nam không trải qua thời kỳ phát triển của chế
độ chiếm hữu nô lệ. Quan hệ nô tỳ, tức chế độ nơ lệ gia trưởng có phát triển
trong mức độ nào đó, nhưng khơng bao giờ trở thành quan hệ chi phối, thống
trị của xã hội và nô tỳ chưa bao giờ giữ vai trò lực lượng sản xuất chủ yếu của
xã hội.
Chế độ phong kiến Việt Nam cũng mang đặc điểm của chế độ phong
kiến phương Đông và khác với chế độ phong kiến phương Tây. Trong thời kỳ
phong kiến, ở Việt Nam khơng có thời kỳ tồn tại của chế độ lãnh địa với quan
hệ lãnh chúa - nông nô, không trải qua thời kỳ phân quyền cát cứ lâu dài. Đặc
điểm này cũng ảnh hưởng đến sự cố kết cộng đồng và sự phát triển của tinh
thần, ý thức dân tộc và văn hóa chính trị Việt Nam.
1.2.4. Sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hoá dân tộc.
Những kết quả nghiên cứu khảo cổ học gần đây cho phép xác nhận
trong thời cổ đại, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay hình thành ba trung tâm
văn hoá - văn minh dẫn đến sự ra đời của ba nhà nước sơ khai: văn hố Đơng
Sơn với nước Văn Lang - Âu Lạc ở miền Bắc, văn hoá Sa Huỳnh với vương
quốc Champa cổ, văn hố óc Eo với vương quốc Phù Nam. Trải qua nhiều
biến thiên lịch sử, ba dịng văn hố và lịch sử đó hịa nhập vào dịng chảy
chung của Việt Nam, lấy dịng văn hố Đơng Sơn với nước Văn Lang - Âu

Lạc làm dòng chủ lưu.
Việt Nam là một nước gồm nhiều thành phần tộc người mà ta quen gọi
chung là nhiều dân tộc, là một quốc gia đa tộc người với 54 dân tộc anh em
cùng chung sống, trong đó dân tộc Kinh (Việt) chiếm 87% dân số. Các dân
tộc thiểu số phần lớn sống ở vùng trung du và miền núi, cũng sống xen kẽ
với nhau. Mỗi dân tộc có vốn văn hố riêng, tạo nên những vùng địa - tộc
9


người rất phong phú, đa dạng. Nhưng do sự gắn bó lâu đời trong một quốc gia
thống nhất, do yêu cầu chống thiên tai, chống ngoại xâm và do sự giao lưu,
hội nhập văn hoá, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam vẫn có mẫu số chung của
một nền văn hố thống nhất trong tính đa dạng, một ý thức chung về vận
mạng cộng đồng.
Việt Nam bao gồm nhiều vùng địa lý với những đặc điểm khác nhau về
địa hình, khí hậu, mơi trường, sinh thái. Những điều kiện tự nhiên đó kết hợp
với hồn cảnh lịch sử cụ thể, tạo nên những vùng địa - văn hoá khác nhau
cũng góp phần tăng thêm tính đa dạng của văn hố Việt Nam. Với vị trí đầu
mối giao thơng tự nhiên của Đông Nam Á, Việt Nam vừa nối liền với đại lục
vừa nhìn ra đại dương và hải đảo, một khu vực giao tiếp của nhiều nền văn
minh trên thế giới. Văn hoá Việt Nam qua giao lưu và tiếp biến, đã tiếp nhận
nhiều ảnh hưởng văn hố bên ngồi làm phong phú văn hoá dân tộc, nhưng
vẫn giữ bản sắc văn hố của mình. Đó là tính thích nghi, hội nhập, tiếp biến
và bản lĩnh của văn hoá Việt Nam.
Tinh thần yêu nước, ý thức về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia
là một bộ phận tạo thành của văn hoá Việt Nam, vừa kết tinh những giá trị
tiêu biểu, vừa chi phối sự phát triển của nền văn hố dân tộc nói chung và văn
hóa chính trị Việt Nam nói riêng.
1.2.5. Q trình thống nhất quốc gia và hình thành sớm của dân tộc Việt
Nam.

