Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Vị trí, chức năng gia đình đối với xã hội những biến đổi của quá trình xây dựng gia đình ở việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.71 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ.....................................................................................2
1.1. Biến đổi trong các mối quan hệ cơ bản của gia đình....................2
1.1.1. Hơn nhân và quan hệ hơn nhân...................................................2
1.1.2. Quan hệ huyết thống...................................................................2
1.1.3. Quan hệ quần tụ...........................................................................3
1.2.

Vị trí gia đình trong xã hội..........................................................3

1.2.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mơ, kết cấu,
hình thức tổ chức và tính chất của gia đình...........................................3
1.2.2. Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối
giữa cá nhân với xã hội.........................................................................4
1.3.

Các chức năng cơ bản của gia đình............................................5

1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người...........................................5
1.3.2. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình.........................5
1.3.3. Chức năng giáo dục của gia đình................................................6
1.3.4. Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia
đình........................................................................................................6
CHƯƠNG II: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI...................................7
2.1. Những biến đổi của gia đình Việt Nam..........................................7
2.1.1. Gia đình là giá trị quan trọng hàng đầu.......................................7




2.1.2. Gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị truyền
thống, vừa tiếp thu yếu tố hiện đại........................................................8
2.1.3. Các giá trị truyền thống và xu hướng dịch chuyển sang các giá
trị hiện đại trong tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời.......................................9
2.1.4. Gia đình truyền thống và mức độ chấp nhận cởi mở dần với một
số hiện tượng hơn nhân gia đình mới..................................................10
2.1.5. Gia đình hiện đại và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng
đồng.....................................................................................................11
2.2. Một số tồn tại trong gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ....12
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI......................................................................................................14
3.1. Phương hướng xây dựng gia đinh trong thời kỳ quá độ............14
3.2. Giải pháp xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
Xã hội......................................................................................................15
3.3. Trách nhiệm của bản thân đối với gia đình trong thời kỳ quá độ
lên CNXH...............................................................................................17
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................19


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Gia đình khơng chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế
của xã hội. Gia đình có vai trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trị quyết
định đối với sự hình thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị
tốt đẹp của gia đình được tiếp nhận, phát triển góp phần xây dựng, tơ thắm,
làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định:

“Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành
nhân cách, góp phần chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khỏe, lao
động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”.
Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp
nếu có một mơi trường xã hội tốt. Mơi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình,
mỗi tế bào của xã hội. Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm
của gia đình mình, có trách nhiệm ni dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp
cho xã hội những cơng dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia
tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai
chất lượng cao. Gia đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng
lao động cho xã hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến lao
động trí óc... đều được sinh ra, nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Do đó, sau một thời gian tìm hiểu, tơi đã lựa chọn đề tài “ Vị trí, chức năng
Gia đình đối với xã hội Những biến đổi của quá trình xây dựng gia đình ở
Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa Xã hội. Phương hướng và
giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay” Để có cái nhìn sâu và
rộng hơn.


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
1.1. Biến đổi trong các mối quan hệ cơ bản của gia đình
1.1.1. Hơn nhân và quan hệ hơn nhân
Hơn nhân là hình thức quan hệ tính giao của con người, chỉ có ở con
người, nên ngay từ đầu, hôn nhân đã mang bản chất người, nhân văn và nhân
đạo. Sự phù hợp về tâm lý, sức khoẻ và nhất là trạng thái tình cảm, ngay từ
đầu đã là cơ sở trực tiếp của hôn nhân, mang lại bản sắc đặc thù của quan hệ
hôn nhân. Tuy nhiên, như mọi quan hệ xã hội khác, hôn nhân luôn chịu sự chi

