ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
AN THỊ NGỌC TRINH
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG
VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
& CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số : 62.22.80.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH – 2013
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
TS. HÀ THIÊN SƠN
TS. NGUYỄN ANH QUỐC
Phản biện 1: …………………………………………………………….
Phản biện 2:……………………………………………………………
Phản biện 3:………………………………………………………………
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước
họp tại: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
TP.Hồ Chí Minh
Vào lúc:……… giờ……… ngày…… tháng…… năm …….
Có thể tìm đọc luận án tại:
* Thư viện Trường Đại học KHXH&NV TP.Hồ Chí Minh
* Thư viện Trường Cao đẳng Sư p hạm TW. TP.Hồ Chí Minh
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển gắn
liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, là một chỉnh thể
đồ sộ, phong phú bao gồm tri thức, tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán và truyền thống… Văn hóa
dân tộc vừa là “trầm tích” của tình cảm và ý thức dân tộc trong quá
khứ, vừa kết tinh thành hệ giá trị chân - thiện - mỹ như một hệ giá trị
phổ quát văn hóa dân tộc trong quốc gia và trong cộng đồng nhân
loại. Tất cả những điều đó tạo nên hệ giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc hay nói cách khác, mọi bản sắc dân tộc đều chứa đựng các
giá trị.
Là một bộ phận của văn hóa dân tộc Việt Nam, văn hóa gia đình
Việt Nam luôn thể hiện vai trò quan trọng của mình trong việc lưu giữ
và truyền thụ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Những giá
trị văn hóa ấy thể hiện rõ nét trong giáo dục trí tuệ và nhân cách con
người, đặt nó trong môi trường gia đình và xã hội. Mỗi gia đình, bên
cạnh những giá trị văn hóa chung của cộng đồng, xã hội, còn có những
nét văn hóa truyền thống riêng. Truyền thống văn hóa gia đình không
những là niềm tự hào của mỗi thành viên trong gia đình mà còn là nhân
tố tác động đến sự hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, tạo ra những
nét đặc trưng riêng của từng gia đình.
Cùng với sự biến đổi của xã hội, giá trị quan hệ mang tính
truyền thống, đời sống trong gia đình từng bước thay đổi, điều đó làm
nảy sinh nhiều quan niệm chưa thống nhất về gia đình, văn hóa gia
đình cũng như sự định hướng phát triển gia đình trong tương lai. Từ
đó, những nhu cầu mới trong việc nhận thức đúng đắn, khoa học về gia
đình và văn hóa gia đình ngày càng cần thiết, góp phần quan trọng
trong việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
2
Với tất cả những suy nghĩ trên, dưới góc độ triết học xã hội, tác
giả chọn đề tài:“Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong
xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ
Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của việc giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong việc xây dựng văn hóa gia
đình nên từ lâu, vấn đề văn hóa, văn hóa dân tộc và văn hóa gia đình
đã được các nhà tư tưởng, các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu sâu
sắc. Nhiều công trình khảo luận, phân tích lý luận và thực tiễn về văn
hóa dân tộc, văn hóa gia đình đã được đề cập đến từ rất lâu trong lịch
sử. Có thể khái quát các kết quả công trình nghiên cứu trên theo hai
hướng sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa dân tộc
và các giá trị của văn hóa dân tộc. Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá
trị văn hóa trước đây là công việc của nội bộ mỗi quốc gia, nhưng từ
những năm 60 của thế kỷ XX, nó đã trở thành vấn đề mang tính quốc tế.
Ở Việt Nam, các vấn đề về văn hóa, văn hóa dân tộc và giá trị
của văn hóa dân tộc từ lâu đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm tiếp cận từ nhiều góc độ, phạm vi khác nhau và nhiều ấn phẩm
đã được xuất bản suốt gần một thế kỷ qua đã tích lũy nhiều tri thức,
tìm tòi về chủ đề này. Các công trình gắn liền với tên tuổi các nhà
khoa học lớn: Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giàu,
Nguyễn Hồng Phong, Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê, Phan Ngọc,
… đã được xuất bản. Trong các tác phẩm ấy, tác phẩm “Giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của GS.Trần Văn Giàu
xuất bản năm 1980 đã đánh dấu việc nghiên cứu giá trị văn hóa dân
tộc Việt Nam.
Nhìn chung, đã có nhiều tác phẩm xoay quanh chủ đề nhận thức,
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, nhưng phần lớn các
công trình này mới được tiếp cận từ góc độ chuyên môn riêng, nhiều
3
công trình vẫn nặng về miêu tả các hiện tượng văn hóa. Phần lớn các
công trình chưa nhìn nhận những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
trong khung cảnh chung của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và toàn cầu hóa.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về gia đình, văn hóa gia đình
và sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam với tư cách là một bộ
phận của văn hóa dân tộc. Có thể nói các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác là những người đóng góp to lớn cho vấn đề nghiên cứu gia đình.
Tác phẩm nổi tiếng Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước của Ph. Ăngghen được coi là một trong những tác phẩm
dẫn đường cho trào lưu nghiên cứu về gia đình của thế kỷ XIX.
Ở Việt Nam, những khảo luận và phân tích về gia đình cũng đã
được chú ý từ rất lâu. Trong lịch sử phát triển của Việt Nam, cha ông
ta dạy cho con cháu những giá trị truyền thống về tính cộng đồng, tinh
thần tương thân tương ái, sự ham học hỏi và tôn trọng trí thức Vấn đề
gia đình Việt Nam và biến đổi văn hóa gia đình Việt Nam được đề cập
đến trong một số tác phẩm của các tác giả: Nguyễn Từ Chi (1991),
Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội; Hồ Ngọc Đại (1996), Tam giác gia đình. Những nghiên
cứu về gia đình Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội; Vũ Quang
Hà (biên dịch) (2001), Tương lai của gia đình, Đại học quốc gia Hà
Nội; … Các tác phẩm trên tập trung khẳng định gia đình là một tế bào
của xã hội, là một nhóm xã hội cơ sở kiến tạo nên xã hội rộng lớn. Do
đó, sự trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn
tại và phát triển của mỗi gia đình.