Nhà nước Việt Nam ra đời không chỉ trên cơ sở phân hóa xã hội, phân
hóa giai cấp, mà chủ yếu cịn do yêu cầu của lịch sử , đó là phải có một tổ
chức đứng ra để tập hợp lực lượng, để chỉ huy dân tộc xây dựng và quản lý
các cơng trình đê điều, thủy lợi và u cầu tự vệ chống ngoại xâm. Quá trình
hình thành, phát triển của nhà nước gắn liền với quá trình thống nhất quốc
gia.
10


Việc sử dụng quyền lực nhà nước ở thời kỳ dựng nước cũng không
phải chủ yếu là để thống trị giai cấp, mà chủ yếu là để cố kết dân tộc, tập hợp
lực lượng, chỉ huy dân tộc đánh giặc ngoại xâm và chống thiên tai xây dựng
đất nước. Đây là những nét độc đáo mang đậm tính nhân văn sâu sắc của lịch
sử chính trị Việt Nam. Nó hình thành quy luật cơ bản của chính trị Việt Nam,
của văn hóa chính trị Việt Nam - Đồn kết mang đậm tính nhân văn.
Q trình thống nhất quốc gia và thống nhất dân tộc sớm tác động sâu
sắc đến sự phát triển của tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc, tạo nên tinh
thần đoàn kết dân tộc và sự cố kết cộng đồng mang tính dân tộc, chưng cất
nên đặc trưng của văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa chính trị Việt Nam
nói riêng.

11


CHƯƠNG II: ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT
TRIỂN VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
2.1. Đặc trưng Văn hóa Chính trị Việt Nam hiện nay
Yếu tố dân tộc làm nên bản chất và bản sắc của một nền văn hố chứ
khơng phải yếu tố giai cấp, cho nên văn hố chính trị Việt Nam là do văn hoá

dân tộc Việt Nam làm nên - là kết tinh của văn hoá dân tộc Việt Nam theo
chiều dài dựng nước và giữ nước. Ở quốc gia nào cũng thế, với nghĩa chung
nhất thì văn hố chính trị là một phương diện của văn hố, một mặt của văn
hoá, một lĩnh vực biểu hiện của văn hố - lĩnh vực chính trị. Điều đó có nghĩa
là văn hố chính trị bao chứa tồn bộ những yếu tố của văn hố nói chung
được hình thành và phát triển trong lĩnh vực chính trị. Nếu như văn hố là kết
tinh tồn bộ giá trị tinh thần nhân văn của con người, thì văn hố chính trị
cũng là cái kết tinh toàn bộ giá trị tinh thần nhân văn của một nền chính trị (cả
thể chế chính trị và cả con người chính trị). Văn hố chính trị Việt Nam, vì
vậy, xun suốt cơ thể văn hố dân tộc Việt Nam, nó hình thành cùng với lịch
sử văn hố Việt Nam. Do đó, nó cũng hình thành cùng với lịch sử dân tộc
Việt Nam, đồng thời là một phương diện của nền văn hố Việt Nam. Những
gì hình thành nên văn hố chính trị Việt Nam cũng sẽ tạo nên văn hố dân tộc
Việt Nam.
Có thể nói, tồn bộ hệ thống giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
là những thành tố tạo nên văn hố chính trị Việt Nam. Bản sắc văn hoá dân
tộc là cái lắng đọng sâu thấm nhất các giá trị truyền thống dân tộc. Cịn bản
sắc văn hố chính trị Việt Nam là cái lắng đọng sâu thấm nhất các giá trị
truyền thống trong khía cạnh, lĩnh vực hoạt động chính trị của dân tộc Việt
Nam trong cả tư duy chính trị và hành vi chính trị.
Vì thế, các thành tố hình thành văn hố chính trị Việt Nam khơng chỉ là
các điều kiện thiên nhiên, mơi trường sinh thái, mà cịn là điều kiện xã hội,
12


môi trường xã hội Việt Nam. Những yếu tố quan trọng hình thành văn hố
chính trị Việt Nam cịn phải là tâm lý, tính cách con người Việt Nam thể hiện
trong lao động, học tập, chiến đấu, trong xây dựng một quốc gia thống nhất,
độc lập, tự lực, tự cường, một nền chính trị nhân văn. Đó cũng chính là thiên
hướng phát triển con người và phát triển dân tộc; là năng lực và trình độ hoạt