phối của các quan hệ kinh tế và bản chất chế độ xã hội mà trên đó nó được
hình thành và phát triển. Vì vậy, hôn nhân trong bất cứ thời đại nào cũng có
thể và cần phải được xã hội thừa nhận, ở những mức độ, trình độ khác nhau.
Trong chế độ tư hữu và các xã hội có sự phân chia giai cấp, sự thừa nhận đó
được thể hiện về mặt pháp luật, bên cạnh sự thừa nhận của cộng đồng, của các
chuẩn mực văn hoá và lối sống của truyền thống trong cộng đồng. Sự phù hợp
về trạng thái tâm lý, tình cảm, lối sống giữa đơi nam nữ trước khi đi đến hôn
nhân và là cơ sở trực tiếp cho hơn nhân được gọi là tình u. Cũng như hơn
nhân, tình yêu của mỗi thời đại, mỗi giai cấp và tầng lớp, mỗi dân tộc và cộng
đồng tâm lý văn hố cũng có những giá trị và chuẩn mực riêng, với những
biểu hiện riêng, cụ thể và sinh động.
1.1.2. Quan hệ huyết thống
Do nhu cầu hết sức tự nhiên cần duy trì và phát triển nịi giống, con
người đã sáng tạo ra gia đình với tính cách một thiết chế xã hội. Trong gia
đình, cùng với quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống được coi là một quan
hệ cơ bản nhất. Tuy nhiên, ngay cả quan niệm về quan hệ này cũng có những
thay đổi theo tiến trình lịch sử. Những sự thay đổi ấy được quy định, chịu sự
chi phối của các điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị của xã hội. Mặt khác,


quan hệ huyết thống ấy cũng gia nhập, đan xen vào các quan hệ kinh tế - xã
hội và chính trị xã hội của mỗi thời đại. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ,
huyết thống về đằng mẹ được coi như chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc gần
xa. Khi ấy, gia đình được xây dựng trên cơ sở huyết thống mẫu hệ. Gia đình
theo huyết thống về đằng cha (gia đình phụ hệ) được coi như một sự phủ định
đối với gia đình mẫu hệ được hình thành và phát triển cùng với sự xuất hiện
chế độ tư hữu. Những biểu hiện của bất bình đẳng trong quan hệ nam nữ dù ở
mức độ thấp (gia đình mẫu hệ) đến mức độ cao hơn và ngày càng gay gắt hơn
(gia đình phụ hệ: gia đình chủ nơ, gia đình phong kiến gia trưởng, gia đình tư
sản) chỉ có thể được khắc phục trong điều kiện khi mà chế độ tư hữu bị xố

bỏ, chế độ sở hữu cơng cộng (công hữu) đối với các tư liệu sản xuất được xác
lập.
1.1.3. Quan hệ quần tụ
Ngay từ đầu, xuất phát từ yêu cầu được đặt ra trong quan hệ với tự
nhiên và giữa con người với nhau, cộng đồng gia đình đã ln cư trú, quần tụ
trong một khơng gian sinh tồn. Lúc đầu là trong một hang đá, hốc cây... sau là
trong một mái nhà... Dù không gian sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và chịu sự
chi phối của các quan hệ kinh tế - xã hội, nhưng nhu cầu quần tụ vẫn luôn
được đặt ra, cho dù ngày nay, khái niệm không gian sinh tồn của gia đình
khơng cịn giữ ngun nghĩa như một giới hạn địa lý thuần tuý. Cho dù sự can
thiệp, mức độ quan tâm giữa các thành viên gia đình đã được xã hội thay thế,
đảm nhận ở mức độ đáng kể, sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên, các
thế hệ trong mỗi gia đình khơng vì thế mà mất đi. Trái lại nó được củng cố,
được thực hiện nhờ những thiết bị, phương tiện và tiện nghi ngày càng hiện
đại, đầy đủ hơn.


1.2.

Vị trí gia đình trong xã hội

1.2.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu, hình
thức tổ chức và tính chất của gia đình
Quan điểm duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình
thức phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế.
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất cộng sản nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã lần
lượt thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy
mơ và kết cấu cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể - quần hơn
với các hình thức huyết thống, đối ngẫu, gia đình cặp đơi bước sang hình thức

gia đình cá thể, một vợ một chồng; từ gia đình một vợ, một chồng bất bình
đẳng, chỉ về phía người phụ nữ, người vợ sang gia đình một vợ, một chồng
ngày càng bình đẳng giữa nam - nữ, giữa các thành viên trong gia đình. Tất cả
những bước tiến đó của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết vào những
bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi thời đại.
1.2.2. Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa cá
nhân với xã hội
Thông qua các hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia
đình, mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại
đối với những tác động của xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính
sách... của xã hội. Sự đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động
từ xã hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia
đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội
Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được ni
dưỡng, chăm sóc để trở thành công dân của xã hội, lao động cống hiến và
hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thơng qua gia đình và


với gia đình. Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan
trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các
hoạt động lao động của xã hội. Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý
xây dựng gia đình. Xây dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu
thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát
triển của chính xã hội.
1.3.