Giáo sư Lê Thi (2002) với các tác phẩm Gia đình Việt Nam
trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Vai
trò của gia đình trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb.
Phụ nữ, Hà Nội hay Vũ Ngọc Khánh (1998) với tác phẩm Văn hóa gia
đình Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội;… nghiên cứu gia đình
Việt Nam đang trong quá trình biến đổi mạnh mẽ từ truyền thống
4
sang hiện đại. Nhiều giá trị văn hóa quý báu của gia đình truyền
thống, nhiều giá trị văn hóa tiên tiến của gia đình hiện đại đang cùng
hiện diện trong đời sống gia đình.
Ngoài các vấn đề trên, đề tài dân tộc và văn hóa dân tộc còn
được các tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu trên chưa công trình nào nghiên cứu đầy
đủ, sâu sắc và có hệ thống về việc giữ gìn và phát huy các giá trị của
văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam. Chính vì
vậy, trong luận án này, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu các công trình
khoa học đã được công bố, tác giả đi sâu nghiên cứu thực trạng của
việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng
văn hóa gia đình Việt Nam, từ đó rút ra phương hướng và giải pháp
nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực
trong quá trình xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: Nghiên cứu thực trạng việc bảo tồn các
giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam,
nhằm đề xuất những giải pháp cơ bản và một số kiến nghị nhằm giữ
gìn và phát huy giá trị đó trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án: để đạt được mục đích đặt ra, luận án thực
hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, trình bày khái luận chung về văn hóa dân tộc và văn hóa
gia đình Việt Nam hiện nay.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra đối
với việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn
hóa gia đình Việt Nam hiện nay.
Ba là, xác định mục tiêu, phương hướng và những giải pháp
nhằm phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia
đình Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được trình bày trên cơ sở vận dụng các quan điểm lý
5
luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng
thời tham khảo, tiếp thu có lựa chọn những thành tựu lý luận của thế
giới về văn hóa dân tộc, gia đình và văn hóa gia đình.
Trên cơ sở các tài liệu tham khảo, số liệu về giá trị văn hóa dân
tộc, văn hóa gia đình, tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
trong đó phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử lôgic, phương
pháp thống kê, so sánh được sử dụng như là những phương pháp
nghiên cứu chủ đạo.
5. Những cái mới của luận án
- Đánh giá thực trạng của việc giữ gìn và phát huy giá trị của
văn hóa dân tộc trong việc xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới.
- Luận án nêu lên những phương hướng và giải pháp cụ thể
nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu
cực đến gia đình nhằm xây dựng gia đình theo hướng ấm no, tiến bộ
và hạnh phúc.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án:
- Ý nghĩa khoa học: Luận án trình bày một cách có hệ thống về
văn hóa dân tộc, văn hóa gia đình và những vấn đề cơ bản của gia
đình truyền thống Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng việc giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, luận án trình bày cơ sở khoa
học cho việc xây dựng phương hướng và giải pháp góp phần giữ gìn
các giá trị văn hóa dân tộc, trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam
theo hướng ổn định và phát triển
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được kết cấu gồm 03 chương, 06 tiết.
6
Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA,
VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
1.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA, VĂN HÓA DÂN TỘC
1.1.1. Quan niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm đa tầng, đa nghĩa với ngoại diên rất
rộng và nội hàm phong phú. Cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về văn hóa. Mỗi định nghĩa đều góp phần làm rõ khía cạnh
khác của văn hóa, song không phải định nghĩa nào cũng được chấp
nhận một cách rộng rãi.
Tiếp thu quan điểm nhân văn và cách mạng của chủ nghĩa Mác,
kết hợp với những tinh hoa truyền thống của dân tộc và nhân loại, Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Người quan niệm về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở
và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
1.1.2. Quan niệm về giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam
Giá trị văn hóa (cultural value ) là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó
được sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng,
tương ứng với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định.
Văn hoá dân tộc là một khái niệm rộng, đa diện và trừu tượng.
Văn hóa dân tộc là một hệ thống những giá trị tinh túy, bền vững, là
nơi hội tụ những tinh hoa văn hóa dân tộc; là năng lực nội sinh của mỗi
dân tộc nhưng không phải là cái gì khép kín từ chối sự giao lưu, tiếp
thu văn hóa nhân loại, ngược lại, văn hóa của mỗi dân tộc thể hiện sức
sống của mình trong quá trình cọ sát với lịch sử và giao lưu quốc tế.
7
Những giá trị cơ bản của văn hoá dân tộc Việt Nam: Chủ
nghĩa yêu nước; Tinh thần cộng đồng, đoàn kết; Tinh thần lạc quan,
nhân nghĩa của người Việt Nam; Tinh thần cần cù, chịu đựng gian
khó; Trọng lễ nghĩa, thờ cúng tổ tiên, biết ơn những người có công
với đất nước …
1.2. GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ NHỮNG TRỊ VĂN HÓA DÂN
TỘC TRONG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
1.2.1. Khái quát về gia đình và văn hóa gia đình Việt Nam
Khái quát về gia đình Việt Nam: Gia đình có thể hiểu là một nhóm
nhỏ xã hội, các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó với nhau qua
hôn nhân, quan hệ huyết thống, tâm sinh lý, có chung các giá trị vật
chất, tinh thần tương đối ổn định trong các giai đoạn phát triển lịch sử xã
hội.
