Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 204 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






AN THỊ NGỌC TRINH






GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG
VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY







LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC










TP. HỒ CHÍ MINH – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





AN THỊ NGỌC TRINH




GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG
VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY



Chuyên ngành : CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số : 62.22.80.05





LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. HÀ THIÊN SƠN
2. TS. NGUYỄN ANH QUỐC




TP. HỒ CHÍ MINH – 2013









LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận án này là do tôi độc lập nghiên cứu, xây dựng
trên cơ sở tiếp thu ý tưởng khoa học của các tác giả đi trước dưới sự hướng
dẫn của TS. Hà Thiên Sơn và TS. Nguyễn Anh Quốc.
Các số liệu được trình bày trong luận án là trung thực dựa trên sự tìm
tòi, nghiên cứu các tài liệu khoa học đã được công bố, đảm bảo tính khách

quan, khoa học và nghiêm túc.
TP.Hồ Chí Minh, Ngày 30 tháng 11 n
ăm 2013
Tác giả luận án


An Thị Ngọc Trinh








NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN


ASEAN :Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CĐ : Cao đẳng
CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CNH : Công nghiệp hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CT/TW : Chỉ thị của Trung ương
ĐH: : Đại học
EU : Liên minh Châu Âu
GDCD : Giáo dục công dân
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
GS : Giáo sư
HĐH : Hiện đại hóa

HĐI : Chỉ số phát triển người
KHXH&NV : Khoa học xã hộ
i và nhân văn
MTTQ: : Mặt trận Tổ quốc
Nxb : Nhà xuất bản
THPT: : Trung học phổ thông
ThS : Thạc sĩ
TS: : Tiến sĩ
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc
WHO : Tổ chức Thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 01
Chương 1. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA, VĂN HÓA DÂN
TỘC VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG VĂN HÓA GIA
ĐÌNH VIỆT NAM 14
1.1. Quan niệm về văn hóa và giá trị văn hóa dân tộc 14
1.1.1.Quan niệm về văn hóa 14
1.1.2. Quan niệm về giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam 21
1.2. Gia đình Việt Nam và những giá trị văn hóa dân tộc trong
văn hóa gia đình Việt Nam 39
1.2.1. Khái quát về gia đình và văn hóa gia đình Việt Nam 39
1.2.2. Những giá trị văn hóa dân tộc chủ yếu trong văn hóa gia đình
Việt Nam 57
1.2.3 Tính quy luật của sự vận động văn hóa gia đình Việt Nam 67
Chương 2. THỰC TRẠNG VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY 74

2.1. Những nhân tố tác động đến việc giữ gìn và phát huy giá trị của văn
hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay 74
2.1.1. Những nhân tố khách quan tác động đến việc giữ gìn và phát huy
giá trị
văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam
hiện nay 74
2.1.2. Những nhân tố chủ quan tác động đến việc giữ gìn và phát huy
giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam
hiện nay 92

2.2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát
huy giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình
Việt Nam hiện nay 105
2.2.1. Thực trạng việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay. 105
2.2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy giá trị văn
hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Vi
ệt Nam hiện nay 135
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ GÌN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG
VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY 145
3.1. Phương hướng giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong
xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay 145
3.1.1. Tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc 145
3.1.2. Xây dựng giá trị
văn hóa gia đình mới trên cơ sở kế thừa những giá
trị của văn hóa gia đình truyền thống và tiếp thu những giá trị tiến bộ của
gia đình hiện đại. 148
3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân

tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay 151
3.2.1. Đảm bảo những điều kiện vật chất và tinh thần c
ơ bản cho
gia đình 151
3.2.2 Tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật trong quản lý
gia đình………………………………………………………………… 156
3.2.3 Củng cố và xây dựng các chuẩn mực mới về văn hóa gia đình
Việt Nam ……………………………………………………………………166
KẾT LUẬN 175
PHỤ LỤC 179
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 189
1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, là một chỉnh thể đồ sộ, phong
phú bao gồm tri thức, tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật,
phong tục, tập quán và truyền thống… Văn hóa dân tộc vừa là “trầm tích”
của tình cảm và ý thức dân tộc trong quá khứ, vừa kết tinh thành hệ giá trị
chân - thiện - mỹ như một hệ giá trị phổ quát của văn hóa dân tộc trong quốc
gia và trong cộng đồng nhân loại. Tất cả những điều đó tạo nên hệ giá trị văn
hóa truyền thống dân tộc hay nói cách khác, mọi bản sắc dân tộc đều chứa
đựng các giá trị. Đó là chủ nghĩa yêu nước, tinh thầ
n cần cù, sáng tạo, chủ
nghĩa anh hùng xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sự gắn
bó thân thiết với quê hương đất nước… biểu hiện thành tâm lý và ý thức,
phong tục tập quán và lối sống, tạo thành tính cách của mỗi con người trong
gia đình và cộng đồng dân tộc.