Các chức năng cơ bản của gia đình


1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu
tồn tại của chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu
rất tự nhiên, chính đáng của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ
dân cư... và nhiều yếu tố khác liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ
phát triển kinh tế, xã hội... Vì vậy sinh đẻ của mỗi gia đình khơng chỉ là việc
riêng của gia đình mà cịn là một nội dung quan trọng của mỗi quốc gia và
toàn nhân loại. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có kế
hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là
mục tiêu, động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
1.3.2. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện
(có sở hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một
đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo trong kinh tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính
sách sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt
động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình cơng nhân
viên chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn
nghệ sỹ... cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập
chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy khơng


trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một
nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp
ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó kích thích sự phát
triển hoạt động kinh tế của xã hội.
1.3.3. Chức năng giáo dục của gia đình
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối tồn diện, cả giáo dục tri
thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm

mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng,
song chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng khơng
ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo
dục xã hội đóng vai trị ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng
có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn
khơng thể thay thế. Giáo dục gia đình cịn bao hàm cả tự giáo dục. Do đó, chủ
thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với
con cháu.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn
thiện thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo dục nhà trường
và giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được
coi là một thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Giáo dục gia đình ln
trở thành bộ phận quan trọng, hợp thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi
ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại nào, khi xã hội còn giai
cấp và phân chia giai cấp.
1.3.4. Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia đình.
Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức năng
khác tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhiều vấn đề
phức tạp liên quan đến giới tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế hệ, những căng
thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và công tác... nhiều khi
có thể được giải quyết trong một mơi trường gia đình hồ thuận. Sự hiểu biết,


cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu tâm sinh lý giữa vợ - chồng, cha
mẹ - con cái... làm cho mỗi thành viên có điều kiện sống lạc quan, khoẻ mạnh
về thể chất và tinh thần là những tiền đề cần thiết cho một thái độ, hành vi
tích cực trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ
thuộc vào vị thế, lứa tuổi... đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng
nói trên. Trong đó, người phụ nữ có vai trị đặc biệt quan trọng, bởi họ là

người do đặc thù tự nhiên - sinh học, đảm nhận và thực hiện một số thiên
chức không thể thay thế. Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử, phụ nữ là những
người vất vả, cực nhọc và chịu nhiều thiệt thòi nhất cả trong quan hệ xã hội
lẫn trong quan hệ gia đình. Do đó, giải phóng phụ nữ được coi là một mục
tiêu quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ gia
đình.
CHƯƠNG II: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Những biến đổi của gia đình Việt Nam
Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những biến
chuyển quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc
điểm mới, hiện đại và tự do hơn. Quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội
nhập và giao lưu văn hóa làm xuất hiện những quan điểm cởi mở hơn về hôn
nhân và gia đình Việt Nam.
2.1.1. Gia đình là giá trị quan trọng hàng đầu
Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc
sống, sau đó là sức khỏe, việc làm, thu nhập, bạn bè, học vấn, thời gian giải
trí, địa vị, tín ngưỡng tơn giáo và chính trị.


Có thể thấy, gia đình và hôn nhân là một giá trị quan trọng ở Việt Nam
và là thiết chế xã hội phổ biến. Phần lớn những người được hỏi vẫn khẳng
định tầm quan trọng của hơn nhân, theo đó, thanh niên đến tuổi trưởng thành
nhất thiết cần lập gia đình. Quan điểm của nhóm những người chưa kết hơn
cho thấy xu hướng hôn nhân vẫn là xu hướng chủ đạo trong tương lai (với
80,5% số người chưa kết hôn cho biết sẽ “kết hơn, có gia đình”, 46,2% cho
rằng “thanh niên đến tuổi trưởng thành phải lập gia đình”; tỷ lệ người đồng ý
với việc sống độc thân thấp hơn nhiều so với số người không đồng ý).
2.1.2. Gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị truyền