động chính trị của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử; là những tư chất, tính
khí, năng khiếu, tài năng kinh bang tế thế của những cá nhân xuất chúng trong
suốt lịch sử dựng nước và giữ nước, trong xây dựng và kiến thiết xã hội trong
các thời kỳ lịch sử. Đồng thời đó là sự vận dụng thời cơ, xử lý tình huống, lợi
dụng xu thế phát triển của chính trị quốc gia và quốc tế, vận hội, thời thế của
thời cuộc và thời đại. Đó, tuy chưa đầy đủ, nhưng là những điều cơ bản nhất
khi bàn về sức sống mãnh liệt của văn hóa chính trị Việt Nam.
Tất cả những yếu tố vơ cùng phong phú, đa hình, đa dạng có tính tổng
hợp đó đã hình thành nên diện mạo và bản chất văn hố Việt Nam nói chung,
những gía trị văn hố chính trị đặc sắc của Việt Nam nói riêng. Văn hố chính
trị Việt Nam gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam. Hơn nữa, bản chất của
văn hố chính trị Việt Nam được kết tinh từ lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam, là đấu tranh và phấn đấu thực hiện những
ước mơ, khát vọng của con người Việt Nam. Lịch sử đó đã hình thành nên
những giá trị văn hố chính trị truyền thống Việt Nam. Truyền thống khơng
để lại cho hiện đại những cơng trình văn hóa vật chất đồ sộ, bởi vì dân tộc ta
phải dồn sức liên tục chống giặc ngoại xâm và chống thiên tai, nhưng truyền
thống đã để lại cho hiện đại, cho thế hệ hôm nay và mai sau cả một kho tàng
văn hóa tinh thần đồ sộ, một văn hóa chính trị Việt Nam đặc sắc. Đó là: 1.
Một nền chính trị nhân văn, thương dân, dân là gốc; 2. Tư tưởng chính trị đấu
tranh cho độc lập và chủ quyền quốc gia, tự do, tự lực, tự cường; 3. Tinh thần
tự hào dân tộc, tự tôn nền văn hiến quốc gia, trọng trí tuệ, quy tụ người hiền;
4. Một nền chính trị đạo lý, tơn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý; 5. Vừa đề
13


cao đức trị vừa đề cao pháp trị; hình thành tư tưởng về một nền chính trị pháp
quyền; 6. Tư tưởng và hành vi chính trị khoan dung, độ lượng, vị tha; 7. Hịa
hợp, hữu nghị, hợp tác vì sự phát triển và tiến bộ.
Tất cả những giá trị, phẩm chất và năng lực đó hợp thành một nền