Khái quát về văn hóa gia đình Việt Nam: Văn hóa gia đình là hệ
thống những giá trị, chuẩn mực khác biệt, đặc thù điều tiết mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia
đình và xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia đình đặc
trưng cho các cộng đồng, các tộc người, các dân tộc và các khu vực
khác nhau được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời
sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi
trường tự nhiên và xã hội.
Theo các tài liệu nghiên cứu đã công bố của Đề tài “Văn hóa gia
đình Việt Nam (đề tài cấp nhà nước, mã số KX 06 – 11), văn hóa gia
đình có các hệ thống giá trị sau: giá trị cấu trúc và giá trị chức năng.
Cả hai loại giá trị đó hợp thành hệ giá trị (systeme de valeurs) của văn
hóa gia đình. Trong đó, giá trị cấu trúc là giá trị biểu hiện các mối
quan hệ bên trong của gia đình, qui mô gia đình và vai trò của những
thành viên gia đình trong các hình thái đó. Bên cạnh giá trị cấu trúc,
giá trị chức năng đóng vai trò quan trọng. Có thể nói, giá trị chức
năng của văn hoá gia đình là sự biểu hiện vai trò, vị trí của văn hoá
gia đình đối với các thành viên của nó và đối với xã hội. Kết hợp với
8
cách nhìn xã hội học, từ góc nhìn văn hóa học, nghiên cứu chức năng
của văn hoá gia đình chính là nghiên cứu các giá trị chức năng của
văn hoá gia đình trong đời sống gia đình và xã hội. Gia đình với tư
cách là một thiết chế xã hội có các chức năng: Chức năng sinh sản và
tái sản xuất ra con người và xã hội, Chức năng kinh tế của gia đình,
Chức năng tình cảm của gia đình, Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục
con cái và hình thành nhân cách con người.
Ngoài ra, văn hóa gia đình Việt Nam còn có chức năng truyền tải
các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác và chức năng
hình thành các giá trị văn hóa mới
1.2.2. Những giá trị văn hóa dân tộc chủ yếu trong văn hóa gia
đình Việt Nam
Giá trị đạo đức của gia đình.
Giá trị giáo dục của gia đình.
Giá trị ý thức cộng đồng của gia đình.
Giá trị tâm lý, tình cảm của gia đình.
1.2.3 Tính quy luật của sự vận động văn hóa gia đình Việt Nam
Văn hóa gia đình vận động trong quá trình tiếp xúc với các nền
văn hóa khác.
Văn hóa gia đình vận động cùng với sự biến đổi của xã hội.
Kết luận chương 1
Văn hoá của mỗi dân tộc được kết tinh từ truyền thống lịch sử
của chính dân tộc đó. Trải qua hàng ngàn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước, cùng với kết quả giao lưu và
tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới, nền văn hoá dân tộc
Việt Nam đã hình thành và phát triển.
Là một bộ phận của văn hóa dân tộc, văn hóa gia đình Việt Nam
luôn thể hiện vai trò quan trọng của mình với tư cách là tế bào của xã
hội, là một thiết chế xã hội đặc thù. Gia đình Việt Nam truyền thống
9
là gia đình chứa nhiều yếu tố bất biến, ít đổi thay, ra đời từ nôi văn
hóa bản địa, được bảo lưu và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và
hình thành nên hệ giá trị văn hóa gia đình. Những giá trị về văn hóa
gia đình là một bộ phận không thể thiếu, làm nên những giá trị văn
hóa chung của văn minh nhân loại. Đó là những lề lối, gia phong,
phép tắc và khuôn khổ mà mỗi gia đình, dòng họ tiếp nối từ những
thế hệ đi trước, …
Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN
HÓA DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ TRỊ VĂN HÓA
DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1.1. Những nhân tố khách quan tác động đến việc giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình
Việt Nam hiện nay
Một là, tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Ba là, sự tác động của công cuộc đổi mới đất nước.
- Đổi mới toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm được
tiến hành một cách tuần tự, từng bước phù hợp với mỗi thời kỳ,
mỗi giai đoạn.
- Đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị.
- Đổi mới để phát triển trong ổn định.
- Đổi mới đất nước gắn liền mở cửa với thế giới bên ngoài.
Bốn là, tác động của sự phát triển kinh tế thị trường.
Năm là, tác động của sự phát triển văn hóa, xã hội đến văn hóa gia
đình trong thời kỳ đổi mới.
10
2.1.2. Những nhân tố chủ quan tác động đến việc giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình
Việt Nam hiện nay
Một là, tác động của chính sách Nhà nước đến biến đổi văn hóa
gia đình.
Hai là, tác động của Luật Hôn nhân và Gia đình (2000) và các
bộ luật có liên quan đến gia đình ở Việt Nam.
Ba là, tác động của các tổ chức chính trị- xã hội đến văn hóa
gia đình.
Bốn là, tác động của hệ ý thức Nho giáo đến văn hóa gia đình
Việt Nam.
2.2 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN
TỘC TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
2.2.1 Thực trạng việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay
Việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong xây
dựng văn hóa gia đình ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực,
đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng cũng đang đứng trước nhiều
nguy cơ và thách thức to lớn.
- Nhìn chung, nếp sống văn hóa trong gia đình Việt Nam truyền
thống vẫn giữ được sự ổn định và được cả cộng đồng xã hội tôn trọng.
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc biểu hiện trong văn
hóa gia đình vẫn được tôn trọng, khẳng định và xem đó như là đạo lý
của dân tộc. Giá trị yêu nước hiện nay vẫn còn được lưu giữ.