thống, vừa tiếp thu yếu tố hiện đại
Trong số các giá trị đạo đức, tâm lý, tình cảm của gia đình, giá trị
chung thủy là giá trị rất được coi trọng trong quan hệ hôn nhân và gia đình,
được người dân đánh giá cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình u thương,
bình đẳng, có con, chia sẻ việc nhà, hịa hợp, có thu nhập. Kết quả khảo sát
cho thấy, có tới 41,6% coi chung thủy là “quan trọng”, và 56,7% coi chung
thủy là “rất quan trọng” trong hôn nhân. Đồng thời, nghiên cứu cho thấy hiện
tượng bảo lưu những tiêu chuẩn kép khắt khe với phụ nữ và xu hướng vị tha
hơn cho nam giới trong vấn đề chung thủy (giá trị “chung thủy quan trọng
hơn với phụ nữ” có tỷ lệ đồng ý cao là 66,2%). Điều này cho thấy, chung thủy
vẫn là thước đo phẩm giá của người phụ nữ khi họ được kỳ vọng là nhân tố
giữ gìn cho sự êm ấm, tốt đẹp của gia đình và xã hội.
Giá trị tình yêu là một giá trị bảo đảm sự bền vững của hôn nhân, nhất
là hôn nhân hiện đại dựa trên tình u để kết hơn. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, khơng có sự khác biệt theo giới tính, tuổi, học vấn trong đánh giá tầm
quan trọng của tình yêu với sự gắn kết hôn nhân (trong số người được khảo
sát có 89,7% số người được hỏi cho rằng tình yêu là quan trọng và rất quan
trọng). Thực tế khảo sát cũng cho thấy tỷ lệ người đánh giá thấp tiêu chí này
nhất thuộc về nhóm người trẻ nhất, người dân tộc Kinh, người đi làm, người


sống ở đơ thị, ở các khu vực có đời sống kinh tế phát triển và mức độ hiện đại
hóa cao.
Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại. Đa số người dân đánh giá
khá cao tầm quan trọng của bình đẳng, cho thấy gia đình Việt Nam đang thích
ứng với sự thay đổi của xã hội hiện đại, ủng hộ bình đẳng giới trong quan hệ
vợ chồng. Cùng với đó là những thay đổi trong quan niệm về việc sống chung
hoặc riêng trong gia đình. Sự xuất hiện các nhân tố mới, như di cư lao động,
tôn trọng tự do cá nhân, sự độc lập về kinh tế giữa bố mẹ và con cái trong đời
sống gia đình hiện đại cũng góp phần làm chuyển dịch từ gia đình lớn nhiều

thế hệ (ơng bà - cha mẹ - con cháu) sang gia đình nhỏ (1 hoặc 2 thế hệ).
Hiện nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm quan trọng của
trách nhiệm, chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là việc chia sẻ những mối
quan tâm, lắng nghe tâm tư, suy nghĩ của các thành viên trong gia đình. Các
gia đình có mức độ hiện đại hóa càng cao, mang nhiều đặc điểm hiện đại, như
sống ở đơ thị, có việc làm, có học vấn cao, mức sống cao, các khu vực kinh tế
phát triển hơn thì các giá trị chia sẻ và trân trọng càng được các cặp vợ chồng
thể hiện rõ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, người phụ nữ vẫn chưa bình đẳng
thực sự với nam giới, thể hiện trong tỷ lệ được người chồng chia sẻ, lắng nghe
tâm tư và chia sẻ suy nghĩ. Các gia đình được khảo sát ở khu vực Đơng Nam
Bộ đạt điểm số trung bình cao nhất trong các hoạt động chia sẻ, lắng nghe
những mối quan tâm, tâm tư của vợ/chồng. Cịn nhóm nữ giới, dân tộc thiểu
số, có mức sống thấp, ở nơng thơn, học vấn thấp thì có tỷ lệ cao trong việc
cho rằng bạn đời coi thường hoặc đánh giá thấp việc ứng xử hằng ngày hoặc
đóng góp của họ đối với gia đình.
2.1.3. Các giá trị truyền thống và xu hướng dịch chuyển sang các giá trị hiện
đại trong tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
Cùng với việc coi trọng giá trị gia đình, các tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
của người Việt Nam vẫn nghiêng về các giá trị truyền thống nhưng đang có


xu hướng dịch chuyển sang các giá trị mang tính cá nhân và hiện đại. Có thể
thấy, tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của người dân được khảo sát ưu tiên các
phẩm chất về tư cách, đạo đức hơn là các tiêu chuẩn về ngoại hình hay tiêu
chuẩn về kinh tế.
Như vậy, có thể thấy, nếu chia tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời theo nhóm
giá trị cá nhân (tình u, hình thức, thu nhập, cơng việc, học vấn) và giá trị
tập thể (gia đình tương đồng, sự chấp thuận của bố mẹ, cùng địa phương,
cùng dân tộc) thì các giá trị cá nhân trong chọn lựa bạn đời là xu hướng nổi
bật hiện nay, nhất là với nhóm có đặc điểm hiện đại, như học vấn cao, sống ở