Bước sang thế kỷ XXI, một trong những định hướng của các nước
đang phát triển là giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc để hội nhập và phát triển. Đứng trước cơn lốc toàn cầu hóa văn minh
kỹ thuật, văn hóa dân tộc Việt Nam đã chứng tỏ bản lĩnh vững vàng trong
vai trò bình ổn xã hội. Giá trị văn hóa dân tộc là một nguồn lực quan trọng
góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, Nghị quyết
Trung ươ
ng 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
khẳng định: “hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống, văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật
thể; đồng thời cần nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt
đẹp do cha ông ta để lại” [56, tr.48].
2

Là một bộ phận của văn hóa dân tộc Việt Nam, văn hóa gia đình Việt
Nam luôn thể hiện vai trò quan trọng của mình trong việc lưu giữ và truyền
thụ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Những giá trị văn hóa ấy thể
hiện rõ nét trong giáo dục trí tuệ và nhân cách con người, đặt nó trong môi
trường gia đình và xã hội. Mỗi gia đình, bên cạnh những giá trị văn hóa chung
của cộng đồng, xã hộ
i, còn có những nét văn hóa truyền thống riêng. Truyền
thống văn hóa gia đình không những là niềm tự hào của mỗi thành viên trong
gia đình mà còn là nhân tố tác động đến sự hình thành nhân cách của mỗi cá
nhân, tạo ra những nét đặc trưng riêng của từng gia đình. Từng gia đình ấy hợp
lại với nhau thành cộng đồng, xóm làng, quê hương, Tổ quốc. Trong xu thế hội
nhập hiện nay, văn hóa gia đình nổi lên như một tiêu đ
iểm trọng tâm nhất
được các nhà khoa học và giới chính trị quan tâm. Đông Nam Á nói chung
và Việt Nam nói riêng, việc giữ gìn và phát huy những giá trị của văn hóa

dân tộc trong quá trình xây dựng văn hóa gia đình, cộng đồng, xã hội là vấn
đề quan trọng được đặt lên hàng đầu. Cùng với sự biến đổi của xã hội, giá trị
quan hệ mang tính truyền thống trong đời sống gia đình từng bước thay đổi,
điều đó làm suy giảm việ
c tuân thủ và chấp nhận những quy chuẩn cũ trong
các quan hệ gia đình, làm nảy sinh nhiều quan niệm chưa thống nhất về gia
đình, văn hóa gia đình cũng như sự định hướng phát triển gia đình trong tương
lai. Từ đó, những nhu cầu mới trong việc nhận thức đúng đắn, khoa học về gia
đình và văn hóa gia đình ngày càng cần thiết, góp phần quan trọng trong việc
giữ gìn và phát huy giá trị vă
n hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng vai trò của gia đình
và văn hóa gia đình. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu rõ:
“Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao
vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình vă
n hóa.
3

Xây dựng mối quan hệ khắng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội” [19,
tr.48]… Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với
những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm củ
a mỗi người, là
tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền
thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”


[17, tr.38]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: gia đình là tế
bào của xã hội. Vì vậy, xây dựng văn hóa gia đình là góp phần quan trọng
vào sự nghiệp xây dựng văn hóa dân tộc; giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
dân tộc trong mỗi gia đình là góp phần làm tăng năng lực văn hóa nội sinh
của dân tộc.
Hiện nay, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong
văn hóa gia đình Việt Nam đang
đứng trước nhiều biến đổi sâu sắc, phức tạp.
Sự biến đổi này thể hiện trên cả bình diện các giá trị tổng thể cũng như các
giá trị bộ phận được đặt trong bối cảnh mới và hội nhập, từ yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Các giá trị của văn hóa gia
đình như giá trị văn hóa, đạo đức, các chuẩn mực và khuôn m
ẫu ứng xử
trong gia đình đang đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng. Chính vì vậy,
nghiên cứu việc bảo tồn, làm giàu và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình thời kỳ đổi mới là vấn đề có ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc.
Với tất cả những suy nghĩ trên, dưới góc độ triết học xã hội, tác giả
chọn đề tài:“Giữ gìn và phát huy giá tr
ị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn
hóa gia đình Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ Triết học.

4

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của việc giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc trong việc xây dựng văn hóa gia đình nên từ lâu,
vấn đề văn hóa, văn hóa dân tộc và văn hóa gia đình đã được các nhà tư
tưởng, các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu sâu sắc. Nhiều công trình
khảo luận, phân tích lý luận và thực tiễn về văn hóa dân tộc, văn hóa gia đình