chính trị nhân đạo, nhân văn, tất cả vì con người. Đó chính là bản chất của
văn hố chính trị Việt Nam. Đó là những giá trị nền tảng và cũng chính là
trình độ, là sức sống có cội nguồn, gốc rễ vững bền và là sức mạnh thúc đẩy
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hiện nay.
Xây dựng văn hố chính trị Việt Nam hiện nay thực chất là phát huy
tinh thần nhân văn lên tầm cao mới tiên tiến và hiện đại, mà trước hết ở việc
xác định mục tiêu, lý tưởng chính trị. Một nền chính trị dù trình độ tổ chức
cao, cơng nghệ hồn hảo, nhưng mục tiêu phi nhân đạo thì nền chính trị đó
khơng thể là chính trị văn hố.
Cũng như các sáng tạo văn hóa khác, văn hóa chính trị cũng chịu
những tác động khách quan và chịu sự chi phối bởi những đặc trưng chung
của văn hóa. Một đặc điểm quan trọng của văn hóa chính trị là cùng với
những yếu tố nội sinh ln có những yếu tố ngoại lai, nhưng được tiếp biến
và có sức sống trong văn hóa bản địa hoặc những giá trị văn hóa bản địa bị
biến đổi dưới tác động của chúng, được gọi là yếu tố ngoại sinh. Văn hóa
chính trị Việt Nam khơng nằm ngồi những quy luật chung này của nhân loại.
Cùng với những yếu tố nội sinh, văn hóa chính trị Việt Nam còn chịu
ảnh hưởng từ những từ tư tưởng chính trị, các học thuyết ngoại lai... Tuy
nhiên, một đặc điểm rất nổi bật trong văn hóa chính trị Việt Nam là những tư
tưởng và học thuyết ngoại lai chỉ có sức sống khi nhập thân vào dân tộc, hịa
đồng với những tư tưởng, đạo lý chính trị bản địa, tuy khơng được hình thức
hóa bằng các học thuyết, chủ nghĩa nhưng luôn là cốt lõi cho bệ đỡ tư tưởng
chính trị. Thậm chí, nó cịn là nhân tố chi phối buộc các học thuyết và hệ tư
14


tưởng ngoại lai phải thay hình đổi dạng để phù hợp với đặc điểm dân tộc. Đó
là chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc và truyền thống nhân ái, hòa
đồng.
Mặt khác, trải qua một thời gian dài, thích nghi, biến đổi, Phật giáo,

Khổng giáo, Đạo giáo và các giá trị văn hóa tiếp nhận khác cũng đã trở thành
một bộ phận của văn hóa Việt Nam.
Bước vào thời kỳ hiện đại, Đảng ta khẳng định để xây dựng nền văn
hóa chính trị Việt Nam tiên tiến, hiện đại cần kế thừa các giá trị văn hóa chính
trị truyền thống tốt đẹp được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước, kế thừa các giá trị văn hóa chính trị tinh hoa của các nước trên thế giới,
trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mục tiêu cách mạng của Đảng Cộng sản khơng chỉ dừng lại ở việc
giành và nắm chính quyền, mà là bằng chính quyền đó sẽ xây dựng thành
cơng một nước Việt Nam giàu mạnh với một xã hội dân chủ, công bằng và
văn minh, nhân dân được sống trong ấm no và hạnh phúc. Lý tưởng đó phù
hợp với nguyện vọng của tuyệt đại bộ phận dân tộc. Vì vậy, vị trí lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng là phù hợp với quy luật vận động của lịch sử Việt Nam
khơng chỉ trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc mà trong cả thời kỳ
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Văn hố chính trị làm cho sự tác động của chính trị đến đời sống xã hội
giống như sức mạnh nội sinh của văn hố. Đó là loại sức mạnh không dựa vào
quyền lực hay ép buộc là chủ yếu, mà chủ yếu là được tạo dựng từ sự đồng
thuận xã hội thơng qua cảm hố, khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý thức tự giác
của các tầng lớp nhân dân./.

15


2.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển Văn hóa Chính trị Việt
Nam
2.2.1. Đẩy mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
và quản lý của Nhà nước
Văn hóa trong chính trị là các giá trị văn hóa làm nền tảng cho chế độ
chính trị, thẩm thấu, lan tỏa trong hoạt động chính trị, trong hệ thống chính