thành thị.
2.1.4. Gia đình truyền thống và mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số
hiện tượng hơn nhân gia đình mới
Các kiểu loại gia đình mới như hơn nhân đồng giới, chung sống không
kết hôn, làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc khơng có
trong truyền thống nhưng lại có xu hướng gia tăng trong các xã hội đang
chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, hiện đại. Ở Việt
Nam hiện nay, một bộ phận người dân, chủ yếu là người dân tộc Kinh, trẻ
tuổi, học vấn cao, ở thành thị có tỷ lệ chấp nhận những kiểu loại gia đình mới
cao hơn, tuy rằng có thể chưa thực sự hiểu rõ những hệ quả tiêu cực của nó.
Với những thay đổi lớn trong kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế,
những hình thức hơn nhân gia đình mới ủng hộ tính cá nhân có xu hướng
tăng. Nghiên cứu cho thấy 38,5% người trả lời chấp nhận sống độc thân - mức
độ này được chấp nhận cao hơn ở nữ giới và nhóm xã hội mang nhiều đặc
điểm hiện đại; 28,4% có nhu cầu, mong muốn sống thử trước khi kết hôn;
58,3% không ủng hộ sống thử. Tỷ lệ này cho thấy nhóm người vẫn theo
khn mẫu truyền thống trong kết hơn tuy vẫn chiếm tỷ lệ cao nhưng khơng
mang tính gần như tuyệt đối như trong xã hội truyền thống trước đây.


Gần đây, hôn nhân đồng giới là vấn đề gây ra tranh cãi gay gắt giữa
những người ủng hộ và khơng ủng hộ. Hơn nhân đồng tính mới được chấp
nhận dè dặt, chỉ có 27,7% người đồng ý, phần lớn ở nhóm mang nhiều đặc
điểm hiện đại.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ khơng lấy chồng
nhưng có con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia
đình. Hiện nay, hơn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người
phụ nữ. Tuy vậy, cùng với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây cộng với quyền
cá nhân ngày càng được pháp luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng có quyền
quyết định việc kết hơn và có con. Quyền làm mẹ không chỉ thể hiện sự biến

đổi trong nhận thức mà còn là biểu hiện của sự nhân văn trong bảo vệ quyền
của phụ nữ.
2.1.5. Gia đình hiện đại và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng
Quan hệ của gia đình với dịng họ trong xã hội Việt Nam hiện nay còn
khá chặt chẽ, gắn kết, mức độ gắn kết mạnh mẽ hơn ở nhóm mang những đặc
điểm truyền thống (như cao tuổi, học vấn thấp, nghèo, cư trú ở nơng thơn);
thể hiện ở số gia đình đồng ý cao với nhận định mỗi gia đình, thành viên cần
ln gắn kết với dịng họ để giúp đỡ lẫn nhau, đạt điểm trung bình 4,04 theo
thang đo 5 điểm, coi trọng việc giữ gìn nền nếp gia phong cho con cháu, đạt
điểm trung bình 4,17 theo thang đo 5 điểm.
Thực tế cho thấy có xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng
theo mức độ hiện đại hóa. Ở một chừng mực nhất định, những giá trị truyền
thống về tình làng nghĩa xóm vẫn được duy trì. Điều này cho thấy tính liên
tục của các giá trị văn hóa nhưng cũng đã có những biểu hiện mới ở thế hệ trẻ
về thái độ đối với quan hệ tình cảm và quan hệ vật chất giữa các thành viên
trong gia đình và cộng đồng. Trong khi người cao tuổi đề cao việc ứng xử có
lễ nghĩa, có trước có sau trong mọi hồn cảnh thì nhiều thanh niên lại gắn


khía cạnh kinh tế với khía cạnh tình cảm, hạnh phúc gia đình. Họ cho rằng
khơng thể có hạnh phúc nếu khó khăn về kinh tế.
So với điểm trung bình về mức độ gắn kết với dòng họ, mức độ gắn kết
giữa gia đình với cộng đồng thấp hơn. Chẳng hạn, điểm trung bình về nhận
định “bạn bè xóm giềng giúp đỡ bất cứ khi nào tôi cần” là 3,52/5 điểm, khá
thấp so với nhiều giá trị về quan hệ gắn kết với cha mẹ, anh chị em và dòng
họ. Một chiều quan hệ khác của gia đình với cộng đồng là mức độ tham gia
các hoạt động cộng đồng của gia đình và thành viên gia đình. Kết quả cho
thấy, điểm trung bình tham gia các hoạt động cộng đồng là 3,54, trên ngưỡng
trung bình một chút, cho thấy, tính cộng đồng của người dân Việt Nam đang
trên đà suy giảm.