đã được đề
cập đến từ rất lâu trong lịch sử. Có thể khái quát các kết quả công
trình nghiên cứu trên theo hai hướng sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa dân tộc và các
giá trị của văn hóa dân tộc. Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa
trước đây là công việc của nội bộ mỗi quốc gia, nhưng từ những năm 60 của thế
kỷ XX, nó đã trở thành vấn đề mang tính quốc tế.
Đặc biệt sau Thập kỷ Quốc tế
Phát triển văn hóa (1988-1998) do UNESCO phát động với mục tiêu là thức
tỉnh nhân loại về nhân tố văn hóa trong phát triển xã hội, khuyến khích các nhà
lãnh đạo quốc gia đưa các nhân tố văn hóa vào các chương trình phát triển đất
nước. Thập kỷ văn hóa này đã được nhiều nước, nhiều dân tộc trong đó có Việt
Nam đón nhận và đạt kết quả khả quan.
Bước vào th
ế kỷ XXI, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng
công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) và toàn cầu hóa (TCH); sự đa
dạng về sinh học và sự đa dạng văn hóa trên hành tinh ngày một suy giảm
nghiêm trọng, năm 1993 Hội nghị về môi trường thế giới của Liên Hiệp
Quốc họp ở Brazin đã ra lời tuyên bố về bảo vệ đa dạng sinh học. Ngày
2/11/2001 UNESCO đã ra “
Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa” đến
ngày 17/10/2003, UNECSO đã công bố “Công ước về bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể”. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ký vào công ước
này và đã có nhiều hoạt động triển khai đạt kết quả.
Trước xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa đã hình thành các tổ chức
5

liên minh khu vực như EU, ASEAN, Liên minh châu Phi , yếu tố quốc tế
đang chiếm một vị trí quan trọng so với chủ quyền dân tộc. Đặc biệt trước
nguy cơ cuộc xung đột trên thế giới đa sắc màu như xung đột văn hóa, xung

đột tôn giáo thì vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc, vấn đề đối thoại giữa các
nền văn hóa, văn minh đã và đang thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà
khoa h
ọc, mà cả các nhà chính trị, các nhà quản lý. Năm 2001, Liên Hợp
Quốc đã phát động “Năm quốc tế đối thoại giữa các nền văn minh” và cùng
năm đó, tại Hà Nội đã đăng cai tổ chức Hội nghị Bộ trưởng các nước Châu Á
– Thái Bình Dương hưởng ứng tuyên bố nói trên.
Ở Việt Nam, các vấn đề về văn hóa, văn hóa dân tộc và giá trị của văn
hóa dân tộc từ lâu
đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tiếp cận từ
nhiều góc độ, phạm vi khác nhau và nhiều ấn phẩm đã được xuất bản suốt
gần một thế kỷ qua đã tích lũy nhiều tri thức, tìm tòi về chủ đề này. Các công
trình gắn liền với tên tuổi các nhà khoa học lớn: Đào Duy Anh, Nguyễn Văn
Huyên, Trần Văn Giàu, Nguyễn Hồng Phong, Trần Quốc Vượng, Phan Huy
Lê, Phan Ngọc,… đã
được xuất bản. Trong các tác phẩm ấy, tác phẩm “Giá
trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của GS.Trần Văn Giàu do ,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản năm 1980 đã đánh dấu việc nghiên
cứu giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trong những thập kỷ gần đây, xuất hiện rất nhiều chương trình nghiên
cứu cấp quốc gia của các nhà khoa học toàn quốc nh
ư Chương trình KX 06:
“Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội” do cố GS. Nguyễn
Hồng Phong làm chủ nhiệm; đề tài KX.07-02 do GS. Phan Huy Lê làm chủ
nhiệm “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” đã tổng
kết một số giá trị văn hóa truyền thống, đặt trong mối quan hệ với con người
Việt Nam… Hơn nữa, trước và sau khi ban hành Nghị quyết TW 5 về “Xây
dựng n
ền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” đã có nhiều
6


cuộc hội thảo và công trình khoa học đề cập tới các khía cạnh lý luận và thực
tiễn của vấn đề bản sắc dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhìn chung, đã có nhiều tác phẩm xoay quanh chủ đề nhận thức, bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nhiều công trình vẫn
nặng về miêu tả các hiện tượng văn hóa, phần lớn các công trình chưa nhìn
nhận những giá trị v
ăn hóa truyền thống dân tộc trong khung cảnh chung của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa để từ đó xem xét
vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa đó.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về gia đình, văn hóa gia đình và sự
biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam với tư cách là một bộ phận của văn
hóa dân tộc. Có thể nói các nhà kinh điển của chủ nghĩ
a Mác là những người
đóng góp to lớn cho vấn đề nghiên cứu gia đình. Các ông cho rằng gia đình
là một tổ chức xã hội đặc biệt và mang tính xã hội hóa cao. Sự ra đời của gia
đình gắn liền với sự hình thành xã hội với những cấu trúc chặt chẽ và logic
Tác phẩm nổi tiếng Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước của Ph. Ăngghen đượ
c coi là một trong những tác phẩm dẫn đường cho
trào lưu nghiên cứu về gia đình của thế kỷ XIX. Trong tác phẩm này, vấn đề
nguồn gốc gia đình được phân tích một cách sâu sắc, đặc biệt là quá trình
phát sinh của chế độ một vợ một chồng. Quá trình này bị chế định - như Ph.
Ăngghen đã nêu – không phải bởi tình yêu nam nữ – yếu tố được coi là sản
phẩm của một quá trình phát triển lâu dài và đầy mâu thu
ẫn của lịch sử - mà
bởi sự hình thành chế độ tư hữu và nhà nước. Ph. Ăngghen đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ nghiên cứu nguồn gốc của gia đình bằng cách xem xét sự vận động
khách quan của quá trình đó đi từ chế độ quần hôn tới gia đình một vợ một
chồng. Ở mức độ cao nhất của nó, như Ph. Ăngghen đã đặc biệt nhậ

n xét, là
tình yêu có chọn lọc giữa các cá nhân với nhau, với niềm hưng phấn bởi một
thứ tình cảm cao quý.
7