Mỗi thành viên trong gia đình Việt Nam đoàn kết thành một
khối vững chắc, thống nhất trong tư duy và hành động, phát huy lòng
yêu nước, tính sáng tạo bằng mỗi việc làm cụ thể có lợi cho chính
mình, cho cộng đồng, có ích cho đất nước góp phần phát hiện, ngăn
chặn, khắc phục các tệ nạn xã hội và sự chống phá của các thế lực
thù địch gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức, tình cảm và trách
11
nhiệm của thế hệ trẻ trong gìn giữ và phát huy truyền thống yêu
nước Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay truyền thống yêu nước đang có nguy cơ bị
lệch lạc hay bị “khúc xạ” so với giá trị vốn có của nó qua thái độ của
một số thanh niên trẻ tuổi. Căn bệnh vô cảm của một bộ phận giới trẻ,
trong đó có cả sự vô cảm đối với quê hương đất nước ngày càng gia
tăng. Không ít những tư tưởng so sánh về tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu của nước ta so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Không ít những tư tưởng so sánh về tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của
nước ta so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới; không ít
người sẵn sàng đánh đổi tất cả, thậm chí cả Tổ quốc để có được một
cuộc sống vật chất vương giả; không ít người được cử ra nước ngoài
học tập nhưng lại không muốn trở về nước để phục vụ Tổ quốc, họ
tìm mọi cách ở lại với mục đích tìm kiếm cuộc sống giàu sang, sung
sướng cho riêng mình; không ít số thanh niên trốn tránh nghĩa vụ
quân sự, không muốn cống hiến, chỉ muốn hưởng thụ, không ít người
lợi dụng chính sách mở cửa để kiếm lợi riêng cho bản thân mình, bất
chấp cả lợi ích của quốc gia, dân tộc Tất cả những biểu hiện trên
cho thấy việc giữ gìn và phát huy giá trị yêu nước của dân tộc đang
đứng trước nhiều thách thức.
- Tinh thần đoàn kết của con người Việt Nam, của dân tộc Việt
Nam trước tiên được thể hiện trong gia đình, trong cộng đồng làng xã,
và hơn hết là trong toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong
gia đình Việt Nam hiện nay, sức mạnh của tinh thần đoàn kết vẫn
được lưu giữ và phát huy thể hiện qua văn hóa ứng xử giữa các thành
viên trong gia đình. Đó là sự tiếp nối truyền thống đạo đức quý báu
của dân tộc. Sự đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong gia đình
thể hiện qua sự tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và
con cái. Mọi thành viên trong gia đình cùng nhau thống nhất ý kiến,
tôn trọng ý kiến của nhau, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no hạnh
phúc. Đấy chính là giá trị cao đẹp trong văn hóa gia đình. Giá trị
12
đó được hình thành từ một bầu khí có sự thấu hiểu và tôn trọng lẫn
nhau, trong đó mọi thành viên đều cảm nhận đượctình yêu thương,
thấy mình có giá trị, được tôn trọng. Sự gắn kết này tác động rất lớn
đối với hành vi và nhân cách của mỗi người. Cách ứng xử trong gia
đình không phải là trừu tượng, là lời nói suông mà là một thực tế hữu
hiệu qua lời nói, cử chỉ, việc làm và hành động cụ thể. Đồng thời gia
đình hiện nay cũng đang tiếp thu và thể hiện những tư tưởng tiến bộ
của nhân loại: Tôn trọng và thực hiện quyền bình đẳng giới. Đây là
một nét mới trong biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam và đã thu
hút sự quan tâm, đồng tình thực hiện của cả xã hội.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Việt Nam đang phải đối
mặt với rất nhiều thách thức về phương diện đời sống, kinh tế, xã
hội… Tất cả những việc đó cộng dồn lại thành những áp lực lớn cho
toàn thể cộng đồng, xã hội. Trong những áp lực như vậy thì gia đình,
một tế bào của xã hội dường như lúc nào cũng có những vấn đề cần
thiết phải giải quyết. Những căng thẳng, ngột ngạt trong không khí
chung của toàn xã hội khiến các mâu thuẫn trong gia đình bùng phát
một cách mạnh mẽ. Tính bền vững của gia đình hiện đại đang mất đi,
sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình bắt đầu có chiều hướng
lỏng lẻo. Vì vậy, văn hóa gia đình Việt Nam không thể tránh khỏi
sự tác động của những làn sóng đó. Những kết quả điều tra về gia
đình Việt như tỷ lệ ly hôn, tình trạng bạo lực gia đình cho thấy sự
bền vững của gia đình Việt Nam, biểu hiện đặc trưng cho văn hóa
dân tộc Việt Nam đang bị công phá mạnh mẽ.
Thêm vào đó, thời gian gần nhau của mọi thành viên trong gia
đình quá ngắn ngủi, nên nó trở thành một trong những nguyên nhân
kéo theo nhiều hệ lụy phức tạp: vợ chồng thiếu thời gian dành cho
nhau, một trong những mầm mống của nghi kỵ, thiếu chung thủy và
đổ vỡ; con cái thiếu vắng sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ, mầm
mống của sự phá phách, ngỗ nghịch, bữa cơm gia đình thưa dần…
Tính cộng đồng trong gia đình dần dần bị phá vỡ.