Tình làng nghĩa xóm theo nghĩa được giúp đỡ, hỗ trợ thể hiện nhiều
hơn ở nhóm các gia đình mang đặc điểm hiện đại thấp hơn. Điểm trung bình
về mức độ sẵn sàng hy sinh lợi ích vì cộng đồng của gia đình Việt Nam trong
diện được khảo sát là 3,60, không quá cao, nhưng cũng không quá thấp. Điều
đáng chú ý là, mức độ sẵn sàng vì tập thể, vì cái chung cao hơn ở khu vực có
mức độ hiện đại thấp hơn, tức là khu vực còn duy trì tính cộng đồng cao hơn.
Mức độ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì cái chung giảm dần theo đồn hệ
tuổi, cho thấy càng nhóm trẻ, mức độ chấp nhận tính cộng đồng, tính tập thể
càng thấp, tính cá nhân càng cao. Chiều hướng này cũng tương tự nếu nhìn
theo mức độ chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân vì cái chung theo trình độ học
vấn của người trả lời và mức sống. Sự chấp nhận giá trị cộng đồng, giá trị tập
thể cao hơn ở những nhóm có đặc điểm truyền thống hoặc yếu thế hơn.
Như vậy, các kết quả nghiên cứu về giá trị gia đình Việt Nam hiện nay
cho thấy có sự dịch chuyển từ các giá trị gia đình truyền thống sang giá trị gia
đình hiện đại, đồng thời có sự bền vững tương đối của văn hóa trong q trình
hiện đại hóa.


2.2. Một số tồn tại trong gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ
Thời đại mới lại mang đến nhiều giá trị tiến bộ cần tiếp nhận như sự
bình đẳng nam nữ, bình đẳng trong nghĩa vụ trách nhiệm, dân chủ trong các
mối quan hệ gia đình, tơn trọng tự do và lợi ích cá nhân... Điều cần thiết là
phải biết tiếp thu một cách có chọn lọc các tinh hoa, giá trị tiên tiến của gia
đình hiện đại đồng thời bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống quý báu
và cải biến, loại bỏ những giá trị cũ khơng cịn phù hợp. Nếu thực hiện tốt
được điều đó thì gia đình Việt Nam sẽ có cơ hội để phát triển theo xu hướng
bình đẳng, tiến bộ, ấm no và hạnh phúc.
Tuy nhiên, ngay trong khuôn khổ những hệ giá trị của gia đình cũng sẽ
khơng tránh khỏi sự xung đột giữa những giá trị mới tiến bộ cần thu nhận và
những giá trị cũ lỗi thời cần loại bỏ. Điều đó cũng góp phần thúc đẩy sự biến

đổi về quy mơ của gia đình Việt Nam. Cịn nhân tố chủ yếu quyết định sự
biến đổi vẫn là xung đột trong các quan hệ xã hội, thách thức đặt ra cho gia
đình Việt Nam là mâu thuẫn giữa các thế hệ. Với việc trong một gia đình có
ba bốn hay thậm chí là năm thế hệ cùng chung sống, ngồi những ưu điểm thì
cũng tồn tại khá nhiều những điều bất tiện. Mâu thuẫn giữa các thế hệ diễn ra
do có sự khác biệt về tuổi tác, tư tưởng, quan niệm, lối sống sẽ làm cho các cá
nhân cảm thấy gị bó mất tự do khi cùng chung sống với nhau, cuộc sống của
gia đình ln đặt trong tình trạng căng thẳng. Người già thường hướng về các
giá trị truyền thống, do vậy họ có xu hướng bảo thủ, áp đặt nhận thức và cách
nghĩ của mình đối với những người trẻ. Điều đó dẫn đến sự khó hịa hợp về
lối sống, đơi khi có thể dẫn đến những sự va chạm, bất đồng, khiến cho những
người trẻ cảm thấy khơng thoải mái, khơng thể tự mình quyết định các vấn đề
riêng mà phải thông qua ý kiến những người lớn tuổi. Trong khi đó lớp trẻ do
tiếp cận nhiều hơn với các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các trào lưu văn hóa
mới từ nước ngồi nên hướng tới thay đổi về suy nghĩ và nhận thức, họ trở