Ở Việt Nam, những khảo luận và phân tích về gia đình cũng đã được
chú ý từ rất lâu. Trong lịch sử phát triển của Việt Nam, cha ông ta đã không
chỉ để lại cho con cháu những giá trị truyền thống về tính cộng đồng, tinh thần
tương thân tương ái, sự ham học hỏi và tôn trọng trí thức mà còn tôn trọng,
bảo vệ các giá trị gia đình và vai trò của nó trong việc tổ chức, điều hành xã
hội. V
ấn đề gia đình ở Việt Nam được thể hiện và phản ánh khá phong phú
qua các câu chuyện lịch sử, trong văn chương bác học và văn học dân gian ở
Việt Nam. Những đề tài về gia đình không chỉ được trình bày ở các chuyên đề
mà còn đề cập ở các công trình, các đề tài khoa học về xã hội và nhân văn
khác. Tiêu biểu có một số đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp Bộ có liên
quan đến gia đình và văn hóa gia đình
đã được tiến hành, gắn liền với tên tuổi
của các tác giả như: Mai Huy Bích (1987), Lối sống gia đình ngày nay, Nxb.
Phụ nữ, Hà Nội; Tác phẩm nêu rõ vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục tri
thức và hướng nghiệp cho con cái; khẳng định vai trò quan trọng giáo dục gia
đình đối với thế hệ trẻ khi bước vào xã hội. Nhóm tác giả Đỗ Thị Bình, Lê
Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt Nam và người phụ n

trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội nghiên cứu vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong việc tiếp tục kế
thừa, phát huy những truyền thống đạo đức quý báu, tốt đẹp mà các thế hệ
trước để lại, đồng thời phát triển những phẩm chất tiên tiến phù hợp với các
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
từng bước góp phần tạo dựng hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại.

Vấn đề gia đình Việt Nam và biến đổi văn hóa gia đình Việt Nam được
đề cập đến trong một số tác phẩm của các tác giả: Nguyễn Từ Chi (1991),
Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội; Hồ Ngọc Đại (1996), Tam giác gia đình. Những nghiên cứ
u về gia
đình Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội; Vũ Quang Hà (biên dịch)
8

(2001), Tương lai của gia đình, Đại học quốc gia Hà Nội; Nguyễn Minh Hòa
(1998), Hôn nhân và gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhận diện và dự
báo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Công Hoàn (1993), Tâm lý học
gia đình, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Vũ Tuấn Huy (1996), Những khía
cạnh của sự biến đổi gia đình, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội; Giáo sư Lê Thi
(2006), Cuộc sống và biến động c
ủa hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; … Các tác phẩm trên tập trung khẳng định gia
đình là một tế bào của xã hội, là một nhóm xã hội cơ sở kiến tạo nên xã hội
rộng lớn. Do đó, sự trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào
sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình. Gia đình phải là điểm xuất phát và
trở về của mọi chính sách xã hội.
Giáo sư Lê Thi (2002) với các tác phẩm Gia đình Việt Nam trong bối
cảnh đất nước đổi mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Vai trò của gia đình
trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội hay Vũ
Ngọc Khánh (1998) với tác phẩm Văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội;… nghiên cứu gia đình Việt Nam đang trong quá trình biến
đổi mạnh m
ẽ từ truyền thống sang hiện đại. Nhiều giá trị văn hóa quý báu
của gia đình truyền thống, nhiều giá trị văn hóa tiên tiến của gia đình hiện
đại đang cùng hiện diện trong đời sống gia đình.


Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn với các công trình
nghiên cứu của nhiều tác giả (1991), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình
Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Văn Kiều (1983), Gia đình
và những vấn đề của gia đình hiện đại, Nxb. Sự thật; Nguyễn Minh Hòa
(2000), Hôn nhân và gia đình trong xã hội hiện đại, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh; Trần Thị Kim Xuyến (2002), Gia đ
ình và những vấn đề của gia
đình hiện đại, Nxb.Thống kê, Hà Nội;… trình bày những tranh luận về những
vấn đề chung nhất có liên quan đến những thành quả nghiên cứu xã hội học
9

về gia đình trong quá khứ và hiện tại, những cơ sở lý luận và phương pháp
luận trong nghiên cứu xã hội học về gia đình.
Vấn đề gia đình còn được các nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ
khác nhau như : Nguyễn Cảnh Khanh (2003), Gia đình, trẻ em và sự kế thừa
các giá trị truyền thống, Nxb. Lao động, Hà Nội; Nguyễn Thị Oanh (1999),
Gia đình Việt Nam thời mở cửa, Nxb.Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh; Lê Ngọc
Văn (2002), Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội; Lê Minh (2003), Phụ nữ
Việt Nam trong gia đình và xã hội, Nxb. Lao động, Hà Nội;
Đặng Phương
Kiệt (2006), Gia đình Việt Nam, các giá trị truyền thống và những vấn đề tâm
– bệnh lý xã hội, Nxb. Lao động, Hà Nội; Nguyễn Thu Nguyệt (2007), Vấn đề
hôn nhân gia đình và trẻ em qua góc nhìn của báo chí, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội

Vấn đề gia đình và văn hóa gia đình còn được đề cập nhiều trên các tạp
chí như Quan niệm của giai cấp phong kiến về gia đình của Nguyễn Tài Thư
(Tạp chí Triết học số 4/81); Gia đình Việt Nam truyền thống với ảnh hưởng
của Nho giáo (Tạp chí xã hội học số 2/89); Đề tài: Tư tưởng Nho giáo về gia

đình và việc xây dựng gia đình mới ở Vi
ệt Nam hiện nay của Minh Anh (Tạp
chí Triết học, số 10/2005)… trong đó các tác giả khẳng định gia đình truyền
thống Việt Nam trước đây chịu ảnh hưởng nhiều ở Nho giáo, một số trong
đó – loại gia đình nề nếp hay gia đình lễ nghĩa – được xây dựng theo tinh
thần Nho giáo. Vì vậy khi nhắc đến gia đình truyền thống Việt Nam không
thể bỏ qua ảnh hưởng Nho giáo.
Đề tài: Thực trạng gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ ở gia
đình của Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ (Nxb. Khoa học xã hội
1991); Trẻ em lang thang đường phố nhìn từ góc độ gia đình (Báo Phụ nữ
Việt Nam số 29/1994); Đề tài: Gia đình và cơ cấu hộ gia đình Việt Nam
10

của GSCMALER MISCMAN và Vũ Mạnh Lợi (Tạp chí xã hội học số
3/1994 – Dự án VIE/88/PO5); Vấn đề gia đình trong sự biến đổi và phát
triển của xã hội của Tương lai (Tạp chí Xã hội học số 3/1998); Đề tài: Bạo
lực giới trong gia đình: thực trạng và giải pháp ngăn chặn của Hoàng Bá
Thịnh (Tạp chí Lý luận chính trị số 3/2003) khẳng định bạo lực gia đình là
mộ
t trong những hiện tượng đáng lo ngại nhất của tình trạng khủng hoảng
gia đình hiện nay.
Một số đề tài khác như đề tài: Sự biến đổi của gia đình Việt Nam của
Viện xã hội học (Chủ nhiệm đề tài Vũ Tuấn Huy và Vũ Mạnh Lợi năm 2004);
Đề tài: Phát huy vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước c
ủa Nguyễn Thị Vân (Tạp chí Phát triển nhân lực số 1/2007);
Đề tài: Những yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới trong phân công thực
hiện công việc nội trợ giữa vợ và chồng của Phạm Thu Trang (Thông tin
Khoa học xã hội, Hà Nội số 4/2008); Võ Nguyên Du (2000), Một số nội dung
và biện pháp giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ em trong gia đình, Luận án

Tiến sĩ giáo dục, Hà Nội…. nghiên cứu những nhân tố tác
động đến biến đổi
gia đình trong thời kỳ CNH, HĐH, gia đình mới ở Việt Nam hiện nay và vấn
đề bình đẳng giới trong gia đình Việt Nam…
Qua các công trình nghiên cứu cho thấy có nhiều quan điểm lý giải
khác nhau về vấn đề gia đình trong đó văn hoá gia đình là chủ đề được nhiều
tác giả đề cập đến. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác
nhau về văn hóa gia đình, do đó vi
ệc xác định nội dung, phạm vi, phương
pháp nghiên cứu của văn hóa gia đình cũng khác nhau. Các tác giả xem văn
hóa gia đình thuộc phạm trù những cái đúng, cái đẹp, cái đáng mong ước,
đối lập với cái sai, cái không tốt, cái xấu… Theo hướng tiếp cận này, các
tác giả tập trung nghiên cứu vai trò của gia đình trong việc giữ gìn và phát
huy các giá trị truyền thống của dân tộc, coi văn hóa gia đình truyền thống
11

là nhân tố quan trọng trong việc củng cố sự bền vững gia đình, tạo nền
tảng cho sự bền vững xã hội.
Một số tác giả mở rộng nội dung văn hóa gia đình bao gồm tất cả các
vấn đề liên quan đến đời sống gia đình. Chẳng hạn như tác giả Lê Như Hoa
trong tác phẩm Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách
trẻ em, xét văn hóa gia đ
ình bao gồm các quan hệ đạo lý, chuẩn mực, khuôn
phép trong sinh hoạt, ứng xử, các quan hệ tổ chức, việc chăm sóc, giáo dục
con cái, phong tục tập quán về thờ cúng tổ tiên … Tác giả Tạ Văn Thành
trong tác phẩm Văn hóa gia đình và gia đình văn hóa cho rằng văn hóa gia
đình được thể hiện ra thành gia phong, truyền thống gia đình, dòng họ, cách
ứng xử văn hóa, bảo tồn nòi giống, nuôi con khỏe, dạy con ngoan…
Ngoài các vấn đề trên,
đề tài dân tộc và văn hóa dân tộc còn được các

tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong những công
trình nghiên cứu trên chưa công trình nào nghiên cứu đầy đủ, sâu sắc và có
hệ thống về việc giữ gìn và phát huy các giá trị của văn hóa dân tộc trong
quá trình xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam. Chính vì vậy, trong luận án
này, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu các công trình khoa học đã được công
bố, tác giả đi sâu nghiên cứu thực trạng của vi
ệc giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam, từ đó rút ra
các phương hướng và giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn
chế những mặt tiêu cực trong quá trình xây dựng văn hóa gia đình Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: Làm rõ những vấn đề lý luận chung về văn hóa
dân tộc, vă
n hóa gia đình, nghiên cứu thực trạng việc giữ gìn và phát huy giá
trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình, từ đó đề xuất những giải
pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy giá trị đó trong giai đoạn hiện nay.
12

Nhiệm vụ của luận án: để đạt được mục đích đặt ra, luận án thực hiện
các nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, trình bày khái luận chung về văn hóa dân tộc và văn hóa gia
đình Việt Nam hiện nay.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với
việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia
đình Việt Nam hiện nay
Ba là, xác đị
nh mục tiêu, phương hướng và giải pháp nhằm phát huy
giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án được trình bày trên cơ sở vận dụng các quan điểm lý luận,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng th
ời tham khảo, tiếp
thu có lựa chọn những thành tựu lý luận của thế giới về văn hóa dân tộc, gia
đình và văn hóa gia đình.
Trên cơ sở các tài liệu tham khảo, số liệu về giá trị văn hóa dân tộc,
văn hóa gia đình… tác giả đã kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau, trong đó phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và
lôgic, phương pháp khái quát hóa được sử dụng như là ph
ương pháp nghiên
cứu chủ đạo nhằm làm rõ thực trạng việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.
5. Những cái mới của luận án
- Luận án khái quát những giá trị văn hóa dân tộc được thể hiện trong
văn hóa gia đình ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng của việc giữ gìn và phát huy giá trị của văn hóa dân
tộc trong việc xây dựng văn hóa gia đ
ình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
13

- Đề xuất được phương hướng và các giải pháp nhằm phát huy tác
động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực đến việc xây dựng văn hóa gia
đình trong thời kỳ đổi mới theo hướng ấm no, tiến bộ và hạnh phúc.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án:
- Ý nghĩa khoa học: Luận án trình bày một cách có hệ thống về văn
hóa dân tộc, văn hóa gia đình và những vấn
đề cơ bản của gia đình truyền
thống Việt Nam.
Luận án góp phần khẳng định sự cần thiết khách quan phải nghiên

cứu vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình
xây dựng văn hóa gia đình ở nước ta hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng việc giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc, luận án trình bày phương hướng và giải pháp
góp phần gi
ữ gìn các giá trị văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa gia đình
Việt Nam theo hướng ổn định và phát triển.
Nội dung và kết quả của luận án là cơ sở khoa học góp phần hoạch định
các chủ trương, chính sách về xây dựng phát triển các giá trị văn hóa gia đình
đồng thời xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngoài ra, nội dung của luận án được sử dụng làm tài liệ
u tham khảo cho
những nơi nghiên cứu, giảng dạy về văn hóa dân tộc, văn hóa gia đình.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu gồm 03 chương, 07 tiết.





14

Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA,
VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM

1.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA, GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC
1.1.1. Quan niệm văn hóa

Văn hóa là một khái niệm đa tầng, đa nghĩa với ngoại diên rất rộng và
nội hàm phong phú. Cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về
văn hóa. Mỗi định nghĩa đều góp phần làm rõ khía cạnh khác của văn hóa,
song không phải định nghĩa nào cũng được chấp nhận một cách rộng rãi.
Thuật ngữ "văn hóa" xuất hiện từ rất sớ
m trong ngôn ngữ nhân loại
(xuất phát từ gốc chữ latinh "Cultura" - có nghĩa là trồng trọt, canh tác). Qua
các thời kỳ lịch sử, khái niệm văn hóa được bổ sung thêm những nội dung
mới. Trong khoảng vài chục năm trở lại đây đã có rất nhiều định nghĩa về
văn hóa. Các định nghĩa đó được hình thành trên cơ sở các phương pháp tiếp
cận khác nhau (như phương pháp nghiên cứu hệ thống - cấ
u trúc, hay
phương pháp nghiên cứu chức năng của văn hóa); hoặc cũng có thể xuất phát
từ quan điểm lịch đại xem xét văn hóa với tư cách là tiêu chí để phân định
các bước tiến bộ xã hội, hay từ quan điểm đồng đại xem xét văn hóa như là
một trong những tiêu chuẩn để so sánh (phân biệt) trình độ phát triển của các
quốc gia, v.v Cho đến nay, đánh giá một cách tổng thể, văn hóa vẫn là mộ
t
trong những khái niệm phức tạp và khó xác định. Do vậy, mỗi người, từ các
góc độ chuyên môn riêng hay do những mục đích nhận thức khác nhau mà
có những quan niệm hay định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Khái niệm văn hóa thường được tiếp cận ở hai cấp độ lý luận và thực
tiễn. Ở cấp độ lý luận, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần
15