13
- Đối với người Việt Nam, cần cù, yêu lao động là những giá trị
và phẩm chất nổi bật của dân tộc. Giá trị cần cù được bắt nguồn từ
thực tiễn của nền sản xuất nông nghiệp và hiện nay vẫn còn được lưu
giữ. Trong những năm gần đây, chất lượng sống của người dân Việt
Nam không ngừng tăng cao. Gia đình có điều kiện phát triển kinh tế,
đồng thời có điều kiện tốt để nâng cao chất lượng cuộc sống từ mức
thu nhập của các thành viên trong gia đình. Đó cũng chính là một
phần quan trọng trong quá trình phát huy truyền thống lao động cần
cù của dân tộc. Có thể nhận thấy gia đình là yếu tố quan trọng giúp
con người có thêm ý chí và nghị lực vượt qua khó khăn thử thách, đi
tới những thành công. Vì vậy, trong xã hội xuất hiện nhiều tấm gương
những người cha, người mẹ tảo tần nuôi con ăn học suốt ngày “bán
mặt cho đất, bán lưng cho trời”, không ngại khó khăn vất vả, cố gắng
làm việc chỉ mong con cái được thành đạt.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay cũng xuất hiện một bộ phận
không nhỏ thanh thiếu niên không chăm lo học tập, lao động mà thích
sống buông thả với ma tuý, với thuốc lắc Tình trạng này đang ở
mức báo động khi tệ nạn xã hội đang ngày một gia tăng. Thêm nữa,
do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, hưởng thụ từ bên ngoài tràn
vào, một bộ phận lớp trẻ quay lưng lại với giá trị truyền thống của dân
tộc, thích ăn chơi hưởng thụ xa hoa, lười lao động, hay đòi hỏi mà
quên đi nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân mình với gia đình, với xã
hội, Trong xã hội hiện nay xuất hiện rất nhiều những con người
biếng nhác, không thích làm việc, kiếm sống chủ yếu bằng những thủ
đoạn lừa gạt những người nhẹ dạ cả tin để chiếm đoạt tài sản của họ,
đem lại lợi ích và cuộc sống tiện nghi cho bản thân. Điều đó cho thấy,
tệ nạn xã hội có khuynh hướng gia tăng đồng thời giá trị văn hóa dân
tộc về tinh thần lao động cần cù sáng tạo đã dần dần bị mai một.
- Những giá trị cao đẹp đã từng tồn tại trong lịch sử dân tộc như
yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết, gia đình êm ấm hòa thuận, tình nghĩa
anh em, bạn bè, các giá trị nhân văn và nhiều giá trị đạo đức khác vẫn
14
tiếp tục được đại đa số tôn trọng, giữ gìn. Mặc dù đất nước có nhiều đổi
thay, song đạo hiếu - hạt nhân là tình thương, lòng kính trọng và sự
phụng dưỡng cha mẹ - vẫn được coi là một nội dung quan trọng trong
giáo dục đạo đức gia đình.
Trong các yếu tố hợp thành gia phong (gia sản, gia cảnh, gia
giáo, gia lễ, gia phả ) thì gia đạo là yếu tố quan trọng nhất và cũng
tương đối bền vững nhất vì nó có hàm chứa ý nghĩa tâm linh. Trong
giáo dục văn hóa, đạo đức gia đình hiện nay đặc biệt coi trọng giáo dục
gia phong; đó là truyền thống tốt đẹp của gia đình được các thế hệ đi
trước phấn đấu xây đắp nên và truyền lại cho các thế hệ sau noi theo,
kế thừa và phát triển, trong đó truyền thống đạo đức là yếu tố cốt lõi
của gia phong, là nền tảng tinh thần của sự tồn tại bền vững của gia
đình. Những nét đẹp ứng xử trong văn hóa gia đình đã hình thành nên
nhiều giá trị văn hoá mang tính truyền thống của người Việt.
Tuy nhiên, trong vòng quay của cuộc sống hiện đại, rất nhiều
những sai lệch các chuẩn mực trong quan hệ cha mẹ con cái cũng đã
xuất hiện. Sự sai lệch chuẩn mực ấy một phần lớn là do đồng tiền
cho phối; cái nghĩa sống “của chồng, công vợ”, “anh em như thể tay
chân” trở nên mờ nhạt. Giá trị gia đình vì vậy cũng bị coi nhẹ, đạo
đức truyền thống bị lung lây trước sức ép của lối sống tiêu thụ. Việc
giáo dục con cái, chăm sóc giữa các thế hệ bị sao lãng và đặt sau các
nhu cầu kinh tế, sự chung thủy, lòng hiếu thảo cũng bị phủ nhận…
Tất cả những điều đó đã gây nên những xáo trộn nghiệm trọng trong
các mối quan hệ gia đình…
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, người ta thấy bắt đầu xuất hiện
khá nhiều hiện tượng bất kính, bất hiếu của con cái với cha mẹ như con
cái hành hung, ngược đãi cha mẹ; chối bỏ trách nhiệm nuôi cha mẹ,
đuổi cha mẹ khỏi nhà, bỏ rơi cha mẹ trong những lúc già yếu, đau ốm
thậm chí còn tìm
cách hãm hại họ không chút thương xót để chiếm
đoạt tài sản, Hiện tượng này gây bức xúc dư luận, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến giá trị, thuần phong mỹ tục của đạo làm người và
15
gióng lên hồi chuông cả
nh tỉnh về sự xuống cấp đạo đức gia đình, xã
hội. Thực tế là sự xuống cấp của những nguyên tắc, chuẩn mực trong
gia đình, sự vi phạm cũng như việc chấp nhận những sai lệch chuẩn
mực xã hội trong gia đình đã diễn ra một cách dễ dàng và khá phổ
biến. Những giá trị đạo đức truyền thống đang bị xói mòn mạnh mẽ.
Các nghiên cứu về gia đình đã chỉ ra được những thay đổi các giá trị
đạo đức truyền thống, những giá trị vốn được xem là chuẩn mực đạo
đức từ trước đến nay. Một phần của nguyên nhân này là do các gia
đình đã chưa thật sự quan tâm đúng mức đến việc giáo dục các giá trị
truyền thống cho con em mình. Nền tảng đạo đức, chuẩn mực gia
đình có nguy cơ bị phá vỡ. Do vậy, hàng loạt những vấn đề xã hội đã
nảy sinh, len lỏi vào từng gia đình và trở thành những bức xúc của
gia đình.