trị, thể chế chính trị, bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân
dân tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Văn hóa chính trị không chỉ
là các giá trị văn hóa làm điểm tựa cho hệ thống chính trị mà còn là nền tảng
tư tưởng chi phối, thu hút sự tham gia của quần chúng nhân dân vào đời sống
chính trị. Trong đó, cần đặc biệt chú ý đến mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa
Đảng, nhà nước và nhân dân. Cần nhận thức rõ ràng và sâu sắc hơn vai trò
của nhân dân trong qua trình thực hành văn hóa chính trị, đưa các giá trị văn
hóa vào hoạt động chính trị thường nhật của xã hội. Đồng thời cần chú ý văn
hóa ứng xử của hệ thống công quyền đối với nhân dân. Thái độ đối với nhân
dân được xem là thước đo của văn hóa trong chính trị. Đây là vấn đề cần được
bổ sung vào nhận thức lý luận văn hóa trong chính trị hiện nay. Niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự quản lý của nhà nước trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế là biểu hiện của sức mạnh, của nội lực văn hóa để thực hiện các mục
tiêu chính trị.
2.2.2. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
Một trong những nội dung cốt lõi của văn hóa trong chính trị là văn hóa
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trước nhân dân để Đảng ta thực sự là “đạo
đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu. Điều này rất phù hợp
với truyền thống chính trị phương Đông nói chung, truyền thống, văn hóa
chính trị Việt Nam nói riêng là coi trọng tấm gương của người đứng đầu. Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 Khóa XII đã ban hành Đề án xây
16


dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực
và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 Khóa XII đã
ban hành Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước
hết là Ủy viên Bộ chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương là
hướng đi hoàn toàn đúng đắn, vừa đảm bảo tính khoa học, vừa đảm bảo tính

thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng
trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. Như vậy, xây dựng văn hóa trong chính
trị trước hết phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong các cơ quan nhà
nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, trước hết là những người đứng đầu
trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, của thủ trưởng cơ quan, đơn
vị... Việc thực hiện các quy định này gắn liền với việc đẩy mạnh việc thực
hiện Chỉ thị 05 của Bộ chính trị và Kế hoạch 03 của Ban Bí thư về đẩy mạnh
học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực từ các chủ thể chính trị trong
cuộc đấu tranh chống lại sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng các nhân tố mới, tích cực trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2.3. Bảo vệ và phát huy và phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng
Lý tưởng chính trị là cơ sở, là động lực thôi thúc và tập hợp đông đảo
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tham gia vào sự nghiệp cách
mạng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội năm 1991 và được bổ sung phát triển năm 2011 và các Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc thời kỳ đổi mới đều khẳng định: Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ
nam cho hành động cách mạng. Đồng thời Đảng yêu cầu toàn Đảng, mỗi cán
bộ, đảng viên phải “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”

17


Nghị quyết Trung ương bốn Khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng đã chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó có biểu hiện
thuộc về suy thoái trong nhận thức, thái độ, hành vi đối với nền tảng tư tưởng
của Đảng. Đó là “hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh”, thậm chí là phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là sự suy thoái về lý tưởng chính trị, dao
động, mất phương hướng chính trị, từ đó tác động và làm suy thoái về đạo
đức và lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Vì vậy, trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Đảng và nhà nước cần đặc biệt quan tâm bồi
dưỡng và giáo dục lý tưởng chính trị - xã hội cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân, truyền cảm hứng về khát vọng, lý tưởng, hoài bão chính trị, tạo động lực
cho thúc đẩy hành động chính trị trong thực tiễn. Cần chú ý rằng, không có
khát vọng và lý tưởng chính trị - xã hội tốt đẹp thì không thể xây dựng và
phát triển văn hóa trong chính trị.
2.2.4. Phát huy vai trò của loại hình văn hóa, nghệ thuật trong việc tuyên
truyền, bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Bước vào thời kỳ đổi mới hiện nay, lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ
thuật nói chung đã được Đảng và nhà nước ta quan tâm chỉ đạo tập trung và
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các
chương trình, mục tiêu quốc gia về văn hóa được đầu tư. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng con người còn bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế.
Điểm thiếu hụt lớn nhất là đầu tư để xây dựng bồi dưỡng lý tưởng chính trị và
đạo đức xã hội chưa đủ tầm mức, chưa lường trước được sự tác động của kinh
tế thị trường và toàn cầu hóa sau khi mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
18



×