do loài người (cá nhân và cộng đồng) sáng tạo ra để phục vụ sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo, vươn tới cái chân -
thiện - mỹ, vươn tới các giá trị nhân văn đem lại hạnh phúc cho con người.
Văn hóa là “thiên nhiên” thứ hai do con người tạo ra để phục vụ con người.
Ở cấp độ thực tiễn, văn hóa thể hiện trong toàn bộ hoạ

t động sống của con
người, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, phản ánh kiểu
lựa chọn sáng tạo của cá nhân và cộng đồng. Trong quá trình lịch sử, quan
niệm về văn hóa ở phương Đông và phương Tây có những điểm giống
nhau nhưng cũng có những điểm khác nhau.
Ở phương Đông, thuật ngữ văn hóa xuất hi
ện ở Trung Quốc từ rất
sớm. Quẻ Bí trong Chu dịch nói: “Quan sát dáng vở (văn) con người, lấy đó
để giáo hóa thiên hạ” trong đó đã bao hàm ý nghĩa văn và hóa. Khổng Dĩnh
Đạt trong cuốn Chu Dịch chính nghĩa, đã giải thích ý nghĩa câu ấy như sau:
ý nói bậc thánh nhân quan sát dáng vẻ con người, tức là Thi, Thư, Lễ, Nhạc,
theo đó để giáo hóa thiên hạ. Tuy vậy, “văn” không phải chỉ là cái bên
ngoài có thể thay đổi, mà nó còn có nguồ
n gốc linh thiêng, gắn với mệnh
Trời cho nên “văn” cũng là Đạo. Thánh nhân là người chịu mệnh Trời
đem “văn” để “hóa thành thiên hạ”. Đó là đạo “nội thánh ngoại vương”,
chức năng kép của văn hóa, vừa đáp ứng nhu cầu thế tục vừa đáp ứng nhu
cầu tâm linh. Vì vậy, thuật ngữ văn hóa không chỉ mang nội dung chính trị
mà còn mang cả nội dung tinh thần sâu sắc. Mục đích c
ủa học vấn là để
nắm vững thiên văn, địa văn và nhân văn, từ đó hướng tới tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ.
Ưu điểm nổi bật của cách hiểu phương Đông về khái niệm văn hóa là
nó hướng tới hoàn thiện đời sống tinh thần bên trong của con người, chú ý
xây dựng các cộng đồng theo một hệ thống chỉnh thể từ gia đình, dòng họ
tới
quốc gia, dân tộc. Hạn chế lớn nhất của nó là ở chỗ nó bị quy vào khung
16

“Mệnh Trời”, ít chú ý tới khuyến khích và giải phóng nhu cầu sáng tạo, cải

tạo hiện thực, mà chỉ lo noi gương, giữ gìn ổn định, kỷ cương phục cổ. Vì
vậy, một phương diện cơ bản của văn hóa là sáng tạo khoa học, phát triển
công nghệ cải tạo hiện thực, phát huy tính tích cực chủ động của con người
bị hạn chế. Do đó, khi giao lưu với phương Tây, khái ni
ệm văn hóa hiểu theo
cách của phương Tây mới du nhập nhanh chóng vào phương Đông, bổ sung
cho những thiếu hụt này.
Thuật ngữ văn hóa, theo quan niệm của châu Âu thì mãi thế kỷ XIX
mới du nhập vào châu Á, đầu tiên là từ Nhật Bản. Nhật Bản, từ thế kỷ VI và
VII đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc, trong đó có cả việc
tiếp nhận rất nhiều ngôn ngữ và vă
n tự Hán, rồi đồng hóa nó trong ngôn ngữ
và văn tự Nhật Bản.Từ sau phong trào Minh Trị duy tân [1868] cùng với
phát triển kinh tế - xã hội theo con đường tư bản chủ nghĩa phương Tây,
Nhật Bản đã tiếp nhận nhiều thành tựu nghiên cứu khoa học của châu Âu.
Các nhà khoa học, các tri thức Nhật Bản đã dịch nhiều thuật ngữ khoa học của
châu Âu ra tiếng Nhật Bản, vốn có nguồn gốc từ
tiếng Hán. Thấm sâu quan
niệm của phương Đông về văn hóa, Yukichi (1835 – 1910) là người đầu tiên đã
dùng từ văn hóa để dịch thuật ngữ Culture của Châu Âu sang tiếng Nhật.
Ở phương Tây, thuật ngữ văn hóa có gốc từ tiếng Latinh là “Cultus”.
Văn hóa có nghĩa là: “Trồng trọt” được dùng theo hai nghĩa: trồng trọt ngoài
đồng ruộng và trồng trọt tinh thần. Như vậy, ngay từ thời cổ đại, văn hóa
đã
được quan niệm là những hoạt động gắn liền với giáo dục, đào tạo con
người, bồi dưỡng, chăm sóc để con người ngày càng hoàn thiện hơn về
nhân cách (của cá nhân và của cộng đồng). Mặc dù vậy, từ thời kỳ phục
hưng của phương Tây trở lại đây, khái niệm văn hóa mới được quan tâm
nghiên cứu như một thuật ngữ khoa học mới. Thờ
i kỳ phục hưng là thời kỳ