Sự biến đổi nhanh chóng của xã hội đã trở thành một “cú sốc
văn hóa” đối với gia đình khi nhiều bậc cha mẹ tỏ ra bối rối trong việc
giáo dục con cái. Họ nhận thấy uy quyền của cha mẹ đối với con cái
ngày càng giảm sút, khoảng cách giữa cha mẹ và con cái ngày càng
giãn ra, mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái ngày càng tăng và giáo dục
gia đình trở thành một vấn đề vô cùng phức tạp. Không ít trường hợp,
mâu thuẫn gia đình bắt nguồn từ những quan điểm khác nhau giữa các
thành viên, các thế hệ trong gia đình về lối sống, học tập, vui chơi, lựa
chọn nghề nghiệp, tình bạn, tình yêu… Hơn nữa, lối sống gia đình
đang có sự đảo lộn do sự thay đổi theo hướng đa dạng hóa phương
thức mưu sinh của các thành viên trong gia đình, do lối sống đô thị
hóa, do sự trỗi dậy mạnh mẽ của ý thức cá nhân. Gia đình không còn
là một tổ chức bền vững mang tính khép kín. Để có được các nguồn
thu nhập mới nuôi sống gia đình, nhiều cha, mẹ phải rời xa tổ ấm tìm
việc làm ở các đô thị, các khu công nghiệp, họ không những không có
điều kiện gần gũi chăm sóc, giáo dục con nhỏ mà bản thân cũng gặp rất
nhiều nguy cơ và rủi ro khi sống xa gia đình. Trong điều kiện đó, sự
phai nhạt tình cảm gia đình, sự cố kết giữa các thành viên gia đình trở
16
nên thất thường, lỏng lẻo; các thiết chế xã hội từng bước thay thế vai trò
của gia đình trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, “thời gian gia
đình” bị cắt xén tới mức tối thiểu.
Theo kết quả điều tra Xã hội học, ngày nay, ở Việt Nam, trong
nhiều gia đình, chi phí cho giáo dục chiếm tới 30% thậm chí tới 50%
tổng thu nhập của gia đình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng
họ đã đạt tới mức hài lòng về kết quả giáo dục. Chẳng hạn, nhiều bậc
cha mẹ đã không có đủ kiến thức, thời gian và lòng kiên nhẫn để dạy
con. Họ phó mặc hoàn toàn cho nhà trường, cho người giúp việc,
thậm chí xã hội việc dạy bảo con cái; trẻ con bị giảm thiểu các mối
quan hệ giao tiếp và cũng là giảm thiểu những bài tập đầu tiên và cơ
bản của giao tiếp xã hội. Trong khi môi trường xã hội phức tạp và đầy
cám dỗ, mà gia đình thì thiếu không khí ấm áp tin cậy, nhiều cháu bỏ
nhà, hợp thành băng nhóm như hình thành một thứ văn hoá đối
nghịch. Đây là sự chuyển đổi vai trò vô cùng nguy hiểm trong sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ em giai đoạn chuyển đổi hiện
nay. Hậu quả những mâu thuẫn này của nguy cơ này dường như được
báo trước. Chính điều này dẫn đến việc tệ nạn xã hội tội phạm vị
thành niên gia tăng trong những năm gần đây.
Vấn đề người chưa thành niên phạm tội đã gióng lên những hồi
chuông cảnh tỉnh đáng báo động. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ
của Bộ Công an chỉ tính riêng trong năm 2010, trên địa bàn cả nước
có 13.572 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên, tăng nhiều lần so
với những năm trước cả về số lượng phạm tội lẫn các vụ trọng án. Về
độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã
hội thì tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi thực hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao
nhất, khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32%
và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do
người chưa thành niên và trẻ em thực hiện. Một điều dễ nhận thấy, đa
số những đứa trẻ phạm tội đều có hoàn cảnh gia đình "na ná" nhau:
17
nghèo khó, thất học, thiếu sự quản lý của gia đình… Như vậy đủ để
thấy, yếu tố gia đình vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân
cách, lối sống cho trẻ vị thành niên cũng như trong việc hạn chế tội
phạm tuổi vị thành niên. Đã đến lúc người lớn, những người làm
cha, làm mẹ phải thấy được hết trách nhiệm của mình trước con trẻ,
không thể đổ thừa tại hoàn cảnh nhà nghèo, bận rộn không có thời
gian quản lý con… để biện minh trước tòa như nhiều bậc phụ huynh
có con em phạm tội. Nghiên cứu của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên
nhân phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ
phạm tội có bố mẹ ly hôn, 28% phàn nàn bố mẹ không đáp ứng nhu
cầu cơ bản của các em, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ.
Cũng theo số liệu của Bộ Công an, hiện cả nước có khoảng 20.000
trẻ em trong độ tuổi tới trường lang thang bụi đời, tụ tập băng nhóm
ngoài xã hội. Đó chính là mầm mống của tội phạm đã và đang nảy
sinh trong lứa tuổi vị thành niên. Thêm vào đó là sự gia tăng số
người nhiễm HIV càng cao.
Trong thực tế đầy biến động của xã hội hiện nay, bên cạnh
những tấm gương hiếu thảo, những tấm lòng nhân nghĩa, ân tình với
cha mẹ, thì vẫn còn đó nhiều người con đã có thái độ bất nhân, bất
nghĩa, thiếu tôn trọng hoặc có hành vi hỗn láo, vô đạo đức với cha
mẹ. Một số người coi việc nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ như một
gánh nặng. Một số người khác lại nghĩ rằng, chỉ cần đóng góp tiền
bạc để nuôi dưỡng cha mẹ là đã làm tròn bổn phận của người con.