nên độc lập hơn, cái tôi cá nhân phát triển hơn, họ muốn được tự do nói lên
những suy nghĩ của mình, tiếp thu những giá trị hiện đại.
Lẽ tất nhiên là những cái mới không phải đều chứa đựng yếu tố tích
cực, tốt đẹp, khó tránh được có những cái không phù hợp với truyền thống,
bởi vậy cần tiếp thu có chọn lọc. Lớp trẻ khi nhận được sự góp ý của người
già thì cảm thấy khó chịu, cho rằng những người già là cổ hủ, lạc hậu, thích
dạy bảo. Sự chênh nhau về thế hệ này khiến cho xu hướng tách ra ở riêng tăng
cao, khi đó mỗi cá nhân sẽ thỏa mãn được nhu cầu tự do của riêng mình, có
thể hành động theo ý muốn của bản thân. Một gia đình chỉ có hai thế hệ: cha
mẹ - con cái tất nhiên sẽ tồn tại ít xung đột hơn so với một gia đình có ba, bốn
thế hệ. Việc những xung đột thế hệ ngày càng trở nên phổ biến làm cho gia
đình truyền thống cũng dần mất đi và đến bây giờ chỉ còn tồn tại với số lượng
rất ít.

CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
3.1. Phương hướng xây dựng gia đinh trong thời kỳ quá độ
Chiến lược xác định, mục tiêu chung trong giai đoạn này là “xây dựng
gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người,
là tế bào lành mạnh của xã hội”. Ba mục tiêu cụ thể của chiến lược bao gồm:
Trước hết, nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí, trách nhiệm của gia
đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật về hơn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phịng, chống bạo lực gia
đình (PCBLGĐ), ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình. Với
mục tiêu này, các bộ, ngành và các cấp chính quyền cần đầu tư nguồn lực để
đạt các chỉ tiêu cơ bản như: Đến năm 2020, đạt 95% trở lên số hộ gia đình
được phổ biến, tuyên truyền và cam kết thực hiện tốt chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật về hơn nhân và gia đình, bình đẳng giới, PCBLGĐ,


ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; 95% số nam, nữ thanh
niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức cơ bản về gia đình, PCBLGĐ;
hằng năm, trung bình giảm từ 10% - 15% số hộ gia đình có bạo lực gia đình,
giảm 10% - 15% số hộ gia đình có người mắc tệ nạn xã hội, 15% số hộ gia
đình có người kết hơn dưới tuổi pháp luật quy định (khu vực khó khăn và đặc
biệt khó khăn giảm 10%).
Mục tiêu thứ hai là kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình
trong xã hội phát triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các
thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có
thai, nuôi con nhỏ. Các chỉ tiêu cụ thể cơ bản bao gồm: Đến năm 2020, đạt
85% trở lên (khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn đạt 75% trở lên) số hộ
gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; 95% số hộ gia đình dành thời gian

chăm sóc, dạy bảo con, cháu, tạo điều kiện cho con, cháu phát triển tồn diện
về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, không phân biệt con, cháu là trai hay
gái; đạt 95% số hộ gia đình thực hiện chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo ơng,
bà, chăm sóc cha, mẹ, phụ nữ có thai, ni con nhỏ; đạt từ 98% trở lên số hộ
gia đình có người trong độ tuổi sinh đẻ được tuyên truyền và thực hiện đúng
chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, khơng phá thai vì giới tính của
thai nhi.
Mục tiêu thứ ba là nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh
tế, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập
và phúc lợi, đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận
nghèo theo quy định là mục tiêu thứ 3. Một số chỉ tiêu sau cần đạt vào năm
2020 như: 95% trở lên số hộ gia đình được cung cấp thơng tin về chính sách,
pháp luật phúc lợi xã hội dành cho các gia đình chính sách, gia đình nghèo;
95% trở lên số hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo được cung cấp kiến thức, kỹ
năng để phát triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai, khủng hoảng kinh


tế; hằng năm, tăng 10% số hộ gia đình, thành viên trong gia đình được thụ
hưởng các dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục và dịch vụ hỗ trợ gia đình, hỗ trợ
thành iên gia đình.
3.2. Giải pháp xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã
hội
Để thực hiện thành công các phương hướng của chiến lược trên, nhiều
giải pháp cụ thể đã được đề ra. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, đối với công tác lãnh đạo, tổ chức, quản lý, xác định cơng tác
gia đình là một nội dung quan trọng trong các kế hoạch, chương trình cơng
tác thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền. Các chỉ tiêu xây dựng,
phát triển gia đình thuộc các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
và của các địa phương; chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ.
Việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính được hết sức chú trọng, ưu tiên