xuất hiện một cuộc vận động văn hóa rộng lớn và sâu sắc lôi cuốn cả châu
17

Âu từ giữa thế kỷ XIV. Do sự phát triển của các đô thị, do sự mở rộng thị
trường thế giới, nhờ việc phát minh ra châu Mỹ và con đường biển sang Ấn
Độ, những mầm móng tư bản chủ nghĩa đang hình thành trong lòng chế độ
phong kiến. Cuộc vận động văn hóa này đã làm nảy sinh những “con người
khổng lồ” như Đăngtơ của Ý, Xécvăngtét ở
Tây Ban Nha… Họ là những
người hướng tới xây dựng một nền văn hóa mới nhằm giải phóng con người
thoát khỏi những ràng buộc của thần quyền và vương quyền, khẳng định
quyền lực trí tuệ, khả năng sáng tạo của con người trong thế giới hiện thực.
Tư tưởng đó dần dần được chuyển vào từ điển của các nước phương Tây và
nhấn mạnh đến khía cạnh trí tuệ, sáng tạo và tinh thần nhân bản của con
người. Sự đa dạng của các định nghĩa về văn hóa bắt nguồn từ sự đa dạng
trong cách tiếp cận, do đó dẫn đến những cách hiểu khác nhau về khái niệm
này. Dominique Wolton đã nêu ra ba cách hiểu khái niệm văn hóa trong một
số ngôn ngữ chính của phương Tây: i) Văn hóa theo nghĩa cổ của Pháp chỉ
sự
sáng tạo, chỉ các tác phẩm; ii) Văn hóa trong tiếng Đức gần với văn minh,
bao hàm các giá trị, các biểu tượng và di sản được công nhận và chia sẻ
trong một số cộng đồng người nhất định; iii) Trong tiếng Anh, văn hóa mang
tính nhân học hơn và bao gồm cả lối sống, phong cách, cách cư xử thường
ngày, hình ảnh và những điều thần bí.
Như vậy, lược qua lịch sử phát triển của khái niệm v
ăn hóa, từ xưa
đến nay, ở phương Đông cũng như phương Tây, chúng ta thấy xuất phát từ
sự vận động khách quan của đối tượng nghiên cứu, các nhà khoa học văn hóa
đã vượt qua các định nghĩa duy danh, tìm các phương pháp tiếp cận khác
nhau để đi sâu vào bản chất của khái niệm.

Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác rất quan tâm đến vấn đề văn hóa.
Mặc dù trong toàn bộ các tác phẩm kinh điể
n đồ sộ của mình, C. Mác không
để lại một tác phẩm nào với tư cách là sự trình bày hệ thống các quan điểm
18

của mình về văn hóa. Tuy nhiên toàn bộ tư tưởng của C. Mác về vấn đề này
tự nó lại được khái quát lên và thể hiện ra trong hệ thống các quan điểm duy
vật biện chứng của C.Mác về con người và xã hội. Trong triết học Mác, bản
chất của văn hóa được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng với bản chất
của con người và xã hội. Đến Lênin, vấn đề v
ăn hóa và vai trò của văn hóa
càng được chú ý hơn. Lênin nhận thức rõ vị trí to lớn của vấn đề văn hóa.
Người nhận thức sâu sắc rằng mọi sự trì trệ yếu kém trong tổ chức kinh tế,
trong quản lý xã hội của đất nước đều bắt nguồn từ trình độ văn hóa thấp kém
trong đội ngũ cán bộ và nhân dân. Người đòi hỏi phải quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục, và n
ếu cần thì phải cắt giảm kinh phí của các bộ, các ngành để dành
cho giáo dục.
Thuật ngữ văn hóa có rất nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái
niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng
theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống
văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai
đoạn
(văn hóa Đông Sơn), “Đề cương về văn hóa Việt Nam” của Đảng Cộng
sản Đông Dương năm 1943 đã xếp văn hóa bên cạnh kinh tế, chính trị và
xem nó bao gồm cả tư tưởng, học thuật (khoa học, giáo dục), nghệ thuật. Ủy
ban UNESCO của Liên hiệp quốc thì xếp văn hóa bên cạnh khoa học và giáo
dục, tức là đặt hai lĩnh vực này ra ngoài khái niệm v
ăn hóa.Văn hóa không

chỉ gắn liền với xã hội, với tự nhiên mà còn gắn với sự phát triển của chính
bản thân con người; gắn với các phương thức hoạt động, các thiết chế nền
tảng của đời sống xã hội như thiết chế lao động, thiết chế tín ngưỡng, thiết
chế gia đình… Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: Đối với
một số ng
ười, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác trong các lĩnh vực tư duy
và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm
cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại

×