Có những gia đình kinh tế khó khăn, điều kiện vật chất eo hẹp nên
không có điều kiện hoặc thường lảng tránh việc chăm sóc cha mẹ.
Trong nhiều trường hợp, việc phụng dưỡng, chăm sóc người cao tuổi
cũng đang gây ra không ít khó khăn cho gia đình: con cái bị tàn tật,
đau yếu, con cái không thích ở chung với cha mẹ hoặc một số khó
khăn khác…nhưng cũng có những người rất giàu có thì lại báo hiếu
chỉ bằng cách thuê những người xa lạ về chăm sóc cha mẹ, để cha
mẹ sống trong buồn tủi, cô đơn… Xu hướng hạt nhân hoá gia đình
18
(chỉ gồm một, hai thế hệ) và nâng cao tuổi thọ cũng khiến nhiều
người già có một khoảng thời gian khá dài chịu cảnh sống đơn độc.
Đa số các cụ ông, cụ bà đều không thể sống trong một không gian
chật hẹp với tốc độ phát triển nhanh chóng như ở các đô thị lớn. Con
cháu cũng ít có thời gian quan tâm đến ông bà một phần do công
việc quá bận rộn đã tạo nên tâm lý tủi phận, cô đơn đối với những
người cao tuổi. Có thể Nhà nước vẫn đóng vai trò bảo trợ kinh tế cho
họ thông qua các loại trợ cấp, nhưng sự trống trải quạnh hiu trong
buổi xế chiều của những người đã cống hiến hết sức mình cho xã hội
và gia đình, lại không nơi nào có thể bù đắp được ngoài gia đình.
Điều đó đồng nghĩa với việc phai nhạt những giá trị truyền thống của
văn hóa gia đình, một thành phần quan trọng của hệ giá trị văn hóa
dân tộc. Đây là vấn đề đã và đang đặt ra đối với các nước phát triển
và đang bắt đầu trở thành vấn đề bức xúc ở Việt Nam, đặc biệt trong
các gia đình đô thị. Điều này đã đặt ra nhiều vấn đề cần được nhận thức,
điều chỉnh, can thiệp từ phía Nhà nước, xã hội và của chính bản thân gia
đình nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của gia đình
trong bối cảnh công nghiệp hóa và toàn cầu hóa.
2.2.2 Những vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy giá
trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam
hiện nay.
Thứ nhất, sự biến đổi giá trị chức năng của văn hóa gia đình.
Nhà nước cần tạo những điều kiện cần thiết và thuận lợi để gia đình
có các cơ hội tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế. Cụ thể là
tiếp cận thông tin thị trường, đáp ứng các dịch vụ về nguyên vật
liệu, công nghệ, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm, thị trường vốn, thị
trường lao động…
Đối với chức năng sinh sản và tái sản xuất ra sức lao động của
xã hội, đòi hỏi cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò của
con trai, tạo dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong
trách nhiệm nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên;
19
cần có các chính sách và chiến lược lâu dài bảo đảm xã hội cho
người già để giảm bớt sự phụ thuộc của người già vào con cái.
Thứ hai, sự biến đổi của giá trị cấu trúc gia đình. Việc sắp xếp và
tổ chức cuộc sống gia đình của những người di cư lao động phải bảo
đảm sự ổn định, an toàn của cuộc sống gia đình, việc học hành của trẻ
em và sự bền vững của quan hệ vợ chồng là vấn đề vô cùng quan trọng
đối với sự biến đổi cấu trúc của gia đình; Chính sách của Nhà nước đối
với hiện tượng chung sống không kết hôn sẽ như thế nào khi hiện tượng
này đang có xu hướng gia tăng cùng với việc kế thừa tự do cá nhân và
quá trình dân chủ hóa các quan hệ xã hội.
Thứ ba, sự biến đổi các mối quan hệ vợ chồng. Cần thay đổi
văn hóa, phong tục tập quán bất lợi cho người phụ nữ trong vấn đề
sở hữu tài sản và việc đưa luật pháp vào đời sống, đặc biệt là khu
vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là vô cùng cần thiết
để đảm bảo sự bình đẳng vợ chồng về sở hữu tài sản, phát huy vai
trò của người phụ nữ trong xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc.
Thứ tư, sự biến đổi mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình.
Chức năng giáo dục của gia đình cần được củng cố, mối quan hệ mới
giữa cha mẹ và con cái cần được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những
giá trị nhân văn mới và kế thừa những giá trị tốt đẹp của gia đình Việt
Nam truyền thống, tạo cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất nhưng cũng
phải giáo dục cho trẻ em nhận thức được trách nhiệm và bổn phận đối
với bản thân, gia đình và xã hội.
Kết luận chương 2
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có
những thay đổi toàn diện và sâu sắc trong tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có các mối quan hệ gia đình. Quá trình đổi mới
đem đến cho gia đình Việt Nam những cơ hội phát triển mới. Gia
20
đình Việt Nam có nhiều cơ hội để phát huy vai trò của mình trong xã
hội. Thắng lợi của công cuộc đổi mới cùng với nhiều Chính sách của
Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình như: chính sách kinh tế, chính
sách dân số… đã tác động tích cực đến quá trình xây dựng gia đình,
đem lại nhiều vận hội mới tốt đẹp cho tương lai của gia đình Việt
Nam. Tuy nhiên, bên cạnh việc tiếp cận những tác động tích cực về
kinh tế - xã hội do quá trình đổi mới đem lại, gia đình Việt Nam
cũng đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức to lớn: vấn đề thiếu
việc làm, thu nhập chưa ổn định và những rủi ro từ nền kinh tế thị
trường; gia tăng tỷ lệ các cặp vợ chồng ly hôn, ly thân, những người
chung sống không đăng ký kết hôn; bạo lực gia đình, thiết chế gia
đình lỏng lẻo; các tệ nạn xã hội … ảnh hưởng đến hạnh phúc gia
đình. Thực trạng trên đã đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết trong
công tác xây dựng gia đình hiện nay.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ GÌN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG
XÂY DỰNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA GIA
ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1 Tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Thứ nhất, những giá trị tích cực và yếu tố tiêu cực không hoàn
toàn cô lập, tách rời nhau mà luôn đan xen, lồng ghép với nhau ngay
trong bản thân một truyền thống.
Thứ hai, việc kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc không những
phải khắc phục những yếu tố lạc hậu mà còn phải nâng các giá trị
truyền thống lên một tầm cao mới.
21
Thứ ba, quá trình kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của
văn hóa dân tộc là một quá trình phức tạp, lâu dài do vậy nó đòi hỏi
sự tự giác, rèn luyện của mỗi cá nhân.
Thứ tư, việc kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc
phải đi đôi với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, cải thiện
điều kiện sinh hoạt vật chất của nhân dân.
3.1.2 Xây dựng giá trị văn hóa gia đình mới trên cơ sở kế thừa giá
trị của văn hóa gia đình truyền thống và tiếp thu giá trị tiến bộ
của gia đình hiện đại.
Gia đình truyền thống được hun đúc từ lâu đời trong lịch sử dân
tộc. Bước vào thời kỳ mới gia đình ấy bộc lộ cả những mặt tích cực
và tiêu cực. Do vậy, Nhà nước, tìm ra những hạn chế và tiến tới khắc
phục những hủ tục của gia đình cũ. Tuy nhiên, việc xử lý và tiếp thu
những vấn đề của thời đại không phải là cách tân đơn giản mà phải
phù hợp với truyền thống của dân tộc, của gia đình và sự phát triển
chung của xã hội.
Thực hiện hôn nhân tiến bộ cũng là một trong những phương
hướng quan trọng nhằm tiếp thu những giá trị tiến bộ của gia đình hiện
đại. Hôn nhân một vợ một chồng là phù hợp với sự phát triển kinh tế –
xã hội chủ nghĩa, là một trong những cơ sở quan trọng đảm bảo sự bền
vững của hôn nhân.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN
TỘC TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.2.1. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị văn hóa dân
tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay
Đẩy mạnh giáo dục giá trị văn hóa truyền thống và cách mạng
với các nội dung và hình thức phù hợp.
Nâng cao vị trí và vai trò của văn hóa gia đình trong xã hội hiện
đại. những biến động phức tạp của xã hội.
22
Kết hợp giữa việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống với tiếp thu các giá trị khoa học, tiến bộ, nhân văn, hợp lý của
thời đại thông qua giao lưu, hợp tác quốc tế.
Tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật trong quản lý gia
đình. Quản lý gia đình có vai trò quan trọng trong việc định hướng sự
tồn tại và phát triển của gia đình vào những mục tiêu chung của sự
phát triển đất nước.
Củng cố và xây dựng các chuẩn mực mới về văn hóa gia đình
Việt Nam.
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với phong trào xây dựng gia đình văn hóa;
Thứ hai, sớm hình thành những chuẩn mực văn hóa gia đình mới
để làm cơ sở cho sự phát triển ổn định của gia đình.
Thứ ba, xây dựng củng cố và hoàn thiện các văn bản pháp lý để
phát huy quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình;
Thứ tư, tiếp tục duy trì và đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân
“Xây dựng gia đình văn hóa”, “Khu phố văn hóa”, “Ấp văn hóa” với
những nội dung cần cải tiến, thay đổi cho phù hợp với điều kiện xã hội
phát triển ngày nay.
Thứ năm, chú trọng các biện pháp nhằm duy trì và nâng cao chất
lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa và nội dung các tiêu chí
công nhận gia đình văn hóa.
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa vai trò của gia đình, nhà trường và
xã hội trong việc giáo dục cho thế hệ trẻ giữ gìn các giá trị văn hóa
truyền thống văn hóa dân tộc.
Thứ hai, nghiên cứu việc phát triển những vấn đề cơ bản của gia
đình và văn hóa gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
23
Thứ ba, xây dựng Đề án cấp quốc gia về phát triển dân số, lao
động, đào tạo và chính sách xã hội phục vụ phát triển bền vững đến
năm 2050.
Kết luận chương 3
Công cuộc đổi mới của đất nước hơn 20 năm qua đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi toàn bộ đời sống xã hội và tác động
mạnh mẽ đến từng gia đình. Sự tác động đó mang cả yếu tố tích cực
đồng thời cũng có những yếu tố tiêu cực. Để phát huy những mặt tích
cực, tiến bộ và hạn chế những mặt tiêu cực lạc hậu của văn hóa gia đình
trước tác động của kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa hội nhập
quốc tế cũng như quá trình công nghiệp hóa, chúng ta phải tuân theo
những phương hướng cơ bản, những quan điểm chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước như: Quan điểm về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, quan điểm về hôn nhân tiến bộ, quan điểm về gia đình
văn hóa và vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; thực hiện những giải pháp đề ra một cách tích cực, cụ thể và thiết
thực nhất… Từ những giải pháp mang tính định hướng đến những giải
pháp cụ thể; từ vai trò của pháp luật trong quản lý gia đình, các chính
sách hỗ trợ gia đình đến xây dựng gia đình văn hóa ở địa phương… Tất
cả những giải pháp được nêu phải được thực hiện một cách đồng bộ, hiệu
quả cao, tránh tình trạng thành tích, chạy theo số lượng…