nguồn lực cho vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng miền núi còn nhiều tập tục
lạc hậu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với đó là cơng tác kiểm tra
việc thi hành luật pháp chính sách...
Thứ hai, tăng cường công tác truyền thông vận động nhằm nâng cao
nhận thức của các cấp, các ngành, gia đình và cộng đồng về vị trí, vai trị của
gia đình trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về chủ trương, luật pháp, chính sách của
Đảng, Nhà nước liên quan đến gia đình; về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của
các gia đình, các cơ quan, những người thi hành cơng vụ liên quan đến gia
đình để bảo đảm, thúc đẩy việc thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách
của Đảng, Nhà nước liên quan đến gia đình.
Thứ ba là giải pháp giáo dục, cung cấp kiến thức về xây dựng gia đình
như kỹ năng sống; trách nhiệm của nam giới đối với cơng việc trong gia đình,
việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong gia đình; trách nhiệm thực hiện nếp


sống văn minh, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; xây dựng tình làng nghĩa
xóm, đồn kết, giúp đỡ, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện tốt chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; cảnh báo các nguy cơ và hậu quả
về mất cân bằng giới tính khi sinh...
Thứ tư là giải pháp thực hiện các chính sách, chương trình về an sinh
xã hội. Hỗ trợ các gia đình, đặc biệt là các gia đình đồng bào dân tộc thiểu số,
gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng gặp nhiều khó khăn phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống. Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề.
Thứ năm là giải pháp xây dựng mạng lưới cung cấp dịch vụ gia đình.
Kiện tồn và nâng cao chất lượng dịch vụ gia đình kết hợp với biện pháp quản
lý, tác động cần thiết bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng, phát huy hiệu
quả của các dịch vụ.
Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa cơng tác gia đình. Các hoạt

động hợp tác song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế,
trong đó ưu tiên các hoạt động nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo về
hoạch định chính sách, quản lý, kỹ thuật, chuyển giao cơng nghệ, tuyên
truyền, giáo dục và cung cấp dịch vụ có chất lượng cũng được hết sức quan
tâm
3.3. Trách nhiệm của bản thân đối với gia đình trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Đối với nhiều người, tình cảm cao cả và thiêng liêng nhất chính là tình
cảm gia đình. Tình cảm ấy luôn nhắc nhở cá nhân tôi, phận làm con phải có
trách nhiệm với gia đình. Trách nhiệm có nghĩa là mỗi người cần phải ý thức
tự giác làm những gì mình được giao và những gì người khác muốn mình
làm, cụ thể ở đây chính là ơng bà, cha mẹ. Đó là bổn phận mà con cái phải
hồn thành, đây cũng chính là đạo làm con từ xưa đến nay. Mỗi con người


cần phải xác định rõ và thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với người nhà.
Bởi trên thế gian này, khơng có tình thương u nào sánh bằng tình thương
yêu của cha mẹ dành cho con. Nó lớn lao như núi cao biển rộng. Vì thế, mỗi
người con đều phải có trách nhiệm làm trịn chữ hiếu để khơng phụ lòng cha
mẹ.
Vậy phận làm con chúng ta phải làm gì để hồn thành tốt trách nhiệm
của mình? Bổn phận lớn nhất của con cái là phải biết vâng lời cha mẹ, nghe
theo những lời hay lẽ phải của cha mẹ. Trong quãng thời gian đại học, chúng
ta cần học tập thật tốt để có thể xây dựng một tương lai tươi đẹp cho bản thân,
không phụ công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Ngoài ra cần biết tránh xa những
thói hư tật xấu của xã hội và rèn luyện những đức tính tốt đẹp cho bản thân
như cư xử đúng mực với những người xung quanh, tôn trọng mọi người,
khơng xa hoa đua địi.. Và quan trọng hơn hết, chúng ta phải biết quan tâm,
chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ từ những việc nhỏ nhất. Đó là tất cả những gì mà
một người con phải có trách nhiệm thực hiện để làm trịn chữ hiếu của mình.

Người phương Đơng nói chung, Việt Nam nói riêng, đặc biệt xem trọng chữ
hiếu